Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesVietUniĐăng kýĐăng Nhập
Bài viết mới
Những Bài Giảng Hay Thầy Thích Pháp Hoà by mytutru Yesterday at 20:28

Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 20:15

Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Yesterday at 16:18

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN by Trà Mi Yesterday at 10:41

TRUYỆN KIỀU CÓ TRƯỚC ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH, VÀ LÀ CỦA VIỆT NAM ??? by Trà Mi Yesterday at 10:27

Lục bát by Tinh Hoa Yesterday at 07:21

PHÁP VIỆN MINH ĐĂNG QUANG TĂNG NI & Đại Chúng by mytutru Yesterday at 00:55

SƯ TOẠI KHANH (những bài giảng nên nghe) by mytutru Sat 16 Mar 2024, 20:15

Xem tướng mạo đàn ông ngoại tình, lăng nhăng by Trà Mi Sat 16 Mar 2024, 10:05

Putin dối trá khi trả lời Tucker Carlson by Trà Mi Fri 15 Mar 2024, 11:39

Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Fri 15 Mar 2024, 11:20

Chùm thơ "Có lẽ..." by Tú_Yên tv Fri 15 Mar 2024, 11:09

Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Fri 15 Mar 2024, 11:07

7 chữ by Tinh Hoa Fri 15 Mar 2024, 03:27

Một thoáng mây bay 12 by Ai Hoa Thu 14 Mar 2024, 09:55

BẮT CÁ TRỜI MƯA by Phương Nguyên Wed 13 Mar 2024, 20:48

5 chữ by Tinh Hoa Wed 13 Mar 2024, 07:56

Tiến Trình Tu Học Phật - Thành Phật by mytutru Mon 11 Mar 2024, 23:17

Tập Mỗi Ngày by mytutru Mon 11 Mar 2024, 22:48

Lan ĐV 8 by buixuanphuong09 Mon 11 Mar 2024, 11:06

SẦU LY BIỆT by Phương Nguyên Mon 11 Mar 2024, 08:02

LỀU THƠ NHẠC by Phương Nguyên Sun 10 Mar 2024, 08:39

MỪNG NGÀY 08.03 by Phương Nguyên Sun 10 Mar 2024, 08:21

Chỉn by Trà Mi Sat 09 Mar 2024, 12:30

Lỗi 404 by mytutru Fri 08 Mar 2024, 11:09

Thể Tánh Muôn Loài by mytutru Tue 05 Mar 2024, 23:44

5-8-8-8 by Tinh Hoa Tue 05 Mar 2024, 03:32

Còn mãi duyên thầy by buixuanphuong09 Mon 04 Mar 2024, 13:37

Con Đường Tâm Mytutru TKN Đào Liên by mytutru Sat 02 Mar 2024, 12:09

Hoa Sen Ao Sen by mytutru Sat 02 Mar 2024, 08:27

Tự điển
* Tự Điển Hồ Ngọc Đức



* Tự Điển Hán Việt
Hán Việt
Thư viện nhạc phổ
Tân nhạc ♫
Nghe Nhạc
Cải lương, Hài kịch
Truyện Audio
Âm Dương Lịch
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
Đăng Nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập: 
:: Quên mật khẩu

Share | 
 

 Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Chuyển đến trang : 1, 2  Next
Tác giảThông điệp
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch Empty
Bài gửiTiêu đề: Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch   Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch I_icon13Fri 07 May 2021, 07:31


Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch Captur12


Tây sương ký (西廂記, truyện ký mái Tây), còn có tên đầy đủ là Thôi Oanh Oanh đãi nguyệt Tây sương ký (崔鶯鶯待月西廂記, truyện về Thôi Oanh Oanh chờ trăng dưới mái Tây), là vở tạp kịch của Vương Thực Phủ, sáng tác trong khoảng những năm Đại Đức (1297-1307) đời Nguyên Thành Tông (1295-1307), miêu tả cuộc tình duyên vượt qua môn đăng hộ đối và lễ nghi phong kiến của Thôi Oanh Oanh và chàng thư sinh Trương Quân Thụy. Tác phẩm được Lý Trác Ngô (1527 - 1602) viết lời tựa và Kim Thánh Thán (1608 - 1661) viết lời bình.

Lời dịch giả

Vở Tây Sương Ký tôi dịch đây nguyên là một vở tuồng Tàu. Người viết vở tuồng ấy là Vương Thực Phủ (người đời Nguyên).

Cũng như tất cả các nhà viết tuồng ở Đông phương hay Tây phương, thường lấy một truyện xưa làm "lam bản", họ Vương viết vở tuồng này lấy truyện "Hội Chân ký" làm lam bản. Hội Chân có nghĩa là "gặp tiên". Nhưng "tiên" ở đây chỉ là một nàng tiên sa xuống cõi trần, nghĩa là một người con gái đẹp thôi vậy. Người viết truyện Hội Chân là Nguyên Vi Chi, một thi sĩ tề danh và là bạn thân với Bạch Lạc Thiên đời Đường. Trong truyện chép sự gặp gỡ của Trương Quân Thụy cùng Thôi Oanh Oanh. Nhưng người đời sau, bằng vào các thơ từ, các bia văn của họ Nguyên cùng của những danh sĩ cùng thời đó, thì vai Quân Thụy chẳng phải là ai, mà lại chính là Nguyên Vi Chi.

Vậy thì "Hội Chân ký" chỉ là Vi Chi ghi lại một chuyện tình của mình trong lúc thiếu thời. Sở dĩ phải mượn tên người khác, chỉ là vì trong chuyện có một đôi điều bất đạo đức mà người viết không tiện tự nhận mà thôi.

Theo vào "Hội Chân ký" họ Vương viết vở Tây Sương Ký. Hai chuyện khác nhau nhất là ở đoạn cuối; Hội Chân thì kết quả là ly biệt, mà Tây Sương Ký kết quả là đoàn viên (thêm 4 chương cuối cùng).

Đoàn viên – như lời bác sĩ Hồ Thích - ấy là một cái "mê tín" của bao nhiêu nhà tiểu thuyết nước Tàu từ trước đến giờ! Tuy nhiên cái sáo ấy nó hơi ngấy cho những người có quan niệm văn học cao hơn! Vì vậy, Thánh Thán (một nhà phê bình văn học nổi tiếng đời Minh-Thanh) mới võ đoán mà cho rằng 4 chương cuối của Tây Sương Ký không phải là do Vương Thực Phủ viết. Ông cho rằng một nhà văn đại tài đã viết nổi 16 chương đầu của vở này, đâu lại có "trẻ con" mà viết thêm 4 chương đoạn cuối. Vậy, cái đoạn cuối ấy chỉ là của một tay dốt nát hiếu sự, muốn đem đuôi chó mà "nối điêu"! Ấy là ý của riêng ông. Chứ những danh sĩ trước ông như Lý Trác Ngô, sau ông như Hồ Thích, thì đều công nhận Tây Sương Ký là hay, mà đều không dị nghị gì về bốn chương ấy cả. Theo ý bác sĩ họ Hồ, thì cái quan niệm về văn nghệ đời Nguyên chưa được tiến bộ cho lắm. Vì vậy, ta không lạ gì một người như Vương Thực Phủ sau khi đã vẽ xong con rắn Tây Sương lại thêm cho nó bốn cái chân ngộ nghĩnh và nặng nề! Vả lại, ta cũng không có gì là chứng cớ chắc chắn để chứng ra rằng bốn cái chân ấy vẽ ra chẳng phải tự ngọn bút họ Vương. Lời võ đoán của Thánh Thán chẳng qua vì quá yêu Thực Phủ thôi vậy.

Để nguyên bản của Tây Sương ký không bị sai lạc với tích cũ của Hội Chân ký, khi dịch bản này, tôi bỏ qua không dịch 4 chương cuối. Vả lại người đọc sẽ có thêm được cảm giác lai láng, bồi học khi đọc xong cuốn sách này. Đến như việc dịch, chỗ nào nguyên văn là văn xuôi tôi sẽ dịch ra văn xuôi, chỗ nào nguyên văn là từ khúc, tôi sẽ dịch sang các thể lục bát hay lục bát gián thất. Ý tôi mong muốn gặp được một người thông thạo có thể lựa các câu văn vần của tôi dịch, theo các giọng hát tuồng, hát chèo, và đưa vở này lên sân khấu... Nhưng đó là chuyện về sau này. Còn giờ đây, tôi giới thiệu với các bạn chuyện Hội Chân ký, lam bản của vở Tây Sương.

Nhượng Tống
Viết trên “Pho Mãn Lâu”
Đêm 25 tháng 01 năm 1942

Tựa của Lý Trác Ngô

Người viết vở "Mái Tây" là thợ trời. Người viết vở "Tỳ Bà" chỉ là thợ vẽ. Người thợ vẽ, có thể cướp được cái khéo của thợ trời. Nhưng thực ra thợ trời nào có khéo đâu!

Trăm giống hoa, trời sinh nó, đất nuôi nó, người ta thấy nó đem lòng yêu. Nhưng tìm xem cái khéo ở chỗ nào thì đố tìm ra được! Có lẽ tại ta không đủ thông minh để tìm ra đấy! Nên biết rằng thợ trời vốn không khéo. Dẫu thần thánh cũng không tìm ra cái khéo ấy! Mà ai tìm được đâu! Cứ thế mà suy, thì thợ vẽ khéo cho mấy nữa, cũng vẫn là hạng kém.

Việc viết văn, để tấc lòng lại nghìn đời, đáng thương biết mấy! Mà như điều tôi biết thì; giống ngựa lướt mây, đuổi chớp, quyết không quan hệ ở mầu lông; con người hẹn ngọc thề vàng, há dễ phân bì học thức! mà hạng văn như làn gió thoảng qua trên mặt nước, nào phải hay đâu vì một chữ, một câu! Đến như cấu kỹ, đối chọi khéo, nghĩa lý phải chăng, lời lẽ phép tắc, đầu cuối hợp nhau, sự thực theo nhau, những cái vặt ấy đều dùng để nói chuyện văn, nhưng không thể dùng để nói chuyện những áng văn thật hay của thiên hạ được!

Các vở hát của tạp kịch viện đều là những vở tuyệt hay cả. Vở "Mái Tây" viết có khéo đâu! Viết khéo thì thực không vở nào bằng vở "Tỳ Bà"! Người viết vở Tỳ Bà thực đã đem hết tài, hết sức mà viết. Vì người viết đã cố viết cho thật khéo, không còn dư tài sức nữa, nên lời hết thì ý cũng hết, mà văn đọc xác ra không còn ý vị gì! Tôi đã từng ôm cây tỳ bà mà đàn vở ấy chơi. Đàn một lượt thấy dạ bùi ngùi. Đàn hai lượt thấy người thổn thức. Đàn ba lượt thì thấy cái bùi ngùi, thổn thức lúc trước không còn thấy nữa! Tại làm sao vậy? Có lẽ tại nó như thật nhưng chưa được thật, cho nên không cảm sâu vào được lòng người! Vì rằng cái khéo dù đến đâu nữa, cũng chỉ thấm đến da ta, thịt ta, xương máu ta. Cho nên chỉ cảm ta được đến thế thôi, có lấy gì làm lạ. Vở "Mái Tây" thì không thế. Trong khoảng trời đất này vốn có những đáng yêu như thế. Họ viết văn cũng như thợ trời lặn muôn loài, cái khéo của họ ta không thể tìm biết được? Vả chăng những kẻ thật biết văn ở đời, ban đầu định vào viết văn! Chỉ vì trong bụng họ có một chuyện lạ lùng, quái gở. Bên lòng họ có một món "khạc chẳng ra, nuốt chẳng vào"! Cửa miệng họ lại thường thường có những câu muốn nói mà không biết nói với ai! Những cái đó chất chứa đã lâu ngày, không thể nén được nữa. Một buổi sớm kia, cảnh vật gợi trêu, tình riêng rạo rực, họ mới: giật chén rượu trong tay người, tưới khối hận trong đời mình! Kể lể hết nỗi lòng uất ức: tiếc thương cho số phận chông chênh! Thế là văn họ đã đủ cho tài nhả ngọc, phun châu, át cả bóng sông Ngân mà sáng rực trời rồi! Kể ra họ cũng tự phụ lắm! cho nên mới phát điên, phát cuồng, khóc to, gào lớn không sao nín đi được. Thà rằng để cho kẻ nghe, kẻ đọc, nghiến răng, trợn mắt, muốn đem mình ra mà băm vằm, mổ xả! Chứ không nỡ đem văn mình mà dìm xuống nước, ném vào lửa, hay giấu kín vào non xanh! Tôi đọc vở này mà tưởng tượng ra người viết. Con người ấy, lúc ở đời, trong khoảng bạn hữu vua tôi, tất có điều gì bất mãn lắm? Cho nên mới mượn chuyện nhân duyên tan hợp của đôi vợ chồng để nói cho hả một đôi phần. Vì thế mới than giai nhân là khó tìm, khen Trương sinh là may mắn, giận thói đời hay lật lường coi người đời như rác bẩn! Tức cười nhất là một bức thư tình con con, mà dám cho là có tài hơn bao nhiêu danh sỹ? Thơ Nghiêu Phu có câu: "Đường, Ngu nhường nhịn ba be rượu; Thang, Vũ nhung nhăng một cuộc cờ?" Đường, Ngu, Thang, Vũ, sự nghiệp to tát thế nào! Thế mà lại coi như ba be rượu với cuộc cờ? Than ôi! Xưa nay các bậc anh hùng, đều như thế cả. Trong cái nhỏ họ tìm thấy cái lớn. Trong cái lớn họ tìm thấy cái nhỏ. Họ muốn quay bánh xe phép ở giữa một hạt bụi, dựng chùa thờ Phật ở đầu một chiếc lông! Không phải nói đùa đâu, chí lý là thế. Nếu ai không tin thì những lúc sân vắng trăng soi, chiều thu lá rụng, phòng văn vắng vẻ, thao thức một mình, thử đem chương "ý đàn" mà gẩy đi, gẩy lại coi! Sẽ thấy trong đó có kho vô tận, không thể tưởng tượng mà nói ra được. Đến như cái khéo thì dễ biết lắm! Trời ơi! Ước gì tôi được gặp một người như người viết vở "Mái Tây".

Lời dẫn truyện của Thánh Thán


- Mái Tây là gì?

- Là tên sách.

- Sách sao lại đặt tên là Mái Tây?

- Sách cốt để chép chuyện: Có chuyện ấy nên có sách ấy: Không có chuyện ấy tất không có sách ấy. Nay trong sách ấy có chuyện, mà chuyện xảy ra ở Mái Tây, nên đặt tên nó là Mái Tây. Mái Tây là khu nhà phía Tây chùa Phổ Cứu. Mà chùa Phổ Cứu thì là một tòa công đức lớn, lập nên do đức bà Kim Luân hoàng đế đời Vũ Chu. (tức Võ Tắc Thiên)

Chùa Phổ Cứu có cái Mái Tây. Phía Tây Mái Tây ấy lại có một cái biệt thự. Biệt thự gần chùa nhưng không thuộc về chùa, vì là của quan Tướng quốc họ Thôi bỏ lương tháng làm ra. Nguyên trước có nhà sư Pháp Bản, là người mà quan Tướng quốc đỡ đầu, tức là đồ đệ của quan Tướng quốc. Ngài nhân nghĩ đến một ngày kia ta được thôi quan để nhường lối cho người tài giỏi, thì gậy tre, dép cỏ, trừ cửa Phật ra ta biết chơi đâu. Thế nhưng ngài muốn mình làm người khách tình cờ, chứ không muốn đồ đệ làm ông chủ tình cờ. Vì thế mới chiếm lấy cảnh chùa ấy, để làm nơi tĩnh dưỡng cho ông lão. Nào ngờ đâu khi lạc thành cầu đảo không khéo, chẳng nghe tiếng hát, lại nghe tiếng khóc; chẳng được đem đai ngọc làm đẹp cho cửa Không, mà lại đem minh tinh đưa đường cho người vợ góa … Vì thế mà bà lớn mới có thể quàn linh cữu ngay trong chùa. Cho nên Mái Tây là lớp nhà ở phía tây chùa Phổ Cứu. Mà phía Tây Mái Tây lại có nơi biệt thự, thì là chỗ bà lớn ở tang. Thế rồi: vì tang mà người đẹp ở, vì người đẹp ở mà tài tử ở... Tài tử ở Mái Tây ấy là vì người đẹp ở phía tây Mái Tây. Người đẹp ở phía tây Mái Tây, là vì tang ở đấy; mà tang ở phía tây Mái Tây, thực ra là vì ở đấy quan Tướng quốc có làm một nơi biệt thự riêng. Vì quan Tướng quốc làm biệt thự ở phía tây Mái Tây, mà Mái Tây bên chùa Phổ Cứu mới có chuyện … Đến nỗi vì có chuyện để ra có sách để cho muôn nghìn, muôn đời, người ta truyền nói vô cùng. Thế thì bỏ tiền lương ra làm biệt thự lại có thể không cần thận mà được sao! Thánh Thán sở dĩ nói thế là vì có hai cớ:

Cớ thứ nhất: Cốt cứu người thiên hạ, phải cẩn thận về "nhân duyên"... Phật dạy rằng: "Nhất thiết ở cõi đời, đều sinh ra bởi "nhân". Có nhân thì được sinh; không có nhân thì rút lại không sinh. Chưa từng thấy có nhân mà không sinh, không nhân mà lại tự nhiên sinh. Cũng chưa từng thấy nhân đậu sinh ra dưa, hay nhân dưa mà sinh ra đậu. Cho nên đức Như Lai dạy các kiện nhi, chớ có tạo nhân. Than ôi! Có không sợ sao được. Tục ngữ nói: "Cha báo thù thì con ăn cướp!" Nghĩa là: kẻ báo thù tất phải giết người; đến đời con nó, không thấy mang thù, chỉ thấy giết người, thì nó cũng tập giết người chơi! Giết người rồi, nhà nước bèn đem pháp luật buộc nó. Nó sợ vướng pháp luật bèn trốn mạng vào trong rừng rú. Trong rừng rú không kiếm ăn vào đâu được, bất đắc dĩ lại lấy sự giết người làm nghề nghiệp! Như vậy thì thù ta cũng chớ có trả. Vì Thánh Thán hiện đã thấy những chuyện đó luôn luôn... Hiện đã thấy đời cha vì nửa đời kém vui, mượn đàn sáo khuây khỏa nổi lòng. Thế mà chỉ chớp mắt là đời con đã tay cầm sênh phách, lần cửa hát rong! Như thế thì Tạ Thái Phó ta cũng chớ có nên học! Hiện đã thấy đời cha rạc người vì lo phiền, mượn chén rượu ngọt, trốn vào làng say! Thế mà chỉ chớp mắt là đời con đã chửi càn bị đánh, ngã xe gẫy tay! Như thế thì Nguyễn Tự Tôn ta cũng chớ có nên học! Hiện đã thấy đời cha ở nhà nhiều lụy, sang chùa thăm sư, nói chuyện qua về kinh sách. Thế mà chớp mắt là đời con đã dắt díu lũ trọc, làm ô lọa cả buồng the! Như thế thì Trương Vô Cấu ta cũng chớ nên có học! Hiện đã thấy đời cha mong xa lánh cuộc đời, chăm chỉ ruộng vườn, trông cày coi cấy. Thế mà chớp mắt là đời con đã gánh phân, theo trâu, mặt mắt nhem nhọ! Như thế thì Đào Uyên Minh ta cũng chớ có nên học! Kìa như quan Thôi Tướng quốc hồi bấy giờ bỏ tiền lương làm biệt thự, nhất thời các tân khách ở trong tiệc, ai là không tấm tắc khen người hiền: thế mới thực ngoài mặt Tể tướng mà trong lòng Bồ Tát! Vậy mà không hay, không biết, chính ngài, sau khi mất, đã làm viễn nhân cho câu chuyện dưới trăng ở Mái Tây! Chẳng thế thì ta đổ cho Song Văn (tên tự của Oanh Oanh) gây chuyện sao? Hay ta đổ cho tài tử gây chuyện sao? Đổ cho Song Văn, Song Văn không tạo nhân. Đổ cho tài tử, tài tử không tạo nhân. Vậy thì câu chuyện dưới trăng ở my, chẳng phải quan Tướng quốc tạo nên nhân, thì còn ai vào đấy nữa! Than ôi! người ta sinh trong trời đất, cất chân đặt tay, còn có một ly một tý gì là có thể cứ làm bừa đi mà được? Một cớ nữa là dạy người đời về thể lập ngôn: kìa như bà lớn thì là một vị nhất phẩm phu nhân nghiêm trang giữ lễ; còn Song Văn thì là một trang sắc nước nghìn vàng. Cho đến con Hồng nhất thời cũng là một nhan sắc thượng lưu. Mà Phổ Cứu thì là một tòa chùa lớn ở Phủ Hà Trung, lớp trong lớp ngoài, tăng đồ kể hơn nghìn cũng có. Lại thêm người vãn cảnh tứ xứ, khách lễ bái thập phương, họp lại như mây, kéo đến như nước. Trong chỗ đó, mắt họ trông, tay họ chỉ, lòng họ động, miệng họ nói, ta có thể liệu biết thế nào được! Nay người già chưa thật già, người bé cũng không còn bé, tuy là trong cảnh sô quy tang tóc, song cao sang đài các, có phải là vẻ thường quen mắt cho kẻ ngoài đâu! Vậy mà nghiễm nhiên mà không rủ, trướng không che, ở chen vào đấy, bà lớn kia có dễ là một bà vãi nhà quê sao, nếu không thì sao lại không biết giữ lễ đến như thế? Cho nên Thánh Thán xét kỹ ý tác giả, thì thực là phía tây Mái Tây, lại có riêng một biệt thự. Biệt thự ấy ở gần chùa, là để có lối vì cây dây quấn. Biệt thự ấy không thuộc vào chùa, là để giữ kẽ cho Song Văn. Người quân tử lập ngôn, dù là viết tuồng nữa, cũng cần đắc thế. Đáng kính biết mấy!
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch   Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch I_icon13Fri 07 May 2021, 07:40

Đề mục chung

Rể giường Đông, cậu Trương phè phỡn.
Mái chùa Nam, sư Bản tu hành.
Trên thềm Bắc bà bầy tiệc ngọc.
Dưới Mái Tây cô đợi trăng thanh.

Phần I

Bà lớn vườn xuân truyền mở cửa
Oanh Oanh đêm vắng lén dâng hương,
Con Hồng nhỏ ra vào tin tức,
Cậu Trương mê quấy rối đàn trường.

Chương I
GẶP GỠ

Cảnh thứ nhất: Trong biệt thự họ Thôi

BÀ LỚN - (Cùng Oanh Oanh, Con Hồng, cậu Hoan cùng ra). Nói:
Già đây họ Trịnh, Ông lớn tôi ngày trước họ Thôi, làm chức Tướng Quốc trong triều, chẳng may mắc bệnh vừa mới mất. Chúng tôi hiếm, chỉ được có con Oanh Oanh đây là gái, năm nay mười chín tuổi: Thơ, từ, tính, viết, thêu, dệt, nữ công, nó đều thông thạo cả. Lúc ông lớn tôi còn, đã hứa gả nó cho Trịnh Hằng, cháu gọi tôi bằng cô, con cả ông Thượng Trịnh. Vì dở dang nên nó còn chưa cưới! Con bé này tên gọi Con Hồng, hầu hạ con tôi từ nhỏ. Còn thằng Hoan đây là con nuôi ông lớn tôi. Ông lớn tôi mất, mẹ, con tôi đưa linh cữu về quê nhà ở Bác Lăng. Nhưng đường xá trắc trở, còn chưa đi được ngay. Đến đây là phủ Hà Trung, hãy đưa linh cữu quàn tạm trong chùa Phổ Cứu. Chùa này là công đức của bà Võ Tắc Thiên hạ sắc cho xây dựng. Sư cụ trong chùa là Pháp Bản, vốn là một nhà sư thế thân cho ông lớn tôi. Vì vậy nhà tôi có làm một lớp nhà riêng ở phía Tây chùa, có thể tạm ở được. Một mặt tôi viết thư vào kinh, gọi Trịnh Hằng ra đưa cả nhà vào Bác Lăng. Nghĩ như lúc ông lớn tôi còn, bàn ăn khoát thượng, người hầu kể trăm. Vậy mà bây giờ ruột thịt chí thân, chẳng qua chỉ quanh quẩn có vài, ba đứa này! Ai mà dễ cầm lòng thương cảm. Hát:

Biết chăng ông dưới suối vàng?
Con côi, vợ góa, bước đường chông gai!
Quê nhà thăm thẳm phương trời,
Xe châu hãy tạm gác ngoài cửa Không.
Tưới hoa lệ đẫm giọt hồng!

Hôm nay chiều trời cuối xuân, thấy mệt người quá! Con Hồng xem vườn trước có vắng, đưa cô ra đứng chơi một lúc giải trí, đi con!
CON HỒNG - Dạ!
OANH OANH – Hát:

Bơ vơ đất khách xuân tàn!
Lạnh lùng, chùa vắng tam quan chặt cài!
Nhuộm hồng nước chảy hoa rơi,
Sầu riêng trăm mối, ngậm ngùi gió Đông.

(Bà lớn cùng các vai vào cả)

Cảnh thứ hai: Trên đường bờ sông Hoàng Hà.

CẬU TRƯƠNG –(Cùng hề ra). Nói:
Tôi họ Trương tên Củng, tự là Quân Thụy. Quê nhà ở Tây Lạc. Cha tôi trước, Thượng Thư bộ Lễ. Còn tôi công danh chưa đạt, du học bốn phương. Hôm nay là thượng tuần tháng hai năm thứ mười bẩy niên hiệu Trinh Nguyên. Tôi vào kinh để nay mai dự kỳ thi Hội. Tôi có người bạn cũ họ Đỗ tên Xác tự là Quân Thực, cùng tôi cùng huyện, cùng học, lại từng kết nghĩa anh em. Về sau anh tôi bỏ văn học võ, thi đậu võ Trạng Nguyên, hiện cầm mười vạn quân đóng giữ Bồ Quan, lĩnh chức Chinh Tây Nguyên soái. Giờ tôi hãy sang thăm anh tôi một chuyến. Rồi hãy vào Kinh, cũng chẳng muộn gì. Nghĩ như tôi: song huỳnh án tuyết, nghiệp văn chương học đã nên tài! Vậy mà: bèo dạt, mây trôi, chí hồ hải bao giờ cho được, a?
Hát:

Sóng thu cất giấu gươm thần!
Buồn xuân đè nặng mấy lần yên thêu!

Bạch:

Chút nợ cầm thư trả chửa xong!
Chỉ nào buộc được gót hoa bồng?
Trời xa, xa thật nhìn còn thấy!
Thăm thẳm Trường An mỏi mắt trông!

Hát:

Dùi mài kinh sử bao công!
Làm thân con mọt sách, long đong thôi có ra gì!
Đất trường thi, ngồi đã nhẵn lì!
Mực mài, nghiên sắt mòn đi mấy phần?
Đường mây chín vạn, muốn chen chân,
Mười năm án tuyết phải nhọc nhằn sớm trưa!
Chí to, thời không gặp, bằng thừa!
Tài cao, người thế chẳng ưa cũng hèn!
Chắc đâu không tủi bút thẹn nghiên,
Văn chương rẻ giá, sách đèn uổng công.

Nói: Đường đi đã đến bên Hoàng Hà rồi đây! Trông mà coi: hình thế mới đẹp làm sao!
Hát:

Cả chín khúc là đâu chưa kể,
Riêng chốn này hình thế đã hiên ngang!
Chẹn U, Yên, ngăn Tần, Tấn, rẽ Tề, Lương,
Bề hiểm trở thật khôn lường, hiếm có.
Lớp sóng bạc ngất trời tung vỗ:
Mây chiều thu khép mở không thường!
Dịp cầu xanh trước bến nghênh ngang:
Rồng mặt nước nhẹ nhàng uốn khúc!
Suốt Nam, Bắc, Đông, Tây đỡ dốc,
Ngang trăm sông mà dọc chín châu!
Con thuyền ai thấp thoáng bóng về đâu:
Lìa cánh nỏ, ruổi mau tên mới bắn!
Sông Ngân mới từ Trời sa xuống hẳn?
Nguồn treo cao, cao tận chín tầng trên!
Bể Đông đường ấy đã quen.
Thấm muôn cánh rộng, tưới nghìn thức hoa!
Muốn vin cành quế cung nga,
Buông chèo đường ấy biết là có nên?


Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch Captur13


Cảnh thứ ba: Trước quán trọ.

CẬU TRƯƠNG Nói: - Nói chuyện thế mà đã vào tới trong thành. Cửa hàng coi mới lịch sự sao? Hề đâu! Dắt ngựa đây! Chủ quán đâu? Chủ quán!
CHỦ QUÁN (ra) Nói: - Bẩm quan! Chính nhà cháu là chủ cái quán Trạng Nguyên này! Mời quan vào nghỉ chân! Quán nhà cháu có phòng nằm sạch sẽ lắm!
CẬU TRƯƠNG - Nếu vậy, dọn cho trọ vào hạng nhất. Bác quán! Lại tôi hỏi: Ở đây có chỗ nào đi chơi cho giải trí không?
CHỦ QUÁN - Miền nhà cháu đây có tòa chùa Phổ Cứu là công đức của bà Võ Tắc Thiên. Chùa làm lộng lẫy lắm: Các khách quan qua lại, ai cũng phải vào xem - Bẩm quan! Chỉ có đấy là đáng vào chơi hơn cả.
CẬU TRƯƠNG - Hề đâu! Xếp hành lý vào, tháo yên cương cho ngựa! Ta sang chơi bên ấy một lát.
HỀ - Dạ! (vào cả).


Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch Captur14


Cảnh thứ tư: Chùa Phổ Cứu, bên vườn hoa họ Thôi.

PHÁP THÔNG (ra) Nói: - Tiểu tôi là Pháp Thông, học trò cụ Pháp Bản chùa Phổ Cứu. Hôm nay cụ tôi đi làm chay vắng, dặn tôi ở lại chùa, có ai đến thì nhớ về bạch cụ. Nào! Tôi thử ra ngoài cửa đứng, xem có ai đến không nào!
CẬU TRƯƠNG (ra) Ngâm:

Đường quanh, lối vắng đi vào.
Cỏ hoa cửa Phật đón chào khách chơi.

Nói: - Này, đã đến chùa rồi đây! (Cúi chào Pháp Thông).
PHÁP THÔNG – A di đà Phật! Thầy mới ở đâu lại chơi?
CẬU TRƯƠNG – Tôi là người Tây Lạc, qua đây nghe tiếng chùa ta là một nơi thắng cảnh, nên vào đây trước là lễ Phật, sau nữa hầu thăm sư cụ.
PHÁP THÔNG – Sư cụ tôi đi vắng. Tôi là đồ đệ, tên gọi Pháp Thông. Xin mời thầy vào phương trượng xơi nước!
CẬU TRƯƠNG – Sư cụ đi vắng thì thôi xin cũng đừng cho uống nước. Phiền sư ông dẫn cho đi vãn cảnh một lượt thôi.
PHÁP THÔNG – A di đà Phật!
CẬU TRƯƠNG – (vãn cảnh): Nói: - Chùa làm đẹp thật!
Hát:

Trên điện Phật dạo chơi đã hết
Dưới phòng tăng xem biết đã tường
Trước mặt, kìa là gác chuông!
Này nơi nhà tổ, nọ buồng cơm chay!
Hành lang dạo đó đây hồ khắp.
Vào động rồi, lên tháp xa trông.
Phật tiền khấn vái đã xong.
Xem bà mụ thiện, lễ ông Thánh Hiền.

Nói: - Kìa lại còn một tòa chùa nữa! Để tôi sang vãn cảnh một thể!
PHÁP THÔNG – (nắm áo cậu Trương giữ lại) Ấy chết! Bên ấy là biệt thự nhà quan Thôi Tướng Quốc. Xin thầy ở lại đây thôi!
CẬU TRƯƠNG – (nhác trông thấy Oanh Oanh và con Hồng thơ thẩn ở vườn hoa).

Ví không duyên nợ kiếp xưa.
Kiếp này hồ dễ tình cờ xui nên!
Mắt trông kể vạn, kể nghìn,
Con người đẹp thế, đã nhìn thấy ai!
Mắt hoa miệng những nghẹn lời,
Thần hồn tơi tả, lưng trời bay xa!
Nói năng đùa cợt mặc ta!
Nghiêng vai chỉ bứt bông hoa mỉm cười!
Phải chăng đây là cảnh Bồng lai?
Sao tôi lại gặp con người thần tiên!
Trâm hoa cài lệch một bên,
Mặt xuân mừng, giận càng nhìn càng say.
Mày in trăng mới xinh thay,
Cong cong bên mái tóc mây rườm rà!
Sượng sùng miệng chửa nói ra.
Răng là ngọc chuốt, môi là son tươi,
Lâu lâu mới nói nên lời,
Véo von oanh hót bên ngoài lớp hoa!

OANH OANH - Hồng ơi! Ta đi vào trong bà đi!
CẬU TRƯƠNG:

Chân tay mềm mại nõn nà,
Bước đi êm ả, trông mà thấy yêu!
Dịu dàng yểu điệu trăm chiều,
Như cành liễu trước gió chiều thướt tha.

(Oanh Oanh cùng con Hồng vào)

Cánh hồng rải lối bước qua,
Bụi thơm in vết hài hoa rành rành!
Kể chi khóe mắt long lanh,
Chân đi cũng đã hữu tình với ai!
Dùng dằng bước một bước hai,
Khuất mành mới thật đôi nơi cách trùng.
Rõ ràng như thế, phải không?
Bảo sao tôi chẳng trong lòng mê tơi!
Gót tiên cách nẻo trần ai,
Bâng khuâng phong cảnh vắng người buồn tanh!
Buồn trông khói liễu xanh xanh!
Buồn nghe đàn sẻ trước mành xôn xao!
Vườn hoa lê cửa đóng lúc nào!
Tường cao, cao quá! kể cao bằng trời!
Trách trời sao chẳng chiều người?
Làm khuây chẳng được, đứng lười không đang!
Nghĩ hươu, tính vượn trăm đường.
Hương lan còn thoảng, tiếng vàng đã xa.
Gió lay cành liễu la đà.
Tơ hồng vướng vít cánh hoa tơi bời!
Rèm châu lấp lánh mặt người!
Nuốt thầm nước bọt! trông hoài nẻo xa!
Ai bảo dinh quan Tướng phủ Hà?
Tôi thì rằng: chính chùa đức phật bà Quan Âm
Mai đây gió bắt mưa cầm.
Bệnh tương tư sẽ đau ngầm tận xương!
Hại thay cặp mắt như gương,
Liếc ai trong lúc bàng hoàng quay đi!
Dẫu người sắt đá tri tri,
Dễ cầm lòng chẳng say mê được nào!
Trước sân hoa, liễu xinh sao!
Trời trưa bóng tháp thu vào tròn xoe!
Cảnh xuân rực rỡ bốn bề.
Mà con người ngọc đi về nơi nao?
Cảnh Phật đây mà hóa nguồn Đào!

Lời Phê Bình Cả Chương

Nay cầm bút tả đây là người xưa, vậy thì cái người cầm bút tả người xưa đó là ai? Có kẻ lại đáp rằng:

- Là ta!

Thánh Thán nói:

- Vâng! Là ta! Vậy tôi muốn hỏi: Cái người xưa mà ta cầm bút tả họ đó, họ ở những mười năm, trăm nghìn năm về trước. Nay ta đây cầm bút tả họ, ta có thể biết chắc rằng mười, trăm, nghìn năm về trước, có thật có chuyện đó hay không?

Thưa rằng:

- Không thể biết được!

- Đã không biết mà nay ta lại cầm bút tỷ mỷ tả họ, vậy thì người xưa ở trong khoảng minh minh có chịu nhận hay không?

Thưa rằng:

- Người xưa thực chưa từng có chuyện ấy! Mà đến đời xưa thực cũng chưa từng có người ấy nữa! Túng sử đời xưa hoặc giả có người ấy, mà người xưa hoặc giả có chuyện ấy nữa, thế nhưng người xưa đã không hề biết trước rằng sau mười, trăm, nghìn năm lại có ta đây chép chuyện họ, mà bảo cho ta biết; ta lại không có cách gì xuất hồn xuất vía, sống ngược lại mười, trăm, nghìn năm về trước, để hỏi lại người xưa; vậy những chuyện mà ngày nay ta cầm bút tả tỷ mỷ đây, đều là tự ý ta muốn tả, chứ không can dự gì đến người xưa cả. Còn hỏi chi người xưa có chịu nhận hay không!

- Người xưa không nhận thì ai nhận bay giờ?

Ta đã tả thì ta phải nhận.

- Ta đã tả là ta phải nhận, vậy thì trong lúc cầm bút sắp tả, chưa tả, đặt lời lập ý, có thể luộm thuộm được đâu! Chuyện Luận Ngữ nói rằng: "Một lời nói đủ khôn, một lời nói đủ dại; nói không thể không cẩn thận được!" Vì rằng ta nói đến ta, tất là ta yêu ta. Vậy thì ta phải tự yêu lấy lời nói của ta. Ta mà không tự yêu lời nói của ta, thì thật là ta không yêu ta vậy. Tôi thấy các nhà viết tuồng gần đây, trong đoạn thứ nhất, đào kép ra sân khấu, đại loại đều nói bừa ngay ra những câu dông càn vô lễ. Kép tất là vai đàng điếm, đào tất là vai đĩ thoã, như thế mới hả dạ! Cho rằng thế mới là "chung tình chính ở bọn ta" Như vậy, người đời sau đọc sách của ta, há rằng họ lại không biết. Bao nhiêu những tên người xưa mà ta soạn vào trong sách, như hạng Quân Thụy, Oanh Oanh, ông Đỗ, con Hồng, đều là do một mình ta, trong tim trong miệng, vốn có một món "khạc chẳng ra cho, nuốt chẳng vào!" ngứa ngáy vô cùng! Say, mộng sộ lộ! cho đến bây giờ cực chẳng đã, mới thình lình mượn khéo câu chuyện của người xưa, để tự bày giải những nỗi rắc rối trăm hình, nghìn cấp, chứa lại ở trong bụng đã bao nhiêu ngày tháng, đó sao? Trong đó vẹo như đường tắt, tối như đêm tăm, rối như bòng bong, đắng như bồ hòn, giấu như giấu bệnh, nhịn như nhịn đau... Ví phỏng người xưa trước kia thật có chuyện đó, thì là chuyện ta ngày nay quyết không dự biết... Vậy thì ta ngày nay có chuyện đó, cũng là chuyện mà người xưa trước kia quyết không dự biết... Vậy thì ta ngày nay có chuyện đó, cũng là chuyện mà người xưa trước kia quyết không dự biết. Cho nên người đời sau đọc sách ta, họ đã thừa hiểu rằng: Quân Thụy chẳng phải là ai, mà có lẽ lại chính là người viết sách! Oanh Oanh cũng chẳng phải là ai, mà có lẽ lại chính là ý trung nhân của người viết sách! Ông Đỗ, con Hồng cũng chẳng phải là ai, mà có lẽ lại chính là những người quanh quẩn giúp đỡ cho người viết sách! Như vậy mà trong khi cầm bút, không tự yêu được mình, đến nỗi nói bừa ra những câu dông càn vô lễ, cho thế mới hả dạ, thì có phải là tự mình muốn làm hạng đàng điếm, mà cho người trong ý của mình là hạng đĩ thoã hay không? Đọc đoạn đầu vở Tây Sương, coi người ta tả Quân Thụy như thế, ta có thể tỉnh ngộ mà hiểu cái phép ký thác vào bút mực của người xưa vậy.

Các bạn từng xem cách "nhuộm mây nẩy trăng" chưa? Ta muốn vẽ mặt trăng, nhưng mặt trăng không vẽ nổi, vì thế phải vẽ mây. Vẽ mây mà ý không phải vẽ mây... Ý không phải là mây, nghĩa là ý vẫn ở mặt trăng. Thế nhưng thế nào cũng phải để ý vào mây đã... Vậy vẽ mây, lỡ một chút thì đậm quá; lại lỡ một chút thì lạt quá; thế là mây hỏng! Mây hỏng thì trăng hỏng!

Nay vẽ mây đậm lạt vừa phải rồi, nhưng hơi không cẩn thận, để dây một vết bằng hạt bụi nhỏ, thế cũng hỏng mây. Mây hỏng tức là hỏng cả trăng... Nay vẽ mây đậm lạt vừa phải, lại không dây vết nào bằng hạt bụi nhỏ, trông thì như là có, sờ thì như là không, thổi thì như muốn bay, sờ thì như muốn chạy, thế là mây ta vẽ khéo! Mây ta vẽ khéo thế rồi ngày mai người xem sẽ lũ lượt tới, đều nói rằng: Vầng trăng đẹp thật! Tuyệt không một ai là khen đến mây... Như vậy, tuy rất phụ tấm lòng người vẽ ngày hôm qua đã cậm cụi chật vật về việc vẽ mây; thế nhưng xét đến bản tâm người vẽ, có phải chỉ vì trăng, chứ chẳng vì gì mây cả đó sao? Mây cùng trăng, thần lý chính là một. Hợp lại đành rằng hợp không nổi, nhưng chia ra có dễ chia ra được sao? Đoạn đầu vở Tây Sương tả cậu Trương tức là cách đó. Vở Tây Sương viết ra, cốt là vì Song Văn. Thế nhưng Song Văn là trang sắc nước... Trang sắc nước, có phải là cứ mua nhiều son phấn là tô điểm nên được đâu! Vả lại Song Văn là bực người trời... Bậc người trời, thì hạng thợ thuyền sâu kiến ở thế gian có nặn gọt thêm bớt thế nào nổi! Muốn tả Song Văn mà không tả được nên để đó không tả nữa, mà tả cậu Trương trước, đó tức là một phép bí mật của con nhà hội hoạ, gọi là phép "nhuộm mây nẩy trăng" vậy. Vậy thì tả cậu Trương như trong lớp thứ nhất, tức là đậm lạt vừa phải, không để dây vết nào như hạt bụi nhỏ... Ví phỏng không thế, khi tả cậu Trương, lại để cho có mảy may nhỏ là vẻ đàng điếm, thì bên dưới sẽ bôi nhọ đến Song Văn không phải nhỏ. Về chỗ đó, bạn đọc có thể không để ý sao được.
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch   Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch I_icon13Tue 11 May 2021, 09:59

Chương II
XIN TRỌ

Cảnh thứ nhất: Biệt thự họ Thôi

BÀ LỚN (ra) Nói: - Hồng ơi! Mày truyền lời ta, sang hỏi sư cụ bên chùa, bao giờ thì làm chay cho ông lớn? Hỏi đích đáng rồi, về trả lời ta, nghe!
CON HỒNG - Dạ! (cùng vào).

Cảnh thứ hai: Chùa Phổ Cứu.

PHÁP BẢN (ra) Nói:- Lão tăng đây là Pháp Bản, trụ trì trong chùa Phổ Cứu này. Hôm qua lão vào trong làng làm chay, chẳng hay có khách nào đến thăm chùa không, chú Thông?
PHÁP THÔNG (ra) - Dạ bạch cụ: Hôm qua có một người học trò ở Tây Lạc đến thăm cụ, nhưng không gặp lại trở ra.
PHÁP BẢN - Vậy chú ra cửa coi. Nếu thầy ta đến thì vào nói tôi biết.
PHÁP THÔNG - Dạ.
CẬU TRƯƠNG (ra) – Hôm qua tình cờ gặp cô em, làm cho tôi suốt đêm mất ngủ. Hôm nay lại vào chùa thăm sư cụ, tôi sẽ nói câu chuyện (chào Pháp Thông).

Ví bằng thu xếp không xong,
Thì tôi đây oán sư ông mãn đời!

PHÁP THÔNG – Kìa thầy đã lại! Thầy dạy sao, tiểu tôi không hiểu!
CẬU TRƯƠNG:

Cho tôi thuê một gian ở dãy chùa ngoài.
Ở ngay đối cửa con người hôm qua.
Dù không ghẹo nguyệt, bẻ hoa,
Cũng nhìn cho con mắt oan gia đã đời!

PHÁP THÔNG – Thưa thầy dạy thế nào, tiểu tôi không hiểu...
CẬU TRƯƠNG:

Vốn tính tôi nhát gái lạ đời:
Thoáng trông là thẹn đỏ người lên ngay?
Cớ sao gặp gỡ lần này,
Bể lòng lại thấy vơi đầy yêu đương!
Mắt nhìn đã nảy hồng quang!
Nghĩ càng tê tái, mong càng ngẩn ngơ!

PHÁP THÔNG - Thầy nói thế nào, tiểu tôi không hiểu. Sư cụ đợi đã lâu, tôi xin vào trình lại.
CẬU TRƯƠNG (vào chào Pháp Bản)

Tiếng sang sảng, người to bệ vệ
Tóc bạc phơ, mặt trẻ phây phây!
Chân tu nên mới được thế này,
Thêm vòng hào quang nữa thì thực tượng thầy Đường Tăng.

PHÁP BẢN – Xin mời thầy vào chơi trong phương trượng. Hôm qua lão đi vắng, không được thừa tiếp, xin thầy thứ lỗi cho.
CẬU TRƯƠNG - Bấy lâu nghe tiếng sư cụ, chúng tôi vẫn muốn đến hầu. Không ngờ hôm qua sư cụ lại vắng chùa. Hôm nay được gặp, thực là ba sinh, âu cũng duyên trời chi đây!
PHÁP BẢN – Dám hỏi thầy quý quán đâu ta? Tôn tính đại danh thế nào? Có việc gì qua chơi?
CẬU TRƯƠNG – Chúng tôi họ Trương tên Củng, tự là Quân Thụy, nhân vào kinh dự thi, đường đi qua miền này.

Cụ đã có lòng hỏi đến,
Tôi xin thực chuyện thưa bày:
Quê hương tôi chính ở Lạc Tây,
Nhưng du học nay đây mai đó!
Gia nghiêm trước thượng thư lễ bộ.
Ngoài năm mươi xa bỏ cõi trần.
Bởi một đời, cha thanh liêm không khoét tiền dân,
Nên bốn bể, con trơ trọi chiếc thân công tử xác!
Gió thoảng mát trông lồng gương bạc,
Cụ là người lỗi lạc thông minh,
Tôi đến đây quên cả công danh,
Chỉ mong được nghe kinh lắng kệ.

Giữa đường không có gì làm lễ, gọi là có lạng bạc, cúng vào Tam Bảo, cụ vui lòng nhận cho.

Học trò kiết chỉ lấy đầu làm lễ,
Được đâu như những kẻ có đồng tiền,
Mặc cho miệng thế chê khen.
Chẳng tường gá bạc, không quen tuổi vàng!
Phải đâu giúp cụ tiền lương,
Chẳng qua đồng lễ dâng hương gọi là.
Lòng thành tôi đã dâng ra,
Dám xin cụ chớ nề hà nhận cho!
Mai ngày có trước mặt cô
Mười phần cụ nói đỡ cho một vài,
Thì tôi còn ơn cụ mãn đời...

PHÁP BẢN - Giữa đường gặp gỡ, sao thầy lại bày vẽ ra như thế. Chắc thầy lại có chuyện gì muốn dạy bảo nhà chùa hẳn thôi!
CẬU TRƯƠNG – Thưa thế này thực là đường đột... Chỉ vì nhà trọ rộn rịp quá, khó lòng ôn lại được sách vở, nên muốn nhờ cụ một gian phòng, sớm hôm học tập. Tiền phòng nhiều ít thế nào cũng được, xin cứ tháng đưa hầu.
PHÁP BẢN – Thưa được. Nhà chùa cũng có nhiều phòng bỏ không, xin tùy ý thầy chọn. Hay là ở quách ngay phương trượng nằm với lão cho vui.
CẬU TRƯƠNG:

Tôi chẳng cần chái Bắc, hiên Đông!
Gác kinh, nhà tổ, tôi không thiết mà!
Chỉ xin thuê Mái Tây ở cạnh vườn hoa.
Nhà quan Tướng Quốc phủ Hà bên kia!
Chứ nằm chung với cụ nước gì.

CON HỒNG (ra) – nói một mình:
Bà lớn sai tôi sang hỏi sư cụ, bao giờ làm chay cho ông lớn. Hỏi cho rõ rồi về thưa lại.
(Vào chào Pháp Bản) Bạch lạy cụ, bà lớn sai con hỏi bao giờ thì làm chay cho ông lớn.


Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch Captur15


CẬU TRƯƠNG:

Con người mới khá làm sao.
Bóng dáng thực con nhà lịch sự,
Trăm phần không lẫn nửa trai lơ!
Sẽ cúi đầu khép nép chào sư,
Môi son hé nói thưa phép tắc.
Khuôn mặt đẹp không cần trang sức,
Quần áo xô nhưng khéo mặt cũng xinh!
Cô em đã giống đa tình,
Con hầu lại tinh ranh hiếm có.
Liếc trộm mà xem con mắt nó.
Có thèm đâu nhìn ngó tới mình đây!
Em ơi! Hãy đợi đến ngày,
Ta cùng cô đã sum vầy phượng loan,
Quyết chẳng để em trải nệm quạt màn.
Lại thưa bà kiếm tấm chồng quan cho em nhờ!

PHÁP BẢN (giận dữ) - Thầy này coi người cũng tử tế, mà ăn nói ra cái gì thế!
CẬU TRƯƠNG - Cụ nên rõ tôi nói thế cũng là đáng lắm chứ!
Tội chưa! Sư cụ mếch lòng!
Con người tử tế nói sao không lựa lời!
Nhưng nhà quan chi thiếu kẻ hầu trai,
Sang chùa hỏi việc lại sai con đòi?
Cụ còn chối cãi nữa thôi?
Ngứa mồm tôi nói, cấm tôi được nào?

PHÁP BẢN – Không phải thế! Đó là do tấm lòng chí hiếu của tiểu thư. Vì là việc làm chay cho ông lớn nên tiểu thư dốc lòng thành kính không sai ai cả, phải sai chị Hồng sang đây là người hầu cận sang hỏi nhật kỳ. (Quay lại con Hồng): Việc làm chay, đàn tràng đã sắp đặt sẵn sàng. Rằm này là ngày cúng Phật, xin mời bà lớn cùng cô sang dâng hương.
CẬU TRƯƠNG (khóc)- Ối cha ôi là mẹ ôi! Cha mẹ sinh con, bao công khó nhọc! Trời già độc địa, báo đáp được đâu! Tiểu thư là một người con gái, còn biết lo ân trả nghĩa đền. Cho hết lòng của kẻ làm con, tôi cũng xin đưa năm mươi quan tiền, xin cụ mở lượng từ bi, sắm chút lễ vật, cúng siêu độ cho cha mẹ tôi nhân thể. Bà lớn biết ra nữa, chắc cũng chả ngại gì!
PHÁP BẢN - Có chi mà thầy ngại! Chú Thông đâu! Nhận tiền sắm lễ cho thầy!
CẬU TRƯƠNG (hỏi riêng Pháp Thông) - Chắc cô ấy có sang lễ không?
PHÁP THÔNG – Làm chay cho quan Tướng thế nào cô ấy chả sang!
CẬU TRƯƠNG (mừng rỡ) - Thế thì năm chục quan cũng đáng!

Hương kém ấm, ngọc thua mềm!
Trên trời dưới đất khôn tìm thấy hai!
Nói chi ôm ấp lả lơi,
Nhìn suông cũng đủ sướng đời! Cho nên
Tai qua nạn khỏi tự nhiên!
Làm chay nào được bằng nhìn Oanh Oanh!

PHÁP BẢN – Xin mời về cả phương trượng xơi nước!
CẬU TRƯƠNG – Tôi xin phép ra ngoài một chút(ra sân). Con bé chắc ra bây giờ! Mình cứ đứng chờ đây!
CON HỒNG – (từ giã Pháp Bản) Xin cụ đừng cho uống nước. Con xin về thưa lại, kẻo bà lớn quở! (ra).
CẬU TRƯƠNG – (đón chào) Xin chào chị ạ!
CON HỒNG – Không dám, chào cậu!
CẬU TRƯƠNG - Hỏi không phải: Chị có phải chị Hồng, người hầu cô Oanh không?
CON HỒNG – Thưa vâng! Có việc gì phiền cậu hỏi?
CẬU TRƯƠNG – Tôi có một chuyện không biết thưa có tiện không?
CON HỒNG – Tên kia đã bắn khôn về! Lời kia đã nói khôn bề xóa đi! Có chuyện gì cậu cứ nói không ngại!
CẬU TRƯƠNG – Tôi họ Trương tên Củng, tự là Quân Thụy, quán ở Tây Lạc, năm nay mới hai mươi ba tuổi, sinh giờ Tí ngày 17 tháng giêng. Tịnh chưa lấy vợ bao giờ!
CON HỒNG – Cái đó ai hỏi cậu đâu! Em cũng không phải thầy số, cần gì cậu phải kể ngày sinh tháng đẻ!
CẬU TRƯƠNG – Xin hỏi chị câu nữa; cô nhà thường khi có ra ngoài không?
CON HỒNG – (giận dữ) Ra ngoài thì làm sao? Cậu là người có học, há không nhớ câu: "Chớ làm việc trái lễ!" Bà lớn em lòng băng dạ tuyết, phép nhà rất nghiêm. Từ đứa trẻ sáu, bảy tuổi, không nghe gọi cũng không dám tự tiện bước lên nhà trên. Cậu không hề có bà con, sao lại được hỏi sỗ sàng như vậy! May mà trước mặt em đây, còn tha thứ được. Chứ bà lớn mà biết, sao chịu để cậu yên! Từ nay mà đi, điều gì nên hỏi thì hỏi, điều gì không nên hỏi chớ có hỏi càn như vậy! (vào)
CẬU TRƯƠNG – (đứng ngẩn người ra một lúc) Thế này thì đến ốm tương tư mà chết mất!

Những nghe nói đã rụng rời!
Đôi mày nặng cả một trời sầu thương!
Phép nhà nghiêm ngặt lạ nhường,
Lấy ai dắt nẻo đưa đường cho nên?
Ví bằng mình sợ mẹ giữ gìn,
Thì quay đi còn ngoảnh lại mà nhìn chi nhau?
Muốn đứt phăng! dễ đứt được đâu!
Mầm tình đã trót ăn sâu trong người!
Ví kiếp này mình cũng lỡ một lầm hai!
Chả hóa ra kiếp trước ta đã mắc tội trời chi đây!
Ta quyết làm cho bồng được lên tay,
Cho mắt này thờ phụng, lòng này mê tơi!
Chỉ nghe nói Vu Sơn xa cách bằng trời!
Ai ngờ lại ở bên ngoài Vu Sơn!
Thân tội này đứng tựa bao lơn.
Nhưng thần hồn những mê man chốn nào?
Này Hồng ơi! Em định đưa tin đến buồng đào.
Hay lại đem chuyện kín thưa vào nhà huyên!
Lòng xuân, có đâu dễ giữ gìn!
Hẳn cũng thấy: Bướm bay từng cặp, oanh chuyền có đôi!
Này Hồng ơi! Em trẻ người nóng tính thế thôi.
Chứ ta đây, cô đấy tốt đôi ai bì!
Miễn em hết sức giúp vì,
Bà dù bó buộc, làm gì được ai?
Mà mặt hoa, ta nhìn được tận nơi;
Mà nhị đào, cô sẽ được cho người tình chung!
Em mà vụng tính không xong,
Thì trai tài, gái sắc, lại cùng trạc tuổi như nhau,
Sẽ trông xuân, xuân đượm nét sầu.
Sẽ nhớ ai, ruột héo, mặt sầu vì ai!
Tội cho cô đức nết vẹn mười,
Mà thiệt cho tôi cũng một đời tài hoa!
Này Hồng ơi! Mày ai chỉ kẻ qua loa;
Mặt ai chỉ thoáng gọi là phấn son;
Cổ ai vừa trắng, vừa tròn,
Ngọc đông, phấn nặn so còn kém xa!
Trên thì, bên vạt áo tà.
Ngón tay muôn muốt như là búp măng!
Dưới thì, dưới bắc quần băng,
Gót chân thoăn thoắt nhỏ bằng cách sen!
Muốn quên hồ dễ mà quên.
Bao nhiêu hình bóng bạn tiên non Bồng,
Thì mình đừng đẹp nữa có được không.
Để tôi thôi cũng chẳng mệt lòng nhớ thương.

Chết! Quên chưa vào chào sư cụ! (Quay vào hỏi Pháp Bản) Thưa cụ, việc tôi xin trọ, cụ dạy thế nào?
PHÁP BẢN – Mái Tây chùa tháp có một gian phòng tĩnh mạc lắm, thầy ở đó thực vừa tiện. Tùy ý thầy dọn lúc nào cũng được.
CẬU TRƯƠNG – Thưa vâng! Chúng tôi xin về trọ đem hành lý lại.
PHÁP BẢN - Thế, thế nào thầy cũng dọn lại nhé! (vào)
CẬU TRƯƠNG - Dọn lại thì dọn, nhưng chịu sao cho nổi lạnh lùng đây!

Này Hồng ơi! Buồng văn đệm gối lạnh lùng.
Đèn soi hiu hắt, sách chồng lẻ loi!
Dù đền xong chí cả một đời.
Ngủ sao cho nổi những đêm dài lan man?
Ít ra cũng năm nghìn lần dài thở, văn than,
Với hàng vạn lượt tung màn, đập chăn!
Thoạt gặp nhau, vẻ xinh chưa nhớ rõ mười phần,
Đành không ngủ, căn ngón tay ta tưởng tượng dần cho ra!
Trong như ngà ngọc, đẹp như hoa,
Nhưng hoa mà biết nói, ngọc mà ngát thơm!


Lời Phê Bình Cả Chương

Tôi đã từng xem văn của người xưa và nay. Có người viết mà viết không đến. Có người viết mà viết đến. Có người viết, mà trước chỗ viết, sau chỗ viết, những chỗ không viết đến đều đến được cả. Viết mà viết không đến thì viết câu nào viết câu nào là không đến câu ấy, dù có viết mười, trăm, nghìn, cho đến vạn câu nữa, cũng là mười, trăm, nghìn, vạn câu không đến cả! Hạng người ấy, thà đừng cầm đến bút còn hơn! Viết mà viết được đến, thì viết một câu là một câu đến; lại viết câu nữa, câu nữa cũng lại đến; rồi có viết mười, trăm, nghìn, vạn câu, thì mười, trăm, nghìn, vạn câu cũng đều đến cả. Như ngài, thực là người biết dùng đến ngòi bút vậy! Đến như viết mà trước chỗ viết, sau chỗ viết, những chỗ không viết đến đều đến được cả, thì người ấy là người lấy lò Cừ làm lòng, lấy thợ Tạo làm tay, lấy Âm Dương làm bút, lấy muôn loài làm mực... Chỗ mà lòng không đến được, bút đã đến rồi. Chỗ mà bút đã đến, lòng bất tất đến nữa, chỗ mà bút đã đến, lòng đã đến rồi. Chỗ mà lòng đã đến, bút bất tất đến nữa. Đọc văn họ, đọc thì vẫn đọc... Song kẻ biết đọc thì đọc rồi là đọc rồi, còn kẻ không biết đọc thì đọc rồi mà thực là chưa đọc! Sao vậy? Vì văn họ là ở sau, ở trước, ở chung quanh câu văn, chứ không phải ở chính câu văn. Cho nên, viết mà viết không đến, ấy tức như bao nhiêu những tập văn hại giấy, phí mực trong đời bây giờ! Viết mà viết đến, ấy tức như những văn Hàn, Liễu, Âu, Vương, Tam Tô mà đời còn truyền lại. Đến như viết mà trước chỗ viết, sau chỗ viết, những chỗ không viết đến, không chỗ nào là chỗ không đến, thì trừ Tả Truyện ra, ta không còn tìm đâu thấy nữa! Văn Tả Truyện, Trang Tử giống được vẻ phóng khoáng; bảy thiên Mạnh Tử giống được vẻ đột ngột; Chiến Quốc Sách giống được vẻ chu đáo; Thái Sử Công giống được vẻ cao kỳ. Như Trang tử, mạnh Tử, Chiến Quốc Sách, Thái Sử Công thôi còn phải nói gì! Tôi chỉ không ngờ Mái Tây là một vở tuồng mà cũng dùng lối văn ấy. Vậy thì người viết Mái Tây thật là lấy Cừ làm lòng, thợ Tạo làm tay, Âm Dương làm làm bút, mà muôn loài làm mực vậy! - Sao thế? Tức như hôm trước cậu Trương thoáng trông thấy người đẹp, thật là như trăng bên phương trời, như hoa trên đầu Phật, muốn lại gần cố nhiên là chẳng được, xong muốn xa ra cũng quyết nhiên là chẳng được nào! Đã quyết nhiên chẳng xa được nào, thì cần phải sao cho gần lại... Thế nhưng cho gần lại, thì phải bắt đầu phải làm thế nào? Suốt đêm không ngủ, suốt đêm suy nghĩ, cậu Trương là một tài tử thông minh rất mực, bỗng dưng đã bàng hoàng tính ra. Cậu cho rằng: Việc thiên hạ, có lúc lựa khớp, có lúc lắp mộng... Lựa khớp là việc đầu, lắp mộng là việc cuối... Câu chuyện ngày nay; chưa tính đến lắp mộng, hãy tính đến lựa khớp đã! Con người đẹp kia, thăm thẳm ở trong biệt thự, cái mộng ấy chưa dễ mà lắp được! Thế nhưng biệt thự ở ngay bên cửa từ bi quảng đại, cái khớp ấy hoạ là có lựa được chăng... Trời sáng rồi chăng? Sao gà vẫn còn chưa gáy! Trống tam canh rồi chăng? Sao trống vẫn còn chửa tan canh! Ta không mong cho lắp mộng, hãy mong lựa khớp đã... Mộng mai sau có lắp nổi chăng? Đó là việc mai sau... Đến như khớp lúc này thì cần phải lựa, cần phải lựa ngay chứ để chậm không xong! Ấy đó là việc ngay lúc này! Ta mong sao cho gà chóng gáy, canh chóng tan, trời chóng sáng, để vào chùa mà hỏi Pháp Thông! - Gà chưa gáy, canh chưa tan, trời chưa sáng, cậu chưa thể vào chùa mà hỏi Pháp Thông, lòng cậu lúc đó rối như mớ bòng bong, ta có thể tưởng mà biết vậy! -Nhưng ví phỏng chốc nữa đây gà gáy rồi, canh tan rồi, trời sáng rồi, ta vào chùa hỏi Pháp Thông mà Pháp Thông chẳng nhận lời, thì ta biết làm thế nào cho được? Cố nhiên một là Pháp Thông nhận lời ta, hai là Pháp Thông chẳng nhận lời ta! Nhận lời ta, là sự tự nhiên, mà chẳng nhận lời ta, cũng là sự tự nhiên hoặc muôn một... Nghĩ lại thì nhận lời hoặc chẳng nhận lời, đều có thể cả... Lại nghĩ lại nhận lời ta, phần đó phần ít, mà không nhận lời ta, phần đó phần nhiều! Lại nghĩ lại nữa thì tất nhiên Pháp Thông không nhận lời ta! - Thôi thế là việc gấp rồi! Lòng chết rồi! Thần hồn tán loạn rồi! Nói năng rối bét rồi! Vào chùa thấy mặt Pháp Thông, liền phát cáu ngay: "Nếu mà thu xếp không xong, thì tôi đây oán sư ông suốt đời!" Nghe câu ấy, Pháp Thông phải sửng sốt cả người! Vì sao? Vì cậu Trương chưa hề nói đến chuyện xin thuê phòng thì Pháp Thông còn chưa biết thu xếp là chuyện gì nữa. Nhưng cậu Trương chưa nói chuyện thuê phòng, mà đã phát cáu nói ra câu "thu xếp không xong" đó, là vì câu đó là câu suốt một đêm miệng hỏi lòng, lòng hỏi miệng đã có hàng trăm, nghìn, muôn lượt, cậu cũng chẳng cần người khác hiểu hay không hiểu nữa! Chỉ có hai câu mở đầu ấy mà vẽ được hết cả thần tình cậu Trương suốt đêm không ngủ, ta đọc thấy như hiển hiện ở trên tờ giấy! Cái hay của cách viết được trước chỗ chưa viết, tài tình là thế! Lối đó chỉ trong tả Truyện là thường có dùng... Than ôi! Câu chuyện văn chương, thông được với tạo hoá! Trong đời này chẳng thiếu gì tay tài tử, tôi biết các bạn ở ngoài nghìn dặm, muôn dặm, tất tưới rượu xuống đất, gọi vọng Thánh Thán mà rằng: Anh nói phải đấy! Anh nói phải đấy! Vậy ngoài nghìn dặm, muôn dặm, Thánh Thán cũng tưới rượu xuống đất, gọi vọng các bạn tài tử mà rằng: Các anh là những người có thể viết được hạng văn suýt soát với vở Mái Tây! Trở lên là cả một đoạn văn ở trước câu "ví bằng thu xếp không xong" mà tác giả cố ý giấu đi, Thánh Thán xin viết hộ ra đây để tỏ rằng câu "ví bằng thu xếp không xong" thần hiệu đến như thế. Ta thử nghĩ hai câu "ví bằng...", "ví bằng"... chỉ gọn lỏn có mười bốn chữ, mà trong lại chứa một đoạn văn dài như vậy, có lạ tuyệt không?

 
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch   Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch I_icon13Mon 17 May 2021, 11:35

Chương III
HỌA VẦN


Cảnh thứ nhất: Biệt thự họ Thôi

OANH OANH – (ra) Mẹ tôi sai con Hồng sang hỏi sư cụ hôm nào thì làm chay. Nó đi đã lâu, sao chưa thấy về thưa lại?

CON HỒNG – (ra) nói một mình: Thưa với bà lớn rồi, giờ vào thưa lại cô tôi rõ.

OANH OANH – Em hỏi sư cụ thế nào?

CON HỒNG – Con vừa thưa với bà, đương định vào thưa lại với cô. Ngày rằm tháng hai này, không biết cúng Phật cúng phiếc gì ấy, mời bà và cô sang dâng hương (cười). Con xin thưa với cô một câu chuyện thấy tức cười: Cái chàng mà hôm trước ở ngoài vườn hoa, cô với con nhác trông thấy ấy, hôm nay cũng thấy ngồi ở phương trượng. Chàng ta ra trước, đón con ở ngoài cửa, chào một cách rất lễ phép rồi hỏi: "Chị có phải chị Hồng, người hầu cô Oanh không?" Thế rồi lại nói luôn: "Tôi họ Trương tên Củng, tự là Quân Thụy, quán ở Tây Lạc, năm nay mới hai mươi ba tuổi, sinh giờ Tí ngày 17 tháng giêng. Tịnh chưa lấy vợ bao giờ!"

OANH OANH – Ai bảo mày hỏi người ta?

CON HỒNG – Thì nào ai hỏi chàng ta! Chàng ta còn gọi đến cả tên cô, hỏi thường hay ra ngoài không? Con mới dồn cho một trận rồi về đây.

OANH OANH – Mày chẳng mắng người ta nữa thì cũng thôi!

CON HỒNG – Thưa cô, không biết chàng ta nghĩ thế nào! Ở đời lại có hạng người ngốc nghếch đến như thế! Sao con lại chả mắng!

OANH OANH – Mày có thưa với bà không?

CON HỒNG – Thưa chưa!

OANH OANH - Thế thì thôi cùng đừng thưa với bà nữa! Chiều trời đã muộn, ra vườn hoa bầy hương án, ta ra thắp hương.

Ngâm:

Trông xuân chợt rối lòng tơ
Tự bên lồng ấp mà chờ bóng trăng.


(Cùng vào)


Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch Captur30


Cảnh thứ hai: Mái Tây chùa Phổ Cứu, một bên là vườn hoa họ Thôi.

CẬU TRƯƠNG – (ra) Dọn vào chùa, được ở ngay dưới Mái Tây. Tôi hỏi thăm sư ông, thì ra đêm nào cô em cũng ra vườn hoa thắp hương. Vừa hay vườn hoa lại ở ngay bên kia tường. Tôi cứ ngồi đợi ngay ở góc tường, bên hòn non bộ này. Đợi cô em ra, nhìn cho no con mắt cũng hay! Đêm khuya, người vắng, gió mát, trăng thanh, chiều trời mới đẹp làm sao chứ!

Ngâm:

Rỗi bàn chuyện với thầy tăng!
Buồn ngâm thơ với bóng trăng đỡ buồn!


Hát:

Khuôn thiêng chẳng chút bụi trần!
Ánh trăng, át nhạt dòng ngân, ngang trời!
Sân hoa bóng rợp tơi bời,
Áo là ngại lạnh, bồi hồi lòng xuân…
Nghiêng vành tai, rén gót chân,
Bên tường tôi ngóng, góc sân tôi rình,
Rình rình, ngóng ngóng Oanh Oanh,
Tha tha thướt thướt, xinh xinh tuyệt vời!
Muôn loài im tiếng: canh hai!
Qua tường, tôi nấp bên ngoài hiên Đông,
Thấy bước ra là ôm riết vào lòng,
Nỗi niềm sẽ liệu gạn gùng cho ra:
Cớ sao tiếng vắng, hơi xa,
Chưa hề xum họp, những là chia phôi?


OANH OANH (ra ở bên vườn hoa) - Hồng ơi! Mở cửa mạch đem hương án ra, em!

CẬU TRƯƠNG:

Then hoa xịch động cách tường!
Gió đưa thoáng thấy mùi hương áp quần!
Rến gót lên nhìn lại cho gần,
So với khi mới gặp lại có phần thêm tươi!
Mãi đêm nay mới nhìn được rõ mười:
Ả Hằng cung Nguyệt đã chắc đẹp người như thế chưa!


Bó buộc tuổi xuân âu cũng ngán, cất mình bay lên khỏi cung trăng! Mặt ngọc trông ngang: vạt hồng nửa khép; không nói phất phơ tay áo; đứng yên tha thướt quần là; ví tả vào trong phú Trần vương, thực đáng gái thần bến Lạc; phỏng đứng tựa ngoài đền Thuấn đế rõ ràng là bà chúa sông Tương! Người đâu đẹp cha chả là đẹp a!

Dưới hoa bước chậm rì rì,
Bàn chân nhỏ quá chưa đi đã chồn!
Càng gần càng trăm đẹp, nghìn dòn;
Thảo nào chẳng thu mất linh hồn người ta!


OANH OANH – Đem hương đây!

CẬU TRƯƠNG – Ta thử nghe xem cô em khấn khứa những gì?

OANH OANH - Thắp tuần hương này, xin cầu cho cha tôi siêu sinh Tịnh độ! Thắp tuần hương này, xin cầu cho mẹ tôi trường thọ bách niên! Thắp tuần hương này... (Nín lặng hồi lâu).

CON HỒNG – Thưa cô, sao đêm nào đến tuần hương ấy, cô cũng nín lặng? Thôi, cô để con khấn hộ! Con xin cầu trời khấn Phật phù hộ cho cô con, lấy được cậu con là người ra ngoài hào hoa, vào trong phong nhã, tài cao học rộng, thi đậu Trang Nguyên, cùng cô con ăn ở đến trăm năm đầu bạc ạ!

OANH OANH – (thêm hương, lạy) Ngâm:

Thế gian bao nỗi đau lòng,
Xin đem gửi cả vào trong lạy này!


(Thở dài)

CẬU TRƯƠNG – Thưa cô! Có điều chi bận nghĩ, mà cô lại đứng tựa bao lơn cất tiếng thở dài làm vậy?

Khói trầm tỏa khắp sân không,
Đêm khuya vắng cả gió Đông lay mành!
Lạy xong, đứng tựa một mình,
Thở dài mấy tiếng trăm tình đầy vơi!
Trăng tròn như mảnh gương soi!
Khắp vườn sương nhạt suốt trời mây quang!
Hai người đổ lộn khói hương,
Cả hai cùng thấy mơ màng, say sưa.


Cứ ý tôi nghĩ thì cô em thở dài như vậy, trong lòng tất có cảm điều gì? Mà thưa cô, có lẽ cô cũng là Văn Quân thủa trước đó chăng? Tôi đây tuy không bằng Tư Mã Tương Như, cũng thử ngâm chơi một bài, xem cô em nói ra thế nào đã:

Vằng vặc đêm trong nguyệt!
Âm thầm cảnh dưới hoa!
Cớ sao kề bóng sáng,
Chẳng thấy mặt Hằng Nga?



Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch Captur31


OANH OANH – Có ai ngâm thơ ở góc tường.

CON HỒNG – Nghe rõ tiếng cái anh chàng 23 tuổi, tịnh chưa có vợ bao giờ.

OANH OANH - Lời thơ mới thanh lịch làm sao. Hồng ơi! Theo vần ta họa một bài chơi?

CON HỒNG – Vâng! Cô thử họa một bài, đọc con nghe!

OANH OANH:

Vắng vẻ nơi buồng gấm,
Buồn xuân, thẹn với hoa!
Xót tình ai bạo bực,
Họa có khách ngâm nga!


CẬU TRƯƠNG – (mừng rỡ) Họa đáp lại mới mau làm sao!

Mặt đà đúc sẵn khuôn xinh:
Tim còn vùi sẵn thông minh hơn người!
Thơ ta họa lại như chơi.
Mà văn bay bướm, mà lời thiết tha!
Khen tài dệt liễu, thêu hoa.
Tên mình thực đáng gọi là Oanh Oanh!
Phải chăng tình lại gặp tình,
Thơ ta cũng đã được mình khen hay!
Thì cách tường mình đấy ta đây,
Cùng nhau xướng họa đến sáng ngày mà chơi.


Ta thử trèo tường sang, xem cô em ra làm sao!

Vén áo là, ta thử sang chơi.
Biết rằng mình có tươi cười đón nhau?
Hồng ơi! Xin em chớ có cơ cầu:
Bảo sao cũng cứ gật đầu cho tôi,
Ối thôi xong! Cửa đóng mất rồi.


CON HỒNG – Thưa cô, ta đi vào trong nhà, kẻo sợ bà quở! (Cùng Oanh Oanh đóng cửa mạch, vào).

CẬU TRƯƠNG:

Xì xào, chim vỡ tổ bay.
Rung rinh, cành động, bóng lay bốn bề.
Tơi bời, hoa rụng ngập lối đi.
Long lanh, sương ướt đầm đìa rêu xanh.
Chênh chênh, vầng nguyệt xế mành,
Bóng hoa rắc xuống rành rành đầy sân.
Tương tư, gầy đã mấy phần!
Đêm nay ta quyết một lần thử chơi;
...Rèm buông, then cửa đã cài,
Ta thời sẽ hỏi, mình thời sẽ thưa.
Đôi lòng đẹp ý, tình ưa,
Trăng trong, gió mát, trời vừa canh hai!
Nói lời nào đã được như lời,
Ta phường xấu số, mình người vô duyên!
Quay vào vơ vẩn trước hiên,
Sân không người vắng, đứng nhìn cảnh đêm:
Gió lay ngọn trúc quanh thềm,
Ngang trời mây bạc, ngập chìm ánh sao...
Mình không thương, ta sống được nào!
Bao nhiêu lạnh lẽo dồn vào đêm nay!
Có cần chi cuối mắt đầu mày,
Miệng mình chẳng nói, lòng đây ta đã từng!


Nhưng đêm nay thì ma ngủ nào là ám nổi mắt mình đây!

Đìu hiu, này gió thổi lùa!
Phập phồng, này giấy song hồ động bay!
Vắng tanh này bức bình vây!
Xanh lè, này ngọn đèn cây cạn dầu!
Tờ mờ, này đèn có sáng đâu!
Chập chờn, này giấc mộng đêm thâu chẳng thành!
Lẻ loi, này gối chiếc một mình!
Bẽ bàng, này chăn đệm năm canh lạnh lùng!
Ai người sắt đá, dễ cầm lòng chăng ai?
Hẳn có phen liều đón, hoa cười,
Màn buông cánh cuốn, đêm dài khắc canh,
Gấm hoa tô điểm tiền trình:
Non thề, bể hẹn ân tình đôi ta!
Hơi xuân đầm ấm một nhà,
Tình chung nhường ấy mới là tình chung!
Trăm năm đã tạc một chữ đồng:
Hai bài thơ chứng rõ đôi lòng khát khao!
Từ rày, chả cần tìm nhau trong giấc chiêm bao,
Chỉ cần ra dưới gốc bích đào đợi nhau!


Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch   Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch I_icon13Wed 27 Apr 2022, 08:34


Chương III
HỌA VẦN


Lời Phê Bình Cả Chương

Đức Mạn Thù Thất Lợi bồ tát hay bàn về những cái rất nhỏ. Hồi xưa Thánh Thán được nghe, lấy làm thích lắm... Kìa như thế giới Sa bà, lớn đến nỗi không thể đo lường được, vậy mà duyên cớ lại bắt đầu từ cái rất nhỏ! Cho đến hết thảy các món có ở trong thế giới Sa Bà, duyên cớ nó cũng nhất nhất bắt đầu từ cái rất nhỏ cả! Câu chuyện đó to lắm, không thể đem ra chỗ này mà bàn được. Nay chỉ mượn lấy câu "rất nhỏ" của bồ tát, để xét đến ý niệm của người viết văn. Kìa như giữa thu xế chiều, trời đất trong suốt, mây nhẹ lăn tăn, nhỏ như cánh hoa, đó thực là cảnh rất đẹp ở trong đời. Vịt trời hàng đàn bay ngang không, người thuyền chài tung lưới bắt được. Xem lông bụng nó, phớt mầu mực loãng, lăn tăn cũng như mây trên trời, nhỏ như vân xuyến. Đó lại là cái rất đẹp ở trong đời... Hoa các loài cỏ cây, từ trong đài tràng, nở ra thành cánh. Nếu ta tỉ mỷ nhìn kỹ cánh của nó thì từ cuống lên đầu màu không nhất định. Đó cũng là rất đẹp ở trong đời... Ngọn đèn nhìn từ dưới lên trên: Chỗ gần bấc mầu hơi biêng biếc; lên chút nữa, mầu hơi trăng trắng; lại lên chút nữa, mầu hơi tia tía; lại len chút nữa thì mầu đỏ nhợt, rồi mới đến khói đen tuôn lên như bọt nhỏ. Đó cũng là cái rất đẹp ở trong đời... Lòng... người đời bây giờ, dọc cao, ngang rộng, không biết là bao nhiêu dặm! Mông mông, mênh mênh, trâu ngựa cũng nhìn không rõ! Ví phỏng có ai nói cho nghe những chuyện ấy, thì có lẽ họ đã phanh ngực cả cười, cho rằng: người ta sinh ra ở trong đời, quý nhất là dư mặc, thừa ăn! Rỗi hơi đâu mà để bụng dạ vào những chuyện như thế! Họ không biết để bụng dạ vào những chuyện như thế, nào có phải là phí hoài đâu! Mây thu lăn tăn nhỏ như vân xuyến. Xuyến vì chỗ có, chỗ không chen nhau mà thành vân, song trong chỗ lăn tăn kia; thì có những là chỗ có chỗ không chen nhau mà thôi! Ta từ dưới này trông lên, cách mây không biết mấy trăm nghìn dặm, thì thấy cái lăn tăn kia, cách nhau không đầy một tấc. Thế nhưng nếu đến tận nơi mây mà đo, thì thực chưa biết là mấy tầm mấy trượng nữa. Nay ta thử nghĩ, nếu cách nhau hàng mấy tầm, mấy trượng, mà chỉ là chỗ có chỗ không chen nhau, thì ta từ dưới trông lên, quyết là không đẹp được đến thế. Nay từ dưới trông lên mà đẹp đến như thế, thì tất là giữa khoảng cái lăn tăn này với cái lăn tăn khác, tất có vô số tầng lớp, như liền với nhau, như theo với nhau. Cái gọi là rất nhỏ, chính ở chỗ đó, không thể không xét được. Cái lăn tăn của mây trên trời, cách nhau hàng tầm hàng trượng, cho nên khoảng giữa có nhiều tầng lớp. Cái đó cũng chưa đáng kể. Đến như cái lăn tăn ở lông bụng con vịt trời, cách nhau rất hẹp hòi, chỉ bằng độ hạt gạo hay hạt thóc! Nay thử xem nó sở dĩ đẹp như vân xuyến, có phải chỉ là vì chỗ có chỗ không chen nhau mà thôi sao? Nếy thật chỉ là vì chỗ có chỗ không chen nhau, thì ta thử lấy ngọn bút nhỏ, thấm chút mực lại vẽ từng nét một coi nào? Cớ sao đứa trẻ lên bảy cũng khúc khích cười là chẳng giống chút nào cả! Tiếc thay không có ai là Ly Châu để nhìn cho kỹ, nhận cho rõ đó thôi! Nếu nhìn kỹ nhận rõ ra, thì trong đó cũng có vô số tầng lớp, như liền với nhau; từ cái nọ lăn tăn đến cái kia, thật cũng chẳng khác gì cách nhau hàng trượng. Cái gọi là cái rất nhỏ, chính là ở đấy, không thể không xét được! Hoa các loài cỏ cây, từ trong đài, tràng, nẩy ra thành cánh... Thiên hạ cho rằng bấy nhiêu cánh, ấy là một hoa... Có biết đâu hôm qua có lẽ hoa ấy chưa có; lại hôm kia nữa, có lẽ đài cùng tràng cũng chưa có. Ở trong chỗ không đài không tràng không hoa, mà nẩy bật ra đài, nẩy bật ra tràng, lại nẩy bật ra hoa, trong khoảng đó tất có cái rất nhỏ, như người đi thong thả, dần dần tới xa. Vậy thì một cánh hoa tuy là nhỏ, nhưng từ cuống cánh đến đầu cánh, bắt đầu từ đây, tận cùng chỗ kia, tất phải gân chuyển mạch rung, sớm nhạt chiều thẫm, phấn non hương già... Tự ta coi thì một cánh hoa chỉ lớn bằng móng tay! Song tự hoa tính ra thì biết đâu đường lối chẳng xa xôi vượt bờ kia, sang đỗi nọ? Tự ta coi thì từ khi mới nở đến giờ chỉ trong chớp mắt! Song tự hoa tính ra thì biết đâu thọ mạnh chẳng lâu dài chồng đời nọ đến kiếp kia? Đó cũng là cái rất nhỏ không thể không xét được! Ngọn lửa trên bấc đèn coi nhàn nhạt, không biết trong năm màu ở thế gian đó là màu gì? Tôi thường nhìn kỹ từ đầu bấc lên đến hết chỗ khói; từ chỗ biêng biếc đến hết chỗ trăng trắng, nó giáp nhau ra làm sao; lại từ chỗ trăng trắng đến chỗ tia tía, nó giáp nhau ra làm sao; lại từ chỗ tia tía đến chỗ đỏ nhạt, từ chỗ đỏ nhạt đến chỗ khói đen, nó giáp nhau ra làm sao?... Trong chỗ giáp nhau đó tất có những cái rất nhỏ, ban đầu chia ra còn có thể chia được; nhưng lại thong thả mà chia ra nữa, thì khiến ta chẳng có thể chia ra được nào! Đó lại là một điều không thể không xét được! Nếu ta biết suy rộng tấm lòng ấy ra, thì cầm bút mà chép những câu mời chào nhau của người làng, người xóm, tất cũng có văn. Mà chép những tiếng cãi cọ nhau của nàng dâu, mẹ chồng, tất cũng có văn! Mà chép hai người gặp gỡ giữa đường, vái nhau xong đi thẳng, tất cũng có văn. Sao vậy? Trong đó tất có những cái rất nhỏ... Người khác nóng lòng chẳng xét, thì không sao viết được đành chịu gác bút bỏ đấy! Song ta từ dưới cửa bậc đại chí là đức Man Thù Thất Lợi bồ tát, học được phép ấy, thì tuy nhặt nắm cặn bã ở bên đường, ta cũng có thể ép ra được hàng chum nước! Trong đời này lại còn đầu đề nào nhỏ hẹp, đủ trói buộc cánh tay ta không cho nhúc nhắc nữa đâu! Đọc Mái Tây, đến chương "hoạ vần", sau chương "xin trọ", trước chương "quấy đám", bất giác tôi phải cảm mãi đến lời của Bồ Tát, lại xin nguyện các bạn tài tử gấm vóc trong thiên hạ đọc kỹ càng coi! - Trên là chương "xin trọ", phàm điều cậu Trương muốn nói đều đã nói hết! Dưới là chương "quấy đám", phàm điều cậu Trương chưa nói, đến đấy mới có thể nói được! Nay vào giữa khoảng hai chương đó, bỗng đem tả chuyện cách tường hoạ thơ, mà cũng muốn rồi rào tự thành một chương, thì thật là bút vướng mực khan, "nàng dâu khéo, nhưng không gạo nấu sao lên cháo!" Tác giả bỗng dưng nghĩ đến rằng: Đêm ấy Thôi, Trương hoa thơ nhau, thì hai người tất là cùng ở dưới màn sương trong bóng nguyệt. Nhân bịa ra câu chuyện đêm nào cũng thắp hương, rồi do chỗ xem thắp hương mà sinh ra tình, mà bầy ra cảnh, tả nên những ý văn lạ lùng! Kẻ nóng lòng, không biết nỗi khổ tâm ấy, đọc lên chỉ biết đấy lại là ít câu hát hay! Có biết đâu một chữ, một câu, cho đến một tiết, đều là tách bóc ở trong một hạt nếp mà ra cả.

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch   Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch I_icon13Thu 29 Sep 2022, 11:39

Chương IV
QUẤY ĐÁM


Một cảnh: Trên điện Phật chùa Phổ Cứu

CẬU TRƯƠNG – (ra) Hôm nay rằm tháng hai, nhà chùa mời sang dâng hương, mình phải sang một lát mới được. Ngâm:
Sóng gầm gió lật lá Kinh,
Mây quang, mưa rắc long lanh hoa trời!

Vỉa:
Trước chùa trăng mới mọc cao...
Mịt mờ sương bạc phủ vào ngói xanh!


PHÁP BẢN – (cùng các sư, các tiểu ra) Hôm nay rằm tháng hai, là ngày đức Phật Thích Ca vào cõi Niết Bàn; đức Thuần Đà trưởng giả cùng đức Văn Thù bồ tát làm chay cúng Phật. Các thiện nam, tín nữ ai lễ Phật ngày hôm nay là được phúc lớn lắm. Kia thầy cử Trương đã đến từ bao giờ rồi nọ! Anh em đạo tràng lên trống đi thôi! Đợi trời sáng sẽ mời bà lớn cùng tiểu thư sang lễ!

OANH OANH – Em hỏi sư cụ thế nào?

CẬU TRƯƠNG:
– Khói hương: mây kết tán tròn!
Tiếng kinh, tiếngkệ: sóng dồn bể khơi!
Phất phơ bóng phướn lưng trời.
Bao nhiêu quan khách trong ngoài chen đua!
Ầm ầm trống giục la khua:
Sấm xuân vang động mái chùa bỗng không!
Rầm rầm Phật niệm chuông rung:
Gió mưa dồn dập ngọn thông lưng trời!
Cửa quyền, sư cụ khó sang mời!
Song the sao Hồng chẳng lựa lời trình cô!
Đỏ mắt mong sao chẳng sang cho!
Sang, ta nhìn chán, nhìn no, kẻo hoài.


PHÁP BẢN – (quay ra mời cậu trương) Mời thầy vào lễ. Bà lớn có hỏi, thầy cứ thưa là có bà con với lão!

CẬU TRƯƠNG – (vào thắp hương lạy):
Xin cầu cho người sống thì hưởng trọn tuổi trời;
Người chết thì thong thả ở nơi thiên đường.
Rước các Tiên linh vào lễ Phật mười phương.
Lòng thành tôi lại thắp tuần hương mà khấn nhỏ rằng:
Xin cầu cho con Hồng đừng có rỉ răng;
Bà lớn đừng biết đến; con chó đừng cắn to!
Hẹn thàm ước vụng, xin cho nguyền được như nguyền!


BÀ LỚN - (cùng Oanh Oanh, con Hồng cùng ra) Nói một mình: Sư cụ mời sang lễ, ta sang một lát

CẬU TRƯƠNG :
Giống tình vào lễ trước đàn,
Tưởng đâu nàng tiên ngọc vừa sa xuống khỏi làn mây xanh!
Thân gượng sầu, gượng ốm như mình,
Đọ sao được vẻ nghiêng nước, nghiêng thành của ai!
Kìa hãy coi: nụ đào điểm cặp môi tươi!
Liễu xuân khéo uốn vẻ người thướt tha!
Bông lê in mặt nõn nà!
Ngọc đông, ngà chuốt nước da mịn màng!
Nét yểu điệu, vẻ đoan trang,
Ngắm càng rõ đẹp, nhìn càng nổi xinh!


PHÁP BẢN - Bẩm bà lớn, chúng tôi có câu chuyện xin thưa. Số là chúng tôi có người bà con, là học trò
vào kinh thi Hội. Vì cha, mẹ mất sớm, không biết lấy gì báo đáp. Nhân thấy nhà chùa làm chay, cũng sắm
chút lễ, nhờ chúng tôi cúng siêu độ cho. Chúng tôi đã trót nhận lời, sợ bà lớn trách cập...

BÀ LỚN - Việc báo hiếu cho cha mẹ, có việc gì mà trách cập! Xin mời lại đây!

CẬU TRƯƠNG – (lại chào bà lớn):
Sư già tuổi tác ngồi trên,
Đăm đăm mắt cũng đưa nhìn lúc lâu!
Thầy đạo tràng bụng dạ để đâu,
Tay đương gõ khánh, lại gõ sang đầu Pháp Thông!
Ồn ào, náo nức lạ lùng!
Trẻ, già, quê, lịch vòng trong, vòng ngoài,
Cùng nhau thích cánh chen vai,
Cố xem cho được con người thần tiên!
Sợ người biết đến không nên,
Long lanh mắt lệ, sẽ nhìn qua loa!
Mắt đâu có mắt oan gia!
Thực lòng này thấy khó mà dửng dưng!
Tiếng khóc như oanh hót bên rừng!
Nước mắt như sương đọng ngập ngừng trên hoa!
Ai người học được sư già,
Ngồi che mặt lại thật là từ bi!
Hương mà chi! Nến mà chi!
Nến thì tắt ngấm, Hương thì nguội tanh!
Khoanh tay lũ tiểu làm thinh,
Đổ xô lại cứ Oanh Oanh mà nhìn!
Lòng ta, mình hẳn đã tin,
Bao nhiêu tình tứ, in trên đuôi mày!
Ý mình, ta đoán được ngay,
Bao nhiêu buồn tủi chưa đầy buồng tim!
Đổ hồi trống giục hết đêm,
Người đi lễ, kẻ đi xem giật mình;
Chém cha tiếng trống cầm canh!
Đám đương vui bỗng vô tình phá ngay!
Vô tình tiếng trống ác thay!
Hữu tình ta chịu đắng cay thiệt thòi!
Hữu tâm chi lắm ai ơi!
Còn gì sung sướng hơn người vô tâm!


PHÁP BẢN – (đọc sớ, đốt sớ) Trời đã sáng rõ, xin mời bà lớn cùng tiểu thư lại nhà!

(Bà lớn cùng Oanh Oanh, con Hồng cùng vào)

CẬU TRƯƠNG – Thì làm thêm một ngày nữa có được không! Bây giờ thì bảo tôi ra làm sao!
Lao lư suốt một đêm trường,
Trông ra trăng đã gặm gương lúc vào!
Tiếng chuông đã động lầu cao!
Tiếng gà đã gáy xôn xao bốn bề!
Vội vàng, người ngọc ra về!
Các sư thu dọn lễ nghi tán đàn!
Đàn tràng thôi thế là tan!
Ai về nhà nấy, canh tàn, trời đà sáng ra!



Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch Captur43

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch   Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch I_icon13Mon 31 Oct 2022, 09:43

Chương IV
QUẤY ĐÁM


Lời Phê Bình Cả Chương

Bạn tôi là ông Trác Sơn thường bảo tôi rằng. Núi Khuông Lư thật là một cảnh lạ ở trong đời: Đi sông luôn mấy ngày, thoạt cũng chẳng để ý, bỗng dưng giữa khoảng trời trong sáng, thấy sừng sững một ngọn núi xanh; giữa núi một dòng thác chảy như tấm lụa treo ngược! Lái đò hoảng hốt thưa: Đấy tức là núi Khuông Lư. Nhưng nào đã đến núi Khuông Lư đâu! lại đi hai ngày, dần dần không thấy gì nữa, thì ra lại đến nơi rồi!

Tôi nghe lấy làm thích lắm, muốn sang xem ngay, nhưng rồi gắng chưa sang được. Một là vì nghèo không có tiền ăn đường. Hai là vì sang đấy không có ai là chủ nhân. Ba vốn là tính lười biếng, tạm ngồi rồi đã lại hết một năm! Thế nhưng trong lòng thì có lẽ không một hôm nào là không nghĩ đến, vì thế mà đêm thường chiêm bao ... Thường cứ một hôm, hai hôm lại nằm mơ thấy đi dưới sông.

Đương lúc thuyền chạy như bay, ngẩng nhìn trời xanh, lại thấy ngọn núi sừng sực lưng trời. Y như lời Trác Sơn. Khi tỉnh dậy, khoan khoái cả người! Về sau có gặp người ở miệt Tây Giang sang, tôi nắm áo hỏi ngay. Nhưng họ nói: làm gì có như thế! Tôi phát bực: Đồ ngốc còn có hiểu gì! Sau lại có người ở miệt Tây Giang sang, tôi lại nắm áo vội hỏi. Họ lại nói:Làm gì có như thế! Tôi phát bực: Lại một thằng ngốc nữa! Rồi đó hễ có người ở miệt Tây Giang sang là tôi đều hỏi cả. Nửa thì họ nói có như thế, nửa thì họ nói không có như thế! Tôi ngờ hỏi lại Trác Sơn. Trác Sơn bật cười mà rằng: Chính mắt tôi cũng chưa trông thấy nữa! Trước kia có nhiều người ở Tây Giang sang, người thì nói như thế, người thì nói không có như thế. Thế nhưng tôi đối với người nói như thế thì tin là thật. Còn những kẻ nói không có như thế thì bỏ đó không đếm xỉa đến. Vì sao vậy? Vì rằng ví phỏng núi Khuông Lư mà thật như thế, thì ta tin lời họ nói là thật, thực đáng lắm. Còn ví phỏng núi Khuông Lư mà chẳng như thế nữa, thì đó là cái lỗi của Trời Đất. Lấy cái thế lực lớn, cái trí tuệ lớn, cái học vấn lớn, cái đùa nghịch lớn của Trời Đất, phỏng có khác gì chẳng bầy ra nổi một cảnh lạ, như thế để làm trò vui cho chúng ta, mà lại hà tiện không chịu làm!

Tôi nghe lại lấy làm thích lắm, trong lòng hớn hở cho mãi đến bây giờ, chẳng những ban đêm thường chiêm bao, mà ban ngày cũng thỉnh thoảng được gặp nữa? Thế nào mà thỉnh thoảng ban ngày cũng được gặp? Ấy, tôi thỉnh thoảng được gặp trong khi đọc Tả Truyện! Tỉnh thoảng được gặp trong khi đọc Sử Ký, Hán Thư! Mà bây giờ lại thỉnh thoảng được gặp trong khi đọc Mái Tây! Thế nào mà lại được gặp trong khi đọc Mái Tây? Ấy, như ngay đầu chương này, câu thứ nhất viết "Trước chùa trăng đã mọc cao?" Chẳng qua có 6 chữ mà thôi, thế nhưng tôi thì cho thật là "đi sông thoạt không để ý đến" ...; thật là "giữa khoảng trời trong sáng, sừng sững một ngọn núi xanh"...; thật là "nhưng nào đã đến núi Khuông Lư" ...; thật là "khi đến núi Khuông Lư thì lại không trông thấy" ...; một thế lực lớn! Thật là một trí tuệ lớn! Thật là một sức học vấn lớn! Thật là một cách đùa nghịch lớn! Ấy là điều mà bạn Trác Sơn đã dạy tôi. Kiếp này tôi cũng chả cần đến Tây Giang nữa. Kiếp này dù tôi chả bao giờ đến Tây Giang, nhưng núi Khuông Lư thì tôi nhìn đã quen lắm: Nó thật là một cảnh lạ ở trong đời.

Đến đây là lần thứ ba mà cậu Trương được gặp Oanh Oanh. Thế nhưng khi ở vườn hoa thì mới là thoáng trông thấy! Thoáng trông thấy thì chưa thực là trông thấy ... Khi ở cách tường thì mới là xa trông thấy! Xa trông thấy! thì cũng chưa thực là trông thấy. Hai lần trông thấy mà đều chưa thật là trông thấy, vậy thì lần này mới là lần cậu Trương được thật trông thấy Oanh Oanh, cho nên tác giả về chỗ đó phải dùng bút cẩn thận lắm. Khi mới thoáng trông thấy thì nào: "đùa cợt mặc ta", "bút hoa mỉm cười", "cảnh Bồng Lai", "con người thần tiên", đều là những lời dùng để tả bậc Thiên nữ vừa hiện ra thoắt đã biến đi. Khi mới xa trông thấy thì nào "bàn chân nhỏ quá", "bước chậm rì rì", "thu mất linh hồn", "càng nhìn càng đẹp", đều là những lời dùng để tả hồn Lý phu nhân, nửa như phải mà nửa như không phải! Đến mãi đây mới thậc là trông thấy, thật là nhìn chán nhìn no cho nên tả nào miệng, nào mặt, nào da, nào người; chẳng khác gì xem cá ở chỗ nước trong, nhận được từng vây, đếm được từng vẩy! Kẻ không hiểu cho tả thực. Họ có biết đâu phàm văn hay xưa nay có phép gì là tả thực đâu! Tả thực thì khác nào như cái ụ đắp bằng đất, dù người quê mùa đi qua, họ cũng không thèm nhìn vậy.

Bỗng dưng mượn chuyện các tiểu, các đạo tràng đều mê mệt vì Oanh Oanh, để tả cái cực đẹp của con người sắc nước. Đó tất là lẽ tất nhiên trong khi viết văn, song hiện nay đương lúc Phật pháp suy đồi, bọn sư mô tội ác đầy đầu, nếu không phải là hạng rắn rết, rùa, giải, thì cũng nên để ý giữ gìn; hạng khuê các trong sạch, chớ nên bén mảng đến cửa Phật. Vì cái thói dâm độc của bọn sư mô gần đây, có những là hương tàn nến tắt mà thôi đâu! Vậy mà bọn rắn rết rùa giải kia, lại đương chắp tay trả lời: A di đà phật! Tội ngiệp! Tội ngiệp! Các cụ đều là bậc chân chính, vào hạng một nghìn hai trăm năm mươi bậc thiện trí thức cả! Vợ tôi, dâu tôi, con gái tôi đương lục hòm, dốc rương, hết lòng bá thí cúng đường! Không phhải chuyện bỡn đâu! Anh đừng nói nhảm rồi sa xuống "ngục cắt lưỡi" đấy! Trời ôi! Sao mà hạng rắn rết rùa giải ngày nay chúng nó lại ngu mà thích để cho người ta lợi dụng như thế! Đáng thương biết là bao nhiêu!


Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch Captur44
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch   Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch I_icon13Tue 01 Nov 2022, 07:50

Phần II

Cậu Trương ngồi bàn kế giải vây
Con Hồng chạy mời người dự tiệc.
Cãi lời đoan bà lớn lật lường,
Nghe đàn gẩy Oanh Oanh thương tiếc.

Chương I
VÂY CHÙA

Cảnh thứ nhất: Trại quân của Tôn Phi Hổ.

TÔN PHI HỔ - (cùng quân lính ra) Ta đây tên gọi Tôn Phi Hổ! Hiện nay thời buổi nhiễu nhương, chủ tướng là Đinh Văn Nhã không nghĩ đến chính sự. Ta lĩnh riêng năm nghìn binh mã, trấn thủ đất hà Kiều. Nghe tin con gái quan Thôi Tướng quốc tên gọi Oanh Oanh, xanh xanh mày lá liễu, mơn mởn mặt hoa sen, thật là trang ngiêng nước nghiêng thành; so chẳng kém Thái Chân, Tây Tử! Hiện cô ta đang cư tang, ở trọ trong chùa Phổ Cứu. Rằm hôm nọ làm chay cho quan tướng, nhiều người đã được biết mặt. Cứ như ta nghĩ: đến như chủ tướng ta còn làm điều bất chính, một mình ta thôi có sá gì! Ba quân lớn nhỏ, nghe hiệu lệnh ta đây! Ngựa giàm miệng lại! Người ngậm tăm vào! Đi suốt đêm sang phủ Hà Trung, bắt cóc Oanh Oanh cho ta! Cho hả dạ bấy lâu ao ước! (đem quân lính vào).

Cảnh thứ hai: Trong chùa Phổ Cứu.

PHÁP BẢN – (ra, hoảng hốt) Tai vạ tới nơi rồi! Ai biết đâu Tôn Phi Hổ nó lại đem năm nghìn quân giặc đến vây chùa, trong ngoài kín như một hàng rào sắt! Cờ mở trống dong, chiêng hôi loa dịch, nó rêu rao đòi bắt tiểu thư! Lão không dám chậm trễ, phải vào thưa ngay để bà lớn với tiểu thư được rõ!

BÀ LỚN - (hoảng hốt ra) Thế thì làm thế nào được? Làm thế nào được? Cụ? Chi bằng vào cả trong này ta bàn tính với cô xem sao? (cùng vào)



Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch Captur45


Cảnh thứ ba: Trong biệt thự họ Thôi.

OANH OANH – (cùng con Hồng ra) Hôm trước có đám chay, chính mắt ta trông thấy Quân Thụy. Đến nay ăn uống kém xưa, tâm thần hoảng hốt. Lại gặp trời chiều cuối xuân, nghĩ thêm nỗi xót xa!

Ngâm:
Thơ hay có ý thương trăng sáng…
Hoa rụng không lời trách gió đông!
Hát:
Xác ve ngày đã hao mòn.
Xuân tàn càng thấy nỗi buồn mênh mông!
Áo là ướm mặc rộng thênh.
Hoàng hôn mấy độ một mình ngẩn ngơ!
Hương trầm bỏ mặc gió đưa!
Bông lê bỏ mặc trên mưa dập vùi!
Mành buông, cửa đóng ngậm ngùi!
Tựa lan chi nữa, đầy trời vẩn mây!
Hoa tàn lớp lớp tung bay!
Não người thay ngọn gió Tây vô tình!
Đêm qua mộng đẹp chẳng thành!
Sớm nay cảnh đẹp quanh mình còn đâu!
Bùn khô tổ én lớp đầu;
Tơ vương phấn bướm hết mầu xinh tươi!
Sầu dài tơ liễu chưa dài!
Cách tường xa, kể phương trời chưa xa!
Còn tô son, điểm phấn chi mà!

CON HỒNG – Thưa cô! Trong lòng cô không được thư thả, con đem chiếc chăn này, xông cho thơm, mời cô nằm nghỉ chốc lát.

OANH OANH:
Chăn thêu đệm tuý lạnh lùng!
Ra gì sạ ướp, lan xông ngạt ngào!
Dẫu bao nhiêu lan, sạ đổ vào,
Một mình ta đắp có cách nào cho ấm đâu!
Thơ dưới trăng, nghe rõ từng câu,
Sao người thềm ngọc gần nhau khó lòng!
Ngồi không yên, đứng không xong!
Lên cao mỏi mắt, đi rong mệt người!
Suốt ngày mê mẩn, bồi hồi!
(Buồn tênh! chán ngắt cuộc đời rỗng không!)
Gối chăn em sắp đặt đã xong,
Thôi nghe em hoạ có nằm mòng được chăng!
Ta bước ra em lại theo chừng,
Như hình với bóng không từng xa nhau!
Có những bà bó buộc thôi đâu,
Còn em hôm sớm chực hầu bên ta...
Dưới là em, trên nữa là bà,
Đều tin ta vốn giữ nếpcon nhà xưa nay:
Thấy khách vào la ta khó chịu ngay!
Họ hàng ra nữa cũng không hay đến gần!
Riêng có ai là mới gặp đã sinh thân,
Bài thơ đêm trước theo vần ta hoạ theo:
Chữ dùng xinh, câu đặt cũng đều,
Hai bài thơ mới bao nhiêu sự lòng!
Lòng đôi bên cách một bức tường đông,
Kim vàng ai đó? xin giắt sợi chỉ hồng cho ai!
Phong lưu, tài học vẹn mười!
Mặt trông sáng sủa, người coi dịu dàng!
Tình tình chắc hẳn nhẹ nhàng,
Bảo ta không nhớ đừng thương được nào!
Biết mình, ta vẫn ước ao...
Văn chương rạng vẻ trăng sao một trời!
Thương mình, ai kẻ đoái hoài...
Sách đèn những lúc dùi mài mười năm!
(Có tiếng gõ cửa).

CON HỒNG – (ra mở cửa vào nói): Thưa cô! Quái lạ! Không biết có việc gì mà bà lại mời sư cụ vào đến tận ngoài cửa phòng này! (Bà lớn cùng Pháp bản vào, Oanh Oanh chào).

BÀ LỚN - Con ơi con! Con có biết không? Hiện nay Tôn Phi Hổ nó đem năm nghìn quân đến vây ngoài cửa chùa! Nó bảo con những là: mày lá liễu! mặt hoa sen. Thật là nghiêng nước nghiêng thành! Chẳng kém Thái Chân, Tây Tử! Nó định bắt con về làm áp trại. Con ơi con! Biết làm thế nào bây giờ?

OANH OANH :
Này lúc cửa nhà tan nát!
Nghe tin mà hồn vía rụng rời!
Tay áo lau không kịp lệ rơi,
Kế tiến thoái nhất thời tìm chẳng thấy!
Cơn nguy cấp biết lấy ai nương cậy?
Mẹ con ta biết chạy lối nào?
Vô duyên sao mà vô phúc làm sao!
Không dưng bỗng hãm vào đất chết!
Mây tan tác! Bụi bay mờ mịt!
Trống đinh tai! Loa thét vang trời!
Miệng hư không đặt để nên lời,
Phao cho ta những hương trời sắc nước!
Trong chớp mắt, chúng có thể làm cỏ được!
Sư ba trăm mà giặc những năm nghìn!
Quân phụ nhà, phụ nước đã quen!
Bắt người chán lại cướp tiền hỏi của!
Nghĩ già cảnh danh lam rực rỡ!
Chúng chỉ cho mớ lửa mà xong!

BÀ LỚN - Như mẹ tuổi ngoài năm chục, chết cũng nên đời. Chỉ thương hại con đầu xanh tuổi trẻ, còn chưa nên vợ nên chồng! Chẳng may mắc phải tai nạn thế này, biết làm thế nào cho được?

OANH OANH - Cứ ý con nghĩ: Chỉ có cách đem con dâng cho tướng giặc, hoạ chăng giữ toàn được tính mạng một nhà!

BÀ LỚN - (khóc) Nhà ta xưa nay con trai không ai phạm tội, con gái không ai hai chồng! Đâu có lẽ dâng con cho giặc, để nhục nhã lây đến cha, ông!

OANH OANH – Thôi mẹ cũng đừng thương tiếc con nữa mà chi! Cứ dâng con cho tướng giặc, vì có năm điều tiện lợi:
Một là mẹ được yên lành!
Hai là chùa khỏi tan tành ra tro!
Ba là tăng chúng khỏi lo!
Bốn là cha con cũng được yên mồ, ấm nơi!
Năm là em Hoan tuy chửa nên người,
Mai sau dòng dõi họ Thôi vẫn còn!
Ví bằng tiếc một thân con,
Sốt gan, quân giặc chúng còn thương ai!
Chùa này sẽ cháy ngất trời!
Các sư đầu rụng máu rơi chan hoà!
Săng cha con chúng cũng đập tan ra!
Mà em, mà mẹ, cả nhà còn sống sót ai?
Hay là lấy dây co thắt cổ cho rồi!
Để thây con lại, chúng đòi thì đưa ra!
Giữ gìn như thế hoạ là,
Còn hơn theo giặc để nhục ông cha, muôn đời!

PHÁP BẢN – Xin cùng ra cả ngoài pháp đường, hỏi trong hai dãy hành lang, bất cứ kẻ tăng người tục, xem ai có cao kiến, mời lại cùng bàn cho ra kế mới được! (cùng ra).
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch   Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch I_icon13Thu 03 Nov 2022, 10:21

Phần II

Cậu Trương ngồi bàn kế giải vây
Con Hồng chạy mời người dự tiệc.
Cãi lời đoan bà lớn lật lường,
Nghe đàn gẩy Oanh Oanh thương tiếc.

Chương I
VÂY CHÙA

Cảnh thứ tư: Trong chùa Phổ Cứu.

BÀ LỚN - Con ơi con! Biết làm thế nào bây giờ! Mẹ nói câu này, không phải không thương con đâu, nhưng là chuyện vạn bất đắc dĩ! Bây giờ cho hỏi mọi người trong hai dãy hành lang, bât cứ kẻ tăng người tục, miễn là ai có cách lui được quân giặc, thì mẹ bằng lòng đứng ra, bù tiền cưới mà gả con cho. Dù chẳng được môn đăng hộ đối nữa, cũng còn hơn hãm vào tay quân giặc! (Khóc) Xin sư cụ đem câu nói đó, rao to lên hộ cho. Con ơi con! Thật khổ thân con quá!

PHÁP BẢN - Kế ấy kể còn được. (rao).

OANH OANH :
Thương con, mẹ phải cầu người!
Nỗi lòng nói hết ra lời được sao?
Thôi,sá chi tôi phận thơ đào,
Nào ai là mặt anh hào ở đây,
Ra tay quét gió, giũ mây,
Giặc kia đánh vỡ, chùa này giữ yên,
Thì xin bù mọi lễ cưới xin,
Cùng người vâng kết nhân duyên Tấn Tần!

CẬU TRƯƠNG – (vỗ tay ra): Tôi có kế lui được quân giặc, sao không hỏi tôi (Chào bà lớn).

PHÁP BẢN - Bẩm bà lớn! Người này tức là người bà con tôi, xin phụ lễ rằm hôm nọ.

BÀ LỚN - Kế của cậu thế nào?

CẬU TRƯƠNG - Giải thưởng lớn tất tìm ra người giỏi; thưởng phạt minh tất thành được kế hay...

BÀ LỚN - Vừa rồi tôi đã nói với sư cụ: Hễ ai lui được quân giặc, tôi xin gả ngay con em cho.

CẬU TRƯƠNG - Nếu vậy chúng tôi có một kế, mà trước hết là dùng đến sư cụ...

PHÁP BẢN - Chịu thôi. Tôi không biết võ vẽ gì cả. Xin thầy gọi người khác.

CẬU TRƯƠNG – Nào ai mượn cụ ra đánh giặc mà cụ sợ! Cụ ra nói với tướng giặc bảo là bà lớn truyền rằng: Tiểu thư hiện đương có tang, Tướng quân nếu muốn vào làm rể, thì hãy bỏ gươm cuốn giáp, lui quân ra một chút. Đợi trong chùa làm lễ ba ngày đêm cho tròn công đức đã, bấy giờ tiểu thư sẽ thay mặc lễ
phục, vào rước linh cữu ông lớn, và cho tướng quân đón dâu. Chứ nếu cho đón dâu ngay bây giờ thì có hai điều bất tiện: Một là tiểu thư đương bận đồ chế; hai là như thế không lợi cho việc quân. Ấy, cụ ra cứ thế mà nói.

PHÁP BẢN – Nhưng xong ba ngày rồi thì sao?

CẬU TRƯƠNG – Chúng tôi có người bạn cũ, họ Đỗ tên Xác, thường gọi là quan Tướng Ngựa Bạch hiện đương cầm mười vạn quân trấn thủ ở Bồ Quan. Anh ta với tôi là bạn chí thân. Nhận được thư tôi, thế nào cũng đem quân đến cứu...

PHÁP BẢN - Bẩm bà lớn; nếu quan Tướng Ngựa Bạch mà đến cho thì có trăm Tôn Phi Hổ cũng không đáng sợ. Xin bà lớn cứ yên lòng.

BÀ LỚN - Như vậy xin đa tạ cậu. Hồng ơi! Đưa cô vào nhà trong yên nghỉ thôi con.

OANH OANH - Hồng ơi! Người đâu thật hiếm có quá!
Bọn học trò, ai nấy chạy lấy người!
Gia đình nhà khác đoái hoài đến đâu!
Khách cùng mình quen biết chi nhau,
Đem lòng tính trước lo sau hộ mình!
Phải đâu phường thư sinh ngứa miệng bàn quanh,
Cũng là sợ lúc cháy thành vạ lây!
Nhân duyên chi kể sự mai ngày!
Được thua dùng tạm kế này cho qua!
Cơn nguy nan tội nghiệp cho ta!
Nếu phong thư ấy quả là thành công,
Thì ra một đám giặc đông,
Quét bằng một ngọn bút lông có thừa!

NGOÀI SÂN KHẤU

TIẾNG PHÁP BẢN – (gọi): Xin mời tướng quân ra tôi thưa chuyện,

TIẾNG TÔN PHI HỔ - (đem quân ra): Mau mau dâng Oanh Oanh ra đây.

TIẾNG PHÁP BẢN – Xin tướng quân bớt giận! Bà lớn có truyền tôi ra thưa với tướng quân, v.v.

TIẾNG TÔN PHI HỔ - Đã vậy ta hẹn cho nhà ngươi ba ngày! Nếu không đem nộp thì các ngươi sẽ biết tay ta: Một mống không còn, cả chùa chết sạch! Nhà ngươi vào thưa với bà lớn: Một người tốt nết như ta, gọi gả con gái cho cũng là đáng lắm chứ sao! (vào)

PHÁP BẢN – (vào) Quân giặc lui rồi! Thầy mau mau viết thư đi!

CẬU TRƯƠNG – Thư đã viết sẵn đây rồi! Chỉ cần lấy một người đưa thư đi hộ.

PHÁP BẢN – Tôi có một tay đồ đệ, tên gọi Huệ Minh, thường ở dưới nhà bếp! Bình sinh nó chỉ thích đánh chén với đánh nhau! Nếu nhờ nó đi tất nó chẳng đi nào! Nhưng nếu nói tức nó, thì thế nào nó cũng đòi đi bằng được. Ấy, chỉ có nó là có thể sai được.

CẬU TRƯƠNG – (gọi) Tôi có phong thư, đưa sang cho quan Ngựa Bạch. Trừ chú Huệ Ninh ở dưới nhà bếp không thể cho đi được, còn các chú, có ai dám đi hộ không?

HUỆ MINH – (ra) Huệ Minh này nhất định đi đó! Nhất định đi đó!
Chẳng kinh kệ cũng không tụng niệm!
Quăng mũ ni, lại ném áo sồng!
Chuyện giết người lộn mật anh hùng!
Bẻ cột sắt, mỗ múa vung tàn tán!
Không phải dám khoe tài khoe cán,
Nào đòn trường, đòn đoản mỗ không thông!
Nhưng khi máu đã nổi xông,
Mỗ chấp cả đồng rầm, hang hổ!
Không phải mỗ lòng tham tính phụ:
Cơm chay ăn quả thực nó nhạt mồm!
Chưa nói chi xào, nấu, bung, om,
Năm nghìn giặc hãy trói tôm tất cả!...
Cắt tiết nóng uống tiêu khát đã!
Moi tim tươi ăn lót dạ chơi!
Ai chê tanh, chê tưởi mặc ai!
Còn hơn những chè, xôi, oản chuối!
Nào đậu phụ, tương tầu, cà muối!
Nọ canh xuông, nộm rối, dưa chua!
Anh em ơi! Phong vị nhà chùa,
Nhạt nhẽo thế! mà bốn mùa chén mãi!
Nam mô Phật! Nói thế này không phải:
Giặc năm nghìn trói lại bó giò chơi!
Còn thừa ra các chú chớ bỏ hoài!
Muối ướp kỹ để dành xơi được mãi!

PHÁP BẢN - Huệ Minh! Thầy cử Trương không mượn chú! Chú lại nhất định đòi đi! Vậy chú có thật dám đi không đã!

HUỆ MINH:
Tôi hãy hỏi: Cụ muốn sai hay chẳng muốn sai?
Chứ dám đi hay không dám cụ hỏi chi tôi cho phiền!
Phi Hổ dù lừng lẫy một miền,
Cũng phường thích gái, ham tiền đấy thôi!

CẬU TRƯƠNG – Chú là người tu hành, sao không chịu khó sớm hôm kinh kệ, theo đòi với các sư, lại đòi đi đưa thư hộ tôi?

HUỆ MINH :
Mỗ dở dang vốn sẵn tính trời,
Đã không kinh kệ, lại vốn lười ăn chay!
Thanh giới đao này mới mài đây!
Sáng choang chẳng dính mảy may bụi đời!
Khác với phường dở gái, dở trai,
Suốt ngày đóng cửa nằm dài trong buồng chay!
Việc đời trối kệ mặc thây!
Đốt chùa, đạp bụt, cũng bó tay ngồi nhìn!
Ví bạn thầy quả có vạn quân quyền;
Nếu thư thầy quả có vạn quân quyền;
Nếu như thầy muốn vượt dặm nghìn quan san,
Để cứu mọi người qua bước gian nan,
Thì tôi đưa thư hộ, có can cớ gì!

CẬU TRƯƠNG - Thế chú đi một mình, hay cần có người giúp sức?

HUỆ MINH :
Có! Xin cho mấy tiểu vác phướn đi đầu.
Một anh sãi ốm, chống thần xích theo sau kêu gào!
Còn thầy thì đứng vững chân cho chư tăng khỏi nôn nao!
Để mỗ vác que cời lửa đánh vào địch quân!

CẬU TRƯƠNG – Nhưng chúng không cho chú đi thì làm thế nào?

HUỆ MINH - Thầy cứ yên tâm. Chúng không dám không cho mỗ đi.
Mỗ cau mắt trông là bể động ầm ầm!
Mỗ lên tiếng thét là núi chuyển rầm rầm khắp nơi!
Đạp chân vào là trục đất rụng rời!
Giơ tay vịn đến là cửa trời lung lay!
Xa mỗ phang cho một gậy sắt này.
Gần thời lưỡi giới đao đây mỗ chặt tức thời!
Nhỏ nắm chân mỗ vật chết tươi!
Lớn nhằm đầu mỗ chém, chết bỏ đời không kịp kêu!

CẬU TRƯƠNG - Giờ giao thư cho chú, chừng bao giờ chú có thể đi được?

HUỆ MINH :
Đời mỗ đây cho dẫu rằng hèn,
Trời sinh được cái gan liền tướng quân!
Dúng tay vào việc khó khăn,
Không từng e sợ ăn năn bao giờ!
Nói như đanh đóng cột trơ trơ!
Nào phải phường cầm gạch ném vờ ra vườn hoang!
Sắp gươm đao tức khắc lên đường!
Hơi đâu rùi rắng rềnh rang hết ngày!
Cho chết ngày thì cũng đi ngay!
Phải biết rằng tính mỗ xưa nay thế nào!
Mềm buông ra nhưng rắn lại nắn vào!
Đắng cay thì chấp chứ ngọt ngào không ưa?
Nhưng thưa thầy, thầy đã chắc chưa?
Có sao nói vậy chớ lừa nhau chi!
Nếu giặc kia không đuổi được đi,
Thì con người ấy có đến gì lượt cậu cả Trương!
Nói khoác thành ra chẳng phải đường!
Nghĩ sai một lúc mà thẹn mang suốt đời!
Tôi đi đây! Anh em!
Giúp oai thần, thét hộ một tiếng chơi!
Nhờ sức Phật, đổ hộ ba hồi trống rung!
Dưới phướn thêu thoáng thấy bóng anh hùng!
Non gan, quân giặc xa trông đã sợ hết hồn!
(Huệ Minh vào)

CẬU TRƯƠNG – Xin bà lớn bảo cô cứ yên lòng. Thư tới nơi, tự khắc có quân đến cứu.
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch   Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch I_icon13Mon 07 Nov 2022, 09:00

Phần II

Cậu Trương ngồi bàn kế giải vây
Con Hồng chạy mời người dự tiệc.
Cãi lời đoan bà lớn lật lường,
Nghe đàn gẩy Oanh Oanh thương tiếc.

Chương I
VÂY CHÙA

Cảnh thứ năm: Viên môn Đỗ Tướng quân

ĐỖ TƯỚNG QUÂN – (cùng quân lính ra) Tôi đây họ Đỗ, tên Xác, tự là Quân Thực, quê nhà ở Tây Lạc, lúc nhỏ cùng học nho với Trương Quân Thụy. Sau bỏ văn học võ, thi đậu Trạng Nguyên, được cử làm Chinh Tây đại tướng quân, lĩnh chức quản quân nguyên soái. Hiện cầm mười vạn binh trấn thủ Bồ Quan. Vừa rồi có người bên phủ Hà Trung sang, hỏi thăm thì ra Quân Thụy hiện ở trong chùa Phổ Cứu, không hiểu tại sao không sang chơi với tôi? Gần đây Đinh Văn Nhã không thiết gì chính sự, dung túng cho quân lính cướp bóc nhân dân. Đáng lẽ tôi phải cất quân đánh, nhưng chưa rõ thực hư, không dám vội vàng lỡ việc. Hôm qua lại phải sai người đi do thám. Hôm nay ra trướng, xem có ai báo cáo gì không? (Lính mở cửa trại quân Tướng quân ngồi)

HUỆ MINH – (ra nói một mình): Tôi rời Chùa Phổ Cứu, giờ đã sang tới Bồ Quan. Nay viên môn Đỗ Tướng quân đây! Tôi phải vào bừa đi mới được! (quân lính bắt giữ vào báo cáo).

ĐỖ TƯỚNG QUÂN – Cho nó vào đây! (Huệ Minh vào, quỳ) Nhà sư kia! Định đi do thám cho ai đó?

HUỆ MINH - Bẩm, chúng tôi không phải quân do thám, mà là tiểu bên chùa Phổ Cứu. Hiện có Tôn Phi Hổ làm loạn, đem năm nghìn quân đến vây chùa, định bắt con gái quan Thôi Tướng quốc. Có người khách đến chơi chùa là Trương Quân Thụy, viết thư sai tôi đem sang trình quan lớn. Xin quan lớn mau mau cứu cho
quan cơn nguy cấp này!

ĐỖ TƯỚNG QUÂN – Quân bay! Tha nhà sư ra, Trương Quân Thụy là em ta, mau đưa thư ta coi! (Huệ Minh khấu đầu dâng thư, quan Tướng Đỗ mở ra đọc)

“Bạn cùng học, em là Trương Củng, cúi đầu hai lạy, dâng thơ dưới cờ Nguyên soái quan anh Quân Thực: Từ ngày cách mặt, thấm thoắt hai năm. Cữ gió tuần mưa, xiết bao thương nhớ. Từ quê vào Kinh, đường qua Hà Trung. Vẫn định sang hầu, cùng ôn truyện cũ. Đường xa vất vả, người chợt mắc đau. Hiện đã tạm đỡ, xin đừng quan ngại. Khăn gói gió đưa, lại vào cửa Phật. Quanh vòng giường ghế, bỗng nổi binh đao! Quan Thôi Tướng quốc, cữu gửi trong chùa. Gia quyến chịu tang, cùng về chịu tang, cũng về ở tạm. Nào ngờ tướng giặc, biết mặt tiểu thư, kéo quân vây chùa, toan điều vô lễ. Thấy việc bất bình, xiết bao tức giận. Giúp người hoạn nạn, là nghĩa đáng làm. Bực mình ngày thường: trói gà không nổi! Mạng hèn ong kiến nào phải tiếc đời! Chợt nhớ đến bạn: trấn thủ một miền. Quát thét phương nào, gió mây đổi sắc! So với người xưa: Phương Thúc, Thiện Hổ, như tài quan anh thực cũng không thẹn. Trong cơn nguy cấp, nói chẳng hết lời; xin nghĩ tình thân, ra tay giúp đỡ. Tuốt gươm truyền lệnh: Thẳng tới Hà Trung. Sớm tối tới nơi, nhanh như sấm chớp. Thờn bơn chút phận, được đội ơn mưa. Quan tướng có thiêng, ngậm vành kết cỏ. Trương Củng khấu đầu kính lạy. Thư viết ngày 26 tháng Hai.”

Đã vậy ta phải cất quân ngay mới được. Nhà sư hãy về trước. Ta sẽ cho quân đi suốt ngày đêm! Có lẽ khi nhà sư về đến chùa, thì ta đã bắt sống được tướng giặc rồi đó.

HUỆ MINH – Trong chùa hiện mười phần nguy cấp! Xin quan lớn cũng tới ngay cho (vào).

ĐỖ TƯỚNG QUÂN – (ra lệnh) Ba quân lớn nhỏ, nghe hiệu lệnh đây. Mau điểm lấy năm nghìn người ngựa, ngày đêm đi gấp, thẳng đường sang chùa Phổ Cứu phủ Hà Trung. Em ta hiện bị giặc vây, ta phải đi mới được.

QUÂN LÍNH – Xin tuân lệnh. (cùng vào)

Cảnh thứ sáu: Trước chùa Phổ Cứu


TÔN PHI HỔ - (đem quân chạy) Quan lớn Ngựa Bạch đã đến. Làm thế nào bây giờ? Làm thế nào bây giờ? Thôi, chúng ta đành ném gươm cởi giáp, xuống ngựa xin hàng, Ngài thương phận nào, ta nhờ phận nấy!

ĐỖ TƯỚNG QUÂN – (kéo quân ra) Quân bay làm trò gì mà đứa nào cũng ném gươm cởi giáp, xuống ngựa, quỳ gối, xin ta tha thứ cho? Đã vậy hay. Chỉ đem chặt đầu một mình Tôn Phi Hổ, ra lệnh cho các quân. Còn đứa nào muốn làm lính nữa, mau khai tên ta thu biên cho. Bằng không muốn thì cho về làm việc.
(quân giặc dạ, vào)




Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch Captur46


Về Đầu Trang Go down
Sponsored content




Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch   Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch I_icon13

Về Đầu Trang Go down
 
Tây Sương Ký - Nhượng Tống dịch
Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 2 trangChuyển đến trang : 1, 2  Next

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
daovien.net :: TRÚC LÝ QUÁN :: Tài Liệu-