Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesVietUniĐăng kýĐăng Nhập
Bài viết mới
7 chữ by Tinh Hoa Today at 03:05

Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 20:13

Lục bát by Tinh Hoa Wed 11 Dec 2024, 02:26

Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Wed 11 Dec 2024, 02:13

Phật Pháp Nhiệm Mầu by mytutru Mon 09 Dec 2024, 23:04

Trụ vững duyên thầy by buixuanphuong09 Mon 09 Dec 2024, 09:16

BÁC SĨ. LỜI TỰ TIM MÌNH by phambachieu Sun 08 Dec 2024, 04:15

Chúc Muội Trăng by mytutru Fri 06 Dec 2024, 04:53

KÍNH THĂM THẦY, TỶ VÀ CÁC HUYNH, ĐỆ, TỶ, MUỘI NHÂN NGÀY NHÀ GIÁO VIỆT NAM 20/11 by mytutru Thu 05 Dec 2024, 23:02

KÍNH CHÚC THẦY VÀ TỶ by mytutru Thu 05 Dec 2024, 04:42

DỤNG PHÁP Ở ĐỜI by mytutru Thu 05 Dec 2024, 03:34

Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Tue 03 Dec 2024, 15:58

Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Tue 03 Dec 2024, 15:43

Tranh thơ Tú_Yên by Tú_Yên tv Tue 03 Dec 2024, 15:35

TRANG THƠ JENNY HO by phambachieu Mon 02 Dec 2024, 16:29

NHỚ NGHĨA THẦY by buixuanphuong09 Mon 02 Dec 2024, 14:56

SƯ TOẠI KHANH (những bài giảng nên nghe) by mytutru Mon 02 Dec 2024, 01:40

Lịch Âm Dương by mytutru Sun 01 Dec 2024, 05:24

Đường luật by Tinh Hoa Sat 30 Nov 2024, 05:22

KÍNH CHÚC THẦY TỶ by Ai Hoa Thu 28 Nov 2024, 13:05

Lời muốn nói by Tú_Yên tv Wed 20 Nov 2024, 15:22

Mấy Mùa Cao Su Nở Hoa by Thiên Hùng Tue 19 Nov 2024, 06:54

Có Nên Lắp EQ Guitar Không? by hong35 Sun 17 Nov 2024, 14:21

Trang viết cuối đời by buixuanphuong09 Sun 17 Nov 2024, 07:52

Chùm thơ "Có lẽ..." by Tú_Yên tv Sat 16 Nov 2024, 12:07

Hoàng Hiện by hoanghien123 Fri 15 Nov 2024, 11:36

Ngôi sao đang lên của Donald Trump by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 11:09

Cận vệ Chủ tịch nước trong chuyến thăm Chile by Trà Mi Fri 15 Nov 2024, 10:46

Bầu Cử Mỹ 2024 by chuoigia Thu 14 Nov 2024, 00:06

Cơn bão Trà Mi by Phương Nguyên Wed 13 Nov 2024, 08:04

Tự điển
* Tự Điển Hồ Ngọc Đức



* Tự Điển Hán Việt
Hán Việt
Thư viện nhạc phổ
Tân nhạc ♫
Nghe Nhạc
Cải lương, Hài kịch
Truyện Audio
Âm Dương Lịch
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
Đăng Nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập: 
:: Quên mật khẩu

Share | 
 

 BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Chuyển đến trang : Previous  1, 2, 3, 4, 5
Tác giảThông điệp
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7190
Registration date : 01/04/2011

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN   BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN - Page 5 I_icon13Wed 17 Apr 2024, 09:02

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965

L. M. Cao Văn Luận


41. Cơn hấp hối của chế độ 

    Trong những ngày cuối tháng bảy tôi theo dõi tin tức thấy rằng những cuộc dàn xếp giữa Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo và Ủy Ban Liên Bộ vẫn chưa đi đến một kết quả dứt khoát nào.

Bên Phật Giáo vẫn còn tố cáo chính phủ không thi hành đúng đắn thông cáo chung ba điểm được thỏa thuận giữa đôi bên ngày 16-5. Ở Huế trong lúc đó tình hình có vẻ yên tịnh nhưng vẫn căng thẳng, sự căng thẳng trước một cơn giông bão. Ngày 5-7 Tòa Án Quân Sự Đặc Biệt ở Sài Gòn xử vụ đảo chánh hụt ngày 11-11-60.

Vụ án này diễn ra lúc này chắn chắn không có lợi gì cho chế độ, trái lại càng làm cho lòng người thêm bất mãn với chế độ. Tiếp đến để phản đối vụ xử án này, Nhà Văn và nhà cách mạng Nhất Linh uống thuốc ngủ tự tử được đem vào Bệnh Viện Grall, nhưng không cứu được.

Bức thư tuyệt mệnh của ông lên tiếng phản đối vụ xử án các nhân sĩ liên can vụ đảo chánh hụt, chính sách đàn áp chính trị và tôn giáo của ông Diệm, đây là một đòn nặng đập vào chế độ vì Nhà Văn Nhất Linh có nhiều uy tín trong quần chúng, sinh viên, chính khách.

Từ ngày vào Nam ông gần như không còn hoạt động chính trị nữa, và những tác phẩm văn chương của ông sau này, như Gòng Sông Thanh Thủy v.v…không được nổi tiếng như những tác phẩm tiền chiến.

Tuy vậy ông là một người được nhiều giới kính mến vì quá trình cách mạng và văn chương của ông. Cái chết của ông gây xúc động mạnh trong quần chúng toàn chúng. Ông cũng có tên trong danh sách 14 nhân sĩ bị xét xử trước Tòa Án Quân Sự, và đến ngày 11-7 Tòa tuyên án, ông được tha bổng. Dù tha bổng Nhà Văn Nhất Linh, vụ án này vẫn gây căm phẫn cho mọi người. Đám tang Nhà Văn Nhất Linh ngày 13-7 tưởng đã thành một vụ biểu tình hỗn loạn lớn. Các giới sinh viên, Phật Giáo hình như cũng đã có ý định biến đám tang thành cuộc biểu tình.

Nhưng sau vì những biện pháp phòng ngừa quá nghiêm ngặt của chính quyền, nên đám tang chỉ là đám tang. Ngay trong ngày đó, Tòa Án Quân Sự lại xử vụ 19 nhân sĩ họp ở Khách Sạn Caravelle, được gọi là nhóm Caravelle đòi hỏi cải cách chính trị. Tất cả 19 bị can được tha bổng.

Đến hôm sau, 16-7 nhiều cuộc biểu tình của Tăng Ni Phật Tử diễn ra nhiều nơi tại Sài Gòn như trước Tòa Đại Sứ Mỹ, Chợ Bến Thành. Nhiều Nhà Sư lên tiếng đòi tự thiêu để phản đối hành động đàn áp Phật Giáo, trong đó có Sư Bà Diệu Huệ, thân mẫu Giáo Sư Bửu Hội hiện là Đại Sứ.

Như đổ thêm dầu vào lửa chính phủ lại tổ chức một cuộc biểu tình trước Chùa Xá Lợi, gồm toàn những Dân Vệ và Thanh Niên Cộng Hòa, cùng một số thương phế cựu chiến binh. Phật Giáo lại lên tiếng tố cáo hành động này, coi đó như một hành động phá hoại những cuộc điều đình giữa Phật Giáo và chính quyền, có mục đích kích động phá hoại. Để trấn an, chính quyền cách chức ông Thanh Tra Dân Vệ Đoàn, nhưng xem chừng vẫn không làm dịu được tình hình.

Tình hình ở Huế thoạt nhìn không có gì đặc biệt, có thể cho như yên tịnh nhưng bên trong dân chúng đa số Phật Giáo coi như sớm muộn cũng phải đi đến một hành động quyết liệt, một mất một còn với chế độ ông Diệm. Không có một cuộc biểu tình lớn nào diễn ra tại Huế nhưng những tin đồn từ Chùa, các đoàn thể Phật Tử được loan truyền về những người bị bắt, mất tích và về những hành động tàn bạo, bí mật của chế độ. Chính vì sự yên tịnh bề mặt đó, có người đã hiểu lầm là tình hình đã ổn định. Vào đầu tháng 8 Trần Quang Ngọc ra gặp tôi:

– Thưa Cha, Đức Cha (Ngô Đình Thục) sai con ra gặp Cha, nói rằng Cha không chịu họp các Giáo Sư, Sinh Viên để giải thích về đường lối của chính phủ đối với Phật Giáo, nên Đức Cha thấy cần phải đích thân tụ họp Giáo Sư, Sinh Viên để Đức Cha đích thân nói chuyện với họ. Vậy Cha tụ họp các Giáo Sư và Sinh Viên tại Giảng Đường để nghe Đức Cha nói chuyện.

Tôi không dám chắc làm như vậy có lợi hay có hại, điều đó còn tùy thuộc những điều Đức Cha Thục sẽ nói. Nhưng tôi không thể đưa ý kiến gì trái ngưọc vì đây là một mệnh lệnh.

Vả lại lúc này tôi có tâm trạng một người vượt biển gặp giông tố lớn biết thuyền sắp chìm, sức người không thể cứu vãn được nữa, chỉ còn trông vào phép lạ, mà phép lạ thì ít khi xảy ra lắm, nhất là với những người không cầu xin. Tôi ngại là Giảng Đường thì quá rộng mà số Giáo Sư hay Sinh Viên đến tham dự thì thưa thớt quá, sẽ làm buồn lòng Đức Cha và gây cho ngài nhiều phản ứng không có lợi gì cho việc hòa giải, nên tôi đưa ra một yêu cầu nhỏ:

– Hay lắm, nếu Đức Cha muốn nói chuyện với Sinh Viên, Giáo Sư thì cũng là một điểm tốt. Nhưng lúc này vào kỳ nghỉ Hè, không thể nào cưỡng bách Sinh Viên hay Giáo Sư đến dự đông đảo. Để phòng trống nhiều quá khó coi, vậy yêu cầu ông mời các học sinh Trung Học đệ nhị cấp một vài trường và Thanh Niên Cộng Hòa của ông đến cho đông cho chật giảng đường.

Mọi việc được thu xếp đúng như đề nghị của tôi, nên mặc dù dưới mắt tôi số người tham dự buổi nói chuyện của Đức Cha Ngô Đình Thục tại Đại Giảng Đường Viện Đại Học Huế phần lớn không phải là sinh viên Giáo Sư, nhưng dưới mắt bất cứ ai khác thì có thể coi như Giảng Đường đã chật ních sinh viên, Giáo Sư cũng được. Đức Cha cố gắng giải thích và biện hộ cho việc cấm treo cờ và ngỏ ý tiếc về vụ đổ máu ở đài phát thanh Huế ngày 8-5.

Đức Cha cho biết rằng chính phủ sẵn sàng điều tra trừng phạt thủ phạm và bồi thường đích đáng cho gia đình các nạn nhân bị thương tích hoặc thiệt mạng. Đức Cha tha thiết kêu gọi sinh viên đoàn kết để đối phó với nguy cơ cộng sản.

Đã có những sự dàn xếp trước, nên sau mỗi đoạn và cuối bài nói chuyện, mọi người vỗ tay hoan hô rầm rộ, làm cho Đức Cha có vẻ hài lòng lắm. Lúc bước xuống khỏi khán đài, tôi thấy nét mặt Đức Cha rất tươi tỉnh, vui vẻ.

Ngài nhìn tôi mỉm cười, vừa như tỏ dấu hài lòng, vừa như ngụ ý khoe: Thu phục đám Sinh Viên Giáo Sư này có khó chi đâu. Tôi cũng mỉm cười với ngài, nhưng với y khác hẳn: Đã chắc gì?

Đức Cha không hề hay biết, những người nghe Đức Cha nói chuyện phần đông không phải là Sinh Viên Giáo Sư Đại Học Huế mà là những Thanh Niên Cộng Hòa Phú Cam, học sinh các Trường Trung Học Tư Thục Công Giáo như Thiên Hựu.

Đức Cha lại có ý muốn nói chuyện với sinh viên học sinh một lần thứ hai, sau đó độ một tuần lễ.

Trong thời gian này tại Sài Gòn trong một buổi lễ của Phụ Nữ Bán Quân Sự, bà Ngô Đình Nhu đã lên tiếng gay gắt chỉ trích cuộc tranh đấu của Phật Giáo, có những lời lẽ chế giễu nhục mạ các Nhà Sư, và tỏ ra không tôn kính những vị Sư tự thiêu.

Ngày Lễ Phụ Nữ Bán Quân Sự vào ngày 3-8 và sáng hôm sau 4-8 tại Phan Thiết một Nhà Sư tự thiêu.

Từ Hoa Thịnh Đốn, trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo chí Mỹ, Đại Sứ Trần Văn Chương, thân phụ bà Nhu, nhạc phụ ông Nhu dĩ nhiên chỉ trích bà Nhu đã ăn nói kém lễ độ đối với các Tăng Ni và Phật Giáo. Mầy hôm sau, bà Nhu bằng giọng gay gắt và chế giễu cho rằng dù bà có thiếu lễ độ đối với Phật Giáo chăng nữa, thì có lúc cần phải thiếu lễ độ, nếu điều đó nói ra có một ích lợi và một tầm quan trọng lớn. Đối với người Việt Nam dù ai trái ai phải cái việc cha con chỉ trích nhau công khai đều được coi chẳng tốt đẹp gì, do đó dân chúng vốn đã ít cảm tình với bà Nhu, sau vụ cãi vã công khai giữa cha con này, lại càng mất hết những cảm tình còn lại đối với bà Nhu. Cùng lúc những tin đồn về đức hạnh của bà Nhu được tung ra, bằng những câu chuyện mập mờ chuyển từ miệng người này sang tai người khác. Tôi không biết sự thật như thế nào, nhưng tôi nhận thấy có một chiến dịch được điều khiển nhằm hạ uy tín gia đình ông Diệm, bắt đầu bằng cách hạ phẩm cách, đức hạnh của bà Nhu. Như cái việc bà Nhu mặc áo hở cổ, thực ra chẳng có gì quan trọng lắm, vậy mà cũng thành đề tài để chế giễu, chê bai bà Nhu.

Áo hở cổ của đàn bà Việt Nam cũng chẳng phải là một thời trang hoàn toàn mới lạ, và nhìn từ một khía cạnh khác thì đó là một đóng góp cho thẩm mỹ y phục của phụ nữ Việt Nam, nhưng vào lúc này mọi hành động của bà Nhu đều bị nhìn bằng con mắt chê bai có thành kiến xấu.

Có lẽ mất bình tĩnh vì bị chỉ trích và vì không khí thù nghịch chung quanh hoặc quá tự kiêu, bà Nhu lại tuyên bố với báo chí Mỹ rằng cần phải cứng rắn, thẳng tay, quyết liệt với phong trào đấu tranh của Phật Giáo.

Hình như bà Nhu có đề cập đến vụ tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức, và đã có những lời lẽ khiếm nhã trong lúc toàn dân, toàn thế giới đều xúc động vì vụ đó. Mấy hôm sau, ngày 12-8, sau lễ cầu siêu cho một vị sư tự thiêu tại chùa Xá Lợi, nữ sinh Mai Tuyết An đã tự nguyện chặt bàn tay để tỏ ý phản đối những hành động đàn áp Phật Giáo, và những lời lẽ khiếm nhã của bà Nhu đối với các nhà tu Phật Giáo. Ngày 13-8 tại Huế trước Chùa Phước Duyên, Quận Hương Trà, Đại Đức Thích Thanh Tuệ tự thiêu. Dân chúng, sinh viên Phật Tử biểu tình ở khắp mọi đường phố ở Huế, ở các Quận.

Vài cuộc xung đột và bạo động xảy ra một vài nơi. Chính quyền địa phương lo ngại, ban hành tình trạng giới nghiêm trong Thành Phố Huế và khắp tình Thừa Thiên.

Càng ngày tình hình càng đen tối thêm, vậy mà có người vẫn không chịu nhìn thấy sự thật. Khoảng giữa tháng 8, Đức Cha Ngô Đình Thục vào Sài Gòn đề nghị với ông Diệm bãi chức Viện Trưởng Đại Học của tôi và bổ nhiệm Viện Trưởng mới. Đức Cha có lẽ đã nghĩ rằng tôi không tích cực trong việc vận động sinh viên Phật Tử, hoặc ít ra im lặng để cho sinh viên Phật Tử tham gia các cuộc đấu tranh Phật Giáo.

Ngài còn nghĩ rằng sau hai lần nói chuyện với sinh viên Giáo Sư mà ngài cho như thành công lớn, ngài đã có uy tín với sinh viên Giáo Sư Huế và vai trò của tôi không cần thiết để trấn an sinh viên nữa. Trong lúc ở Sài Gòn Đức Cha gặp Trần Hữu Thế nguyên Bộ Trưởng Quốc Gia Giáo Dục lúc đó đang làm Đại Sứ tại Phi Luật tân vừa về Sài Gòn, và ngài đề nghị lên ông Diệm cho ông Thế làm Viện Trưởng Đại Học Huế thay tôi. Ông Diệm bằng lòng ngay, và ngày 14-8, Đức Cha cùng với Bộ Trưởng Quốc Gia Giáo Dục Nguyễn Quang Trình và ông Thế ra Huế.

Chiều ngày 15-8, lúc năm giờ, một nhân viên của Viện Đại Học Huế đến cho tôi hay rằng có ông Bộ Trưởng Quốc Gia Giáo Dục Nguyễn Quang Trình có mặt tại Tòa Đại Biểu Chính Phủ muốn gặp tôi có việc cần gấp. Tôi lên và gặp ông ngay. Ông Trình có vẻ lúng túng:

– Thưa Cha, tôi có một tin buồn muốn báo cho Cha biết.

Tôi đã đoán được vài phần cái tin buồn này:

– Tin chi mà buồn?

– Thưa Cha, Tổng Thống muốn cho Cha nghỉ, và đã quyết định đưa ông Trần Hữu Thế ra thay thế Cha giữ chức Viện Trưởng. Sáng mai lúc tám giờ yêu cầu Cha làm lễ bàn giao.

Thú thực là khi nghe tin này một cách chính thức tôi cảm thấy nhẹ nhàng trong người. Trong bụng tôi muốn reo lên:

– Tôi tưởng có chuyện gì khác, chớ chuyện đó có chi mà buồn. Tôi đã đoán trước được sự việc này rồi. Tôi là bạn của ông Diệm và gia đình ông, khi lên làm Viện Trưởng Đại Học Huế, cố gắng phát triển Đại Học Huế này, một phần vì muốn giúp ích cho đất nước, một phần cũng muốn giúp cho họ Ngô. Nay gặp tình thế gay cấn này, Tổng Thống không muốn tôi giúp cho ông nữa, không có gì là buồn mà lại vui là đàng khác. Thưa ông Bộ trưởng, ông là bạn của tôi, cũng là người đồng hương với tôi, tôi xin nói thật để ông biết trước, chế độ này đã đến thời mạt rồi, tôi đã khuyến cáo Tổng Thống, nài xin ông sửa đổi mà ông không chịu, lẽ ra tôi đã tự ý xin thôi, nhưng làm như thế tỏ ra là thiếu trung thành với một người mà mình đã phục vụ mấy năm nay, nên tôi đã bỏ ý định từ chức, nay Tổng Thống cho thôi, thì thật là may mắn cho tôi, ra đi mà khỏi mang tiếng là phản bội.

Ông Nguyễn Quang Trình có vẻ lúng túng không nói gì thêm về tương lai chế độ mà chỉ nói:

– Thôi đêm nay chúc Cha ngủ yên giấc và cũng xin Cha đừng để lộ tin này ra ngoài cho các Giáo Sư hay sinh viên nào biết, sáng mai đúng tám giờ Cha đến làm lẽ bàn giao một cách kín đáo với ông Thế.

– Được, tôi sẽ cho mời các Khoa Trưởng và vài Giáo Sư đến dự, nhưng không nói lý do.

Đêm đó thú thực tôi không chợp mắt được. Tôi ôn lại những việc mình đã làm từ chín năm nay, nhớ đến mối giao tình thân thiết với ông Diệm, những lần gặp gỡ thân mật. Tôi vẫn cầu mong cho ông Diệm sớm tỉnh ngộ để kịp thoát khỏi nguy cơ lần này, nhưng tôi rất ít hy vọng. Tôi cũng nhẩm trong đầu óc những điều sẽ nói trong lễ bàn giao.
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7190
Registration date : 01/04/2011

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN   BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN - Page 5 I_icon13Mon 22 Apr 2024, 09:56

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965

L. M. Cao Văn Luận


41. Cơn hấp hối của chế độ (tt)

    Sáng hôm sau, trước 7 giờ, tôi đã cho các Tùy Phái đi mời các Khoa Trưởng và một số Giáo Sư đến văn phòng Viện Đại Học Huế.

    Không có một sinh viên nào hay biết đến dự. Đúng 8 giờ sáng, ông Nguyễn Quang Trình, Trần Hữu Thế đã có mặt. Ông Bộ Trưởng tuyên bố lý do: Tôi được bãi chức và ông Trần Hữu Thế lên thay tôi làm Viện Trưởng Viện Đại Học Huế. Tôi ứng khẩu một diễn văn ngắn đại ý nói rằng tôi xin cảm ơn ông Bộ Trưởng Quốc Gia Giáo Dục Nguyễn Quang Trình đã dời gót ra chứng kiến lễ bàn giao, và xin ông Bộ Trưởng chuyển lời lên cám ơn Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã cất cho tôi cái gánh nặng làm Viện Trưởng Viện Đại Học Huế trong giai đoạn khó khăn và nhiều trách nhiệm này.

    Tôi nhắc lại những nỗ lực của tôi và những Khoa Trưởng Giáo Sư đã cộng tác với tôi dựng lên Đại Học Huế và tạo cho nó bộ mặt hôm nay. Ngày nay tình thế đã thay đổi sợ tôi không đủ khả năng gánh vác trách nhiệm nặng nề đối phó với những khó khăn, nên Tổng Thống đã cho tôi được trở lại đời sống tu hành, tôi hết lòng cám ơn.

    Tôi ra đi không buồn phiền chi cả, mà mừng vì ngọn đuốc văn hóa mà tôi và các cộng sự viên đã cố gắng nhóm lên ở Huế, nay được trao cho một bàn tay khác hy vọng đủ khả năng tiếp tục làm bừng sáng lên vì ông Tân Viện Trưởng kế tiếp nhiệm vụ của tôi là một Nhà Ngoại Giao, chính trị và trí thức tài ba.

    Như tên ông đã tiền định ông là người ‘‘có thế’’, ông được lòng tin của Tổng Thống và Đức Tổng Giám Mục, ắt sẽ làm tròn nhiệm vụ một cách dễ dàng.

    Tôi kêu gọi các Khoa Trưởng Giáo Sư trước đã hợp tác với tôi, hãy tiếp tục hợp tác với ông Tân Viện Trưởng và đừng buồn vì chuyện ra đi của tôi, vì ai cũng cần phải tâm niệm rằng chẳng có nhân vật nào là không thể thay thế. Những người mà người ta tưởng không thể thay thế ngày nay đã nằm chật nghĩa địa, như lời nói của một văn hào quốc tế. Có tôi, hay không, thì Viện Đại Học vẫn tiếp tục bình thường.

    Tôi dứt lời. Toàn thể Giáo Sư, Khoa Trưởng ngơ ngác chưa hiểu được biến cố nhỏ vừa xảy ra vì bất ngờ. Họ nhìn tôi, nhìn ông Trình, nhìn ông Thế với những đôi mắt ngơ ngác, nhiều người cúi đầu. Rồi một phản ứng mà tôi đã đoán trước bột phát trong đám Khoa Trưởng và vài Giáo Sư. Nhiều người lên tiếng phản đối việc thay thế tôi giữa lúc này và tuyên bố không công nhận lễ bàn giao. Nhiều người bỏ đi ra ngoài một cách lặng lẽ, âm thầm. Ông Trình và ông Thế có vẻ lúng túng. Nhưng rồi lễ bàn giao cũng chấm dứt theo đúng nghi lễ.

    Khoảng chín giờ, sau lễ bàn giao, vừa về đến nhà tôi lấy làm ngạc nhiên, thấy ngoài đường, trong sân, trên thềm chật đầy những sinh viên. Tôi đoán chừng ngay sau khi ông Trình tuyên bố quyết định của Tổng Thống, một vài Giáo Sư bất mãn đã bỏ ra về và báo tin cho sinh viên biết.

    Thấy tôi, các sinh viên reo hò vẫy tay:

    – Cha không thể đi được.

    – Cha không thể bỏ chúng con lúc này.

    – Cha hãy ở lại với chúng con.

    – Trần Hữu Thế cút đi.

    – …

    Vài sinh viên lớn tuổi và có vẻ đầu đàn trong bọn xúm lại gần tôi, nắm tay tôi dẫn lên thềm, rồi đưa hai tay tôi giơ lên cao hô to:

    – Hoan hô Viện Trưởng Cao Văn Luận.

    Cả bọn lặp lại nhiều lần, và càng lúc số sinh viên kéo đến ngoài đường càng đông thêm.

    Tôi lo sợ nếu cứ nhùng nhằng thế này thì chẳng mấy lúc số sinh viên tụ tập ở đây lên đến hàng ngàn, và từ bất mãn này cộng thêm bất mãn khác, họ có thể biến cuộc tụ họp ôn hòa này thành một cuộc biểu tình mà hậu quả chưa biết ra sao.

    Tôi cũng lo sợ trong đám sinh viên thực tình thương mến tôi, có một số trong phong trào tranh đấu muốn lợi dụng sự bất mãn của các sinh viên ngây thơ nhẹ dạ để lôi cuốn họ vào những hành động chống đối.

    Tôi vẫy tay chào và ra hiệu cho đám sinh viên yên lặng:

    – Các anh chị về đi, Cha chưa đi ngay đâu mà sợ. Nếu Cha có đi thì ít ra cũng phải đến mai.

    Đám sinh viên dùng dằng chưa muốn giải tán ngay. Tôi nói những anh đứng gần nhất:

    – Các anh nên nói với anh chị em giải tán đi thôi, kẻo người ta hiểu lầm là Cha sách động các anh chị.

    Tôi nói câu này như một lời nói đùa mà thôi.

    Đám sinh viên từ từ giải tán, từng tụm năm ba người kéo ra về, bàn tán xôn xao về việc giải nhiệm chức Viện Trưởng của tôi.

    Tôi vào nhà gọi người nhà dọn cơm sớm. Thu xếp một ít quần áo rồi lúc hơn 12 giờ trưa mượn chiếc xe hơi riêng của ông Vũ Đình Chính vô Đà Nẵng ngay. Tôi đến Cha Ngô Đình Phú cho ông biết chỗ ở, và nhờ giữ kín.

    Về sau tôi được biết, lúc 3 giờ chiều hàng ngàn sinh viên kéo đến trước nhà tôi khiêng theo một chiếc kiệu, dự định rước tôi lên Viện Đại Học, biểu tình đòi ông Thế phải từ chức và yêu cầu Tổng Thống hủy bỏ quyết định giải nhiệm tôi. Các Khoa Trưởng Giáo Sư phản đối ôn hòa hơn, nhưng ngay trong ngày đó họ cũng làm kiến nghị, gởi lên Bộ Giáo Dục và Phủ Tổng Thống yêu cầu trả chức Viện Trưởng lại cho tôi.

    Các sinh viên tìm không thấy tôi, hay tin tôi đã bỏ đi lại càng tỏ ra bất mãn hơn, khiêng kiệu trống kéo xuống đường tiến về phía Viện Đại Học.

    Lúc đầu đám sinh viên có lẽ không đông lắm nhưng dọc đường có thêm nhiều sinh viên và học sinh trung học gia nhập làm cho đám biểu tình lên đến hàng ngàn người đến Viện Đại Học. Trần Hữu Thế không dám ra tiếp họ. Các Giáo Sư Khoa Trưởng phần lớn đều tán đồng cuộc biểu tình này nên chẳng có ai ra can thiệp để yêu cầu sinh viên giải tán, vì thế mà càng về chiều thì cuộc biểu tình càng đông đảo và ồn ào. Ông Cẩn, Đức Cha Thục bây giờ thấy hậu quả nguy hiểm của việc giải nhiệm tôi, lo lắng lắm, và Đức Cha Thục cho hai Cha là Cha Phát, Tổng Đại Diện Tòa Giám Mục Huế và Cha Bính vào Đà Nẵng tìm tôi, trao cho tôi một lá thư yêu cầu tôi trở lại dàn xếp ổn thỏa vụ biểu tình của sinh viên vì sợ sinh viên sẽ làm loạn và tạo nên tình hình gay cấn thêm.

    Trong bức thư Đức Cha Thục kêu gọi tinh thần hiểu biết và bác ái của một vị Linh Mục nơi tôi hãy giúp Đức Cha trấn an các sinh viên trong ít lâu. Đức Cha cũng giải thích việc giải nhiệm tôi và nói rằng Tổng Thống nhận thấy lúc này vì tình thế quá khó khăn, phức tạp, sợ một vị Linh Mục giữ chức vụ Viện Trưởng Viện Đại Học Huế sẽ gặp tình cảnh khó xử, nên Tổng Thống mới cho một người đời thay thế chứ thực tâm Tổng Thống không có ý gì là buồn lòng hoặc hết tin cậy tôi cả.

    Tổng Thống cũng đã có ý định cho tôi thôi chức Viện Trưởng để cử tôi làm đại diện Việt Nam Cộng Hòa tại Cơ Quan Văn Hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO).

    Tôi đọc thư Đức Cha Thục trong lúc Cha Phát và Cha Bình ngồi chờ. Tôi nhờ hai Cha thưa lại với Đức Cha rằng tôi không hề buồn phiền gì cả đối với Tổng Thống và Đức Cha về việc cho tôi thôi làm Viện Trưởng, trái lại tôi vui mừng và cám ơn vì hai vị đã gỡ cho tôi một gánh nặng lớn lao.

    Tôi cũng sẵn sàng làm mọi việc để giúp Đức Cha giải quyết vấn đề sinh viên, nhưng việc tôi trở ra Huế lúc này quả thực không thể làm sao để cho vụ sinh viên yên được. Tôi ra Huế lúc này chẳng những không giúp làm ổn định tình hình, mà trái lại có thể gây nên những phản ứng bất ngờ và tai hại nơi sinh viên.

    Tôi nêu lên trường hợp nếu bây giờ tôi trở ra Huế sinh viên quyết liệt đòi tôi làm Viện Trưởng trở lại, và đòi hủy chức ông Thế, thì Đức Cha và Tổng Thống sẽ xử cách nào?

    Tôi, Đức Cha và Tổng Thống vì danh dự và tự ái mỗi người không thể thay đổi quyết định được. Như thế sinh viên lại càng bất mãn, và vụ lộn xộn càng nổ lớn thêm.

    Vậy tôi nhờ hai Cha về thưa lại với Đức Cha điều đó và xin phép Đức Cha cho tôi được nghỉ ở Đà Nẵng mấy hôm rồi vô Sài Gòn, còn về cái chức Đại Diện Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa tại UNESCO thì tôi xin cám ơn Đức Cha và Tổng Thống, nhưng không dám nhận, vì sau bảy năm làm Viện Trưởng tôi đã ngao ngán và lo sợ trách nhiệm lắm rồi, nay chỉ muốn được yên ổn để lo việc đạo mà thôi.

    Tôi ở Đà Nẵng được hai hôm nữa thì ông Cẩn sai Phan Quang Đông vào tìm gặp tôi và cho tôi biết rằng ông Nhu đánh điện ra cho ông Cẩn nói phải tìm mọi cách mời tôi ra Huế. Phan Quang Đông cũng cho tôi biết trong mấy ngày qua, phong trào sinh viên trở nên gay cấn, lộn xộn hơn, tuy chưa có đám biểu tình nào thật lớn, nhưng mầm chống đối trong dân chúng nay lại được các sinh viên tham dự gần như đồng loạt, cùng dâng cao hơn. Mọi nhà Phật Tử đều đóng cửa cầu siêu cho Đại Đức Tiêu Diêu tự thiêu ngày 18-8, tức là cùng ngày tôi ra đi khỏi Huế.

    Tôi cũng trả lời tương tự như đã trả lời với Đức Cha Thục.

    Đêm 20-8 tại Đà Nẵng có cuộc biểu tình lớn của Phật Tử. Cuộc biểu tình lan khắp các đường phố lớn. Nhiều vụ xô xát với Cảnh Sát xảy ra làm cho nhiều người bị thương ở cả hai phía Phật Giáo và Cảnh Sát. Lệnh giới nghiêm được áp dụng tại Đà Nẵng. Cũng trong đêm này Cảnh Sát chiến đấu đến bao vây lục soát Chùa Xá Lợi lúc bấy giờ là trụ sở của Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo. Những Phật Tử tụ tập ở đây đã chống lại Cảnh Sát và gây ra nhiều cuộc xô xát.

    Cảnh Sát nổ súng làm nhiều người bị thương, và một số Tăng Ni, Phật Tử bị bắt. Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết bị Cảnh Sát xô ngã bị thương ở mắt. Các Chùa khác ở Sài Gòn như Chùa Ấn Quang, Kỳ Viên Tự cũng bị lục soát. Gần sáng ông Diệm triệu tập Hội Đồng Nội Các, tuyên bố cần phải quyết liệt và cứng rắn đối với Phật Giáo, vì có tin việt cộng sắp lợi dụng các vụ lộn xộn này để gây loạn ở Thủ Đô. Sáng hôm đó, ông Diệm ban hành lệnh giới nghiêm trên toàn quốc, tuyên bố tình trạng khẩn trương, và giao trách nhiệm bảo vệ an ninh cho Quân Đội.

    Hôm sau 21-8 tôi hay tin ông Vũ Văn Mẫu xuống tóc để phản đối sự đàn áp Phật Giáo. Ngày 21-8 tôi vào Sài Gòn ở tại nhà ông Nguyễn Hạnh đường Hiền Vương. Tôi lại được tin Đại Sứ Trần Văn Chương tại Hoa Thịnh Đốn được chấm dứt nhiệm vụ. Bà Ngô Đình Nhu lúc đó đi vòng quanh thế giới, đến đâu cũng tuyên bố những lời lẽ có luận điệu đả kích, thóa mạ Phật Giáo và để cho cộng sản sách động các vụ tranh đấu của Phật Giáo. Dư luận Mỹ và quốc tế lúc bấy giờ như tôi đã trình bày trước, hoàn toàn chống lại ông Diệm, và nhất là bà Nhu, cho nên những lời lẽ của bà Nhu, cũng như sự xuất hiện của bà càng làm cho dư luận quốc tế phản ứng bất lợi đối với chính phủ.

    Tôi nhận được một điện tín của ông Trần Văn Chương báo tin cho tôi biết ông cũng bị giải nhiệm và chúc mừng tôi đã thoát khỏi cái ‘’nợ’’.

    Thời gian mấy tháng ở Sài Gòn, tôi gần như bị canh chừng và bao vây. Lúc nào trước cửa nhà ông Hạnh cũng có một vài cảnh sát chìm và cảnh sát đồng phục lảng vảng. Tôi biết vậy nên chẳng đi đâu cũng không gặp ai. Chẳng phải tôi lo cho bản thân mà sợ phiền lụy đến những người tôi gặp gỡ. Từ Đà Nẵng vào vài hôm, tôi đến gặp Đức Khâm Sứ của Tòa Thánh.

    Ngài cho biết rằng có lẽ nhờ sự can thiệp của Đức Giáo Hoàng nên có một lúc Tổng Thống đã quyết định cho ông bà Nhu đi Pháp trong ít lâu, và thay đổi thành phần Nội Các, bãi bỏ những biện pháp cứng rắn đối với Phật Giáo, nhưng sau một phiên họp Hội Đồng Gia Tộc thu hẹp, không có bà Nhu, ông Cẩn, chỉ có ba người là ông Diệm, ông Nhu và Đức Cha Thục, Tổng Thống đã quyết định dùng các biện pháp cứng rắn như đã ban hành ngày 21-8. Đức Khâm Sứ lấy làm tiếc về việc tôi bị giải chức. Nhưng ngài tỏ ra lo lắng hơn vì tình hình đất nước Việt Nam.

    Đức Khâm Sứ Tòa Thánh cho tôi biết rằng, theo nhận định của ngài thì chế độ họ Ngô khó thoát khỏi cơn thử thách định mệnh này, và để tránh những hậu quả tai hại cho Đạo Công Giáo, Đức Khâm Sứ đã mời Đức Cha Thục đi La Mã sớm để dự Cộng Đồng Vatican mặc dù Cộng Đồng chưa khai mạc. Ngài cho tôi hay rằng trong trường hợp các cuộc hỗn loạn xảy ra Đức Cha Thục khó có thể tránh được những tai họa khó lường, và trong trường hợp đó Tòa Thánh phải can thiệp. Nếu thành công Tòa Thánh cũng mang tiếng là dùng áp lực, nếu thất bại thì mất uy tín Giáo Hội.

    Đức Cha Thục được mời đi dự Cộng Đồng Vatican và ngài lên đường vào tháng 9, sang Romma rồi qua Nữu Ước phát một thông cáo biện hộ cho các biện pháp cứng rắn của chính phủ, nhưng dư luận Mỹ bấy giờ đã có thành kiến với ông Diệm cho nên chẳng có lời biện hộ nào thay đổi được chiều hướng dư luận. Đức Hồng Y Spellman ngày trước rất thân thiết với gia đình ông Diệm, và quen Đức Cha Thục, cũng không tiếp. Trong thời gian này, tôi hay tin ông Đại Sứ Henry Cabot Lodge đến Sài Gòn làm Đại Sứ, thay thế Đại Sứ Nolting bị triệu hồi về nước và hình như bị khiển trách là đã báo cáo sai lạc về chế độ ông Diệm.

    Tất cả các Trường học bị đóng cửa vô hạn định. Cũng trong thời gian này, tôi nằm nhà đọc sách, ngóng tin tức, và ngày nào cũng có nghe tin biểu tình lớn của sinh viên, Phật Tử Tăng Ni trước Chợ Bến Thành. Hơn ngàn người phần lớn các Tăng Ni trẻ bị bắt và đem giam tại Trại Huấn Luyện Quang Trung.

    Vấn đề Pháp tại Việt Nam được đưa ra trước Liên Hiệp Quốc và Đại Sứ Bửu Hội đề nghị Liên Hiệp Quốc cử phái đoàn sang Việt Nam điều tra. Tình thế càng ngày càng gay cấn, và đến cuối tháng mười tất cả bảy vụ tự thiêu trên toàn quốc.

    Thời gian này tôi không tiếp xúc với ai nhiều, nhưng vẫn để ý theo dõi tình hình và dư luận trong ngoài nước. Nếu tôi nhớ không lầm thì ngày 25-8 trong chương trình phát thanh của Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ, Tổng Thống Kennedy họp báo tuyên bố rằng muốn công cuộc ngăn chặn cộng sản tại Việt Nam hữu hiệu cần phải thay đổi chính sách, và không chừng, thay đổi hệ thống nhân sự lãnh đạo tại Sài Gòn. Cũng khoảng thời gian này, bà Ngô Đình Nhu họp báo tại Los Angeles tuyên bố rằng Mỹ đang dự định tổ chức một cuộc đảo chánh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Bà tố cáo rằng hiện thời ở Việt Nam bất cứ một cuộc đảo chánh nào cũng không thể thành công được trừ khi được Mỹ xúi giục và hậu thuẫn.

    Những tờ báo Mỹ như Newsweek, Business week, Washington Post đề cập đến một cuộc đảo chánh do các tướng lãnh Việt Nam chủ mưu, hay thực hiện, có sự đồng tình của Bộ Ngoại Giao Mỹ. Tờ Newsweek viết rằng không có gì bảo đảm, nếu Mỹ chủ mưu một cuộc đảo chánh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm hiện nay thì công cuộc chống cộng sẽ hữu hiệu hơn. Tạp chí Business week thì viết với tựa đề Mỹ sắp đào hố dưới chân chế độ ông Diệm, rằng có thể chúng ta (Mỹ) sẽ phải hậu thuẫn cho một cuộc đảo chánh bằng lực lượng quân sự. Hoa Thịnh Đốn đã ngỏ ý cách khác rõ ràng cho mọi người đủ hiểu rằng nơi này không còn ủng hộ ông Diệm nữa, bất cứ hành động nào âm mưu lật đổ chế độ Diệm đều được cứu xét với chiều hướng thiện cảm.

    Tôi được nghe những tin đồn nói rằng Bộ Ngoại Giao Mỹ họp với một vài Dân Biểu và Thượng Nghị Sĩ Mỹ. Mỹ đang gây áp lực mạnh mẽ đối với Tổng Thống Kennedy để xúi ông này bật đèn xanh cho phép nhóm Á Châu Sự vụ tại Bộ Ngoại Giao công khai hậu thuẫn một cuộc đảo chánh lật đổ ông Diệm.

    Sự thành công của nhóm này được chứng minh bằng sự triệu hồi Đại Sứ Nolting, Giám Đốc Cơ Quan Trung Ương Tình Báo Mỹ CIA tại Việt Nam là ông Richardson về Hoa Thịnh Đốn, và thay thế bằng Đại Sứ Lodge. Nhóm chủ trương loại trừ ông Diệm tại Bộ Ngoại Giao do các ông Roger Hilsman, Averell Harriman, Paul Kattenburg. Đặc biệt ông Kattenburg, Giám Đốc Việt Nam Vụ tại Bộ Ngoại Giao Mỹ, trước đây từng là Sĩ Quan Tình Báo trong Cơ Quan Tình Báo Quân Đội OSS tại Á Châu vào năm 1955, đã chủ trương lật đổ ông Diệm một lần.
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7190
Registration date : 01/04/2011

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN   BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN - Page 5 I_icon13Mon 22 Apr 2024, 09:57

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965
 
L. M. Cao Văn Luận
 

42. Cuộc đảo chánh và cái chết của Tổng Thống Diệm 
 
     Theo một tài liệu được tiết lộ tại Quốc Hội, thì từ khi trở lại chức vụ Giám Đốc Việt Nam Vụ, ông Kettenburg chủ xướng một phong trào chống ông Diệm, gây ác cảm với ông Diệm trong hàng ngũ chính khách và Bộ Ngoại Giao Mỹ. Ông đã thành công ngoài sức tưởng tượng, nhờ những sự vụng về của ông Diệm trong vụ Phật Giáo. Báo chí Mỹ khi nghe nói đến đàn áp tôn giáo thì lập tức có thiện cảm với kẻ bị đàn áp và chống lại chính quyền chủ trương đàn áp.
 
     Một bằng chứng khác về thái độ ác cảm của Mỹ lúc bấy giờ đối với ông Diệm, là trước ngày đảo chính vài tháng Mỹ ngưng tài trợ cho Lực Lượng Đặc Biệt, do Đại Tá Lê Quang Tung chỉ huy, chỉ vì một lý do duy nhất là đơn vị thiện chiến này ủng hộ ông Diệm.
 
     Mặt khác, Mỹ cũng ngưng viện trợ mười hai triệu Mỹ kim cho Việt Nam để mua thực phẩm và máy móc. Những hành động có tính cách áp lực của Mỹ lập tức gây ra những hậu quả trông thấy. Trước hết một số Tướng Lãnh, Quân Nhân cao cấp nhận thấy Mỹ đã bật đèn xanh cho họ tổ chức đảo chánh. Ngoài dân chúng, vật giá vọt tăng lên gây bất mãn nặng nề đối với chế độ hiện thời. Giá Mỹ kim đang ở khoảng 75$ Việt Nam tăng vọt giá gấp đôi, một Mỹ kim đổi được một trăm bảy mươi đồng Việt Nam.
 
     Ông Diệm và ông Nhu biết những tin đồn về một cuộc đảo chánh, nhưng vẫn không tin rằng Mỹ chủ động.
 
     Tuy nhiên hai ông cũng biết rằng ông Đại Sứ Henre Cabot Lodge lúc mới đến Sài Gòn, trước khi vào trình ủy nhiệm thư đã tiếp xúc với các nhà lãnh đạo phong trào Phật Giáo đấu tranh chống ông Diệm. Trong một cuộc tiếp xúc với ông Lodge, ông Diệm nêu lên những tin đồn về một cuộc đảo chánh và hỏi thái độ của Mỹ, của Tòa Đại Sứ Mỹ trong trường hợp đó như thế nào. Ông Lodge đã trả lời một cách mỉa mai rằng Tòa Đại Sứ Mỹ lúc nào cũng sẵn sàng giúp ông bảo toàn tánh mạng và ra khỏi nước yên lành.
 
     Đêm hai mươi bốn tháng tám, một điện tín khẩn của Bộ Ngoại Giao Mỹ theo lối ám hiệu phổ biến trên đài tiếng nói Hoa Kỳ: Nhờ bạn mua dùm một chai huyt-ki tại P.X, đó là ám hiệu nói rằng ngày giờ hành động (đảo chánh) đã rất gần, hãy chuẩn bị gấp. Cũng trong chương trình phát thanh đó, đài tiếng nói Hoa Kỳ công khai xúi giục các đơn vị quân đội chống lại ông Diệm.
 
     Hôm sau, ông Diệm điện mật cho các chỉ huy trưởng gởi kiến nghị và điện văn để chống lại lời xúi giục của Mỹ và lên tiếng ủng hộ ông.
 
     Tôi vừa buồn phiền, vừa lo lắng khi nghe những tin tức trên đây, và mong muốn được hiểu rõ tình trạng trong nước hơn, nhưng như đã nói lúc này ông Diệm cho người canh chừng tôi, báo cáo lên ông Nhu và ông Diệm mọi sự đi lại của tôi nên tôi không thể đến gặp bất cứ ai, nhiều khi tôi muốn viết một bản điều trần thứ hai, cảnh giác ông Diệm một lần chót.
 
     Nhưng tôi nghĩ rằng tôi đã làm hết sức mình. Ông Diệm đã nghe ý kiến tôi, bây giờ có nhắc lại những khuyến cáo chân thành trước, thì chỉ làm cho ông Diệm khó chịu mà chẳng ích lợi gì. Tôi cũng hết sức thất vọng từ khi nghe Đức Khâm Sứ nói chuyện với tôi và cho biết ông Diệm đã có thái độ và đường lối chủ trương cứng rắn, sau cuộc họp Hội Đồng Gia Tộc thu hẹp.
 
     Tôi chẳng còn biết làm gì hơn là ngồi nhà mở radio nghe đủ các đài và càng nhận thấy rõ ràng hơn là người Mỹ đã thực hiện lời đe dọa trước đây, nhắn nhủ qua tôi: Cuối năm 1963 phải thanh toán ông Diệm thực sự.
 
     Một sự nhầm lẫn tai hại khác của ông Diệm là đã chọn một vị tướng lãnh làm Tổng Trấn Sài Gòn, lúc bấy giờ, vì tin tưởng vị tướng ấy trung thành tuyệt đối với ông, với chế độ. Quả thực lúc đầu Tướng Đính lên nắm quyền Tổng Trấn chưa có ý nghĩ lật đổ ông Diệm.
 
     Nhưng vào giữa tháng 10 khi Tướng Đính tìm cách đưa các đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt của Đại Tá Lê Quang Tung đi xa Sài Gòn lấy cớ rằng các mặt trận khác cần đến Lực Lượng Đặc Biệt hơn là Sài Gòn vì tại Sài Gòn, ông đủ quân số thiện chiến và trung thành phòng ngừa mọi bất trắc, thì người ta thấy ngay sự thay đổi lập trường của Tướng Đính.
 
     Tôi nghe một nhà báo Mỹ nói rằng Mỹ và những kẻ chủ mưu đã tốn rất nhiều công khó và cơ mưu để thu phục Tướng Đính về phe đảo chánh.
 
     Một nhân viên C.I.A Mỹ đã tiếp xúc với một thầy tướng số mà Tướng Đính rất tin nghe để ông thầy tướng này dùng tướng số bói toán lung lạc lập trường của Tướng Đính. Người Mỹ đã nghiên cứu kỹ tính tình, tâm lý và gần như làm một cuộc phân tâm học kỹ lưỡng cho tất cả các Tướng Lãnh Việt Nam có chức quyền thời bấy giờ, và đã dựa vào những hiểu biết tâm lý đó để xúi giục họ chống lại ông Diệm. Đại loại thì lúc bấy giờ ông Tướng nào cũng thấy mình nhỏ bé trước mặt ông Diệm, Đức Cha Thục và cả bà Nhu và họ đã dùng những người thân cận để nịnh bợ, đề cao, xúi giục.
 
     Một người Mỹ, sau ngày đảo chánh đã kể lại rằng những Tướng lãnh Việt Nam rất tin tướng số. Người Mỹ biết điều đó đã khổ công mua chuộc các thầy tướng số được các Tướng lãnh tin nghe để các ông thầy tướng nói cho họ rằng còn ông Diệm thì sự nghiệp quân sự và chính trị của họ khó mà thành công được.
 
     Các thầy tướng thường thạo chữ nho, dùng lối chiết tự tên tuổi của các tướng lãnh, nói tên của những người trong gia đình họ Ngô, để chứng minh rằng trên cuộc đời của họ có một chướng ngại vật to lớn mà theo lối chiết tự, thì chướng ngại vật đó không ai khác hơn anh em ông Diệm. Từ chỗ đó gợi cho họ có ý phải loại trừ ông Diệm, quả thật chẳng khó khăn chi lắm. Người Mỹ cũng đã hết ủng hộ ông Diệm và bất cứ hành động chống đối ông Diệm nào cũng được Mỹ thuận tình.
 
     Sau ngày Quốc Khánh năm 63, tức là ngày 26-10, những tin đồn về các cuộc đảo chánh lại càng được loan truyền khắp nơi. Tôi chẳng đi đâu cũng được nghe đầy đủ những tin đồn đó. Hình như ngày 30 hay 31-10 tôi được một người quen cho biết các đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt của Đại Tá Tung đã được lệnh của Tổng Thống rời Sài Gòn gấp. Ngày 31-10 ông Diệm tuyên bố trả tự do cho tất cả những Tăng Ni Phật Tử bị bắt trong các cuộc biểu tình và khám xét Chùa chiền trước đây.
 
     Điều kỳ cục là chính tin này đã làm cho cuộc đảo chánh xảy ra ngày hôm sau, 1-1. Điều đó nghĩ lại cũng dễ hiểu. Phe chủ trương đảo chánh có một số người Mỹ trong đó lo sợ biện pháp hòa dịu của ông Diệm sẽ làm cho Phật Giáo hết chống đối chế độ, và như thế đã gỡ được một cái ngòi chống đối, cho nên họ phải hành động gấp trước khi những kẻ bị bắt giam thật sự được phóng thích. Trước hành động này của ông Diệm hình như một số người Mỹ trong đó có Đại Sứ Lodge có vẻ bớt quyết liệt trong chủ mưu hạ ông Diệm.
 
     Trong cuộc tiếp xúc cùng ngày 1.11.1963 giữa ông Diệm và ông Lodge và Đô Đốc Marry Felt, Tư Lệnh các Lực Lượng Mỹ tại Viễn Đông, ở Dinh Gia Long, ông Lodge đã nói rằng ông hy vọng tình hình chính trị sẽ được cải thiện. Đô Đốc Felt rời Sài Gòn ngay sáng hôm đó, và hình như những người Mỹ tổ chức chương trình thăm viếng Đô Đốc Felt muốn tránh cho ông trường hợp khó xử trên nếu ông ở lại thêm vài giờ. Điều này đủ chứng tỏ người Mỹ biết rõ cuộc đảo chánh sắp xảy ra trong ngày này.
 
     Cuộc đảo chánh đã được quyết định vào ngày 1-11, thứ sáu nhằm Lễ Các Thánh giờ khởi sự định vào lúc 1 giờ 30 chiều. Trong sáng thứ sáu 1-11, dân chúng thấy nhiều đoàn xe nhà binh chở đầy lính tráng có súng ống chạy qua lại nhiều đường phố Sài Gòn.
 
     Những việc tôi kể sau đây, đúc kết những tin tức, hiểu biết thu lượm về sau, về sự chính xác khó được hoàn toàn. Sáng 1-11, khoảng chín giờ, Đô Đốc Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam tiếp hai sĩ quan thân cận đến chúc mừng ngày sinh nhật của ông.
 
     Mở đầu câu chuyện hai người này yêu cầu ông Quyền theo phe Cách Mạng, nhưng ông Quyền từ chối và đã bị bắt lên xe hơi đem ra ngoại ô thủ tiêu ngay lập tức. Tuy vậy Hải Quân vẫn trung thành với ông Diệm.
 
     Vào trưa ngày thứ sáu, các đơn vị tham gia cuộc đảo chánh đã chiếm giữ các vị trí then chốt trong và quanh Đô Thành bao vây Dinh Gia Long, Thành Cộng Hòa, tức là căn cứ của Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống, tiếng súng đầu tiên nổ khoảng 1 giờ 30. Chỉ có hai nơi chống trả thật sự là Bộ Tư Lệnh Hải Quân ở Bến Bạch Đằng và Thành Cộng Hòa.
 
     Vào lúc gần 5 giờ chiều, đài phát thanh Sài Gòn loan tin cuộc đảo chánh và đọc đi đọc lại nhiều lần tuyên ngôn của phe đảo chánh. Lúc đó ông Diệm điện thoại cho Đại Sứ Lodge báo tin rằng một vài đơn vị quân đội nổi loạn và hỏi thăm thái độ của Mỹ đối với vụ này ra sao. Ông Lodge trả lời lạnh lùng rằng: Ông đang nghe một vài tiếng súng ngoài đường phố, và nếu ông Diệm cần được bảo đảm sự an toàn sinh mạng thì ông có thể cho một trực thăng đến chở hai anh em ông đến Tòa Đại Sứ, lên Tân Sơn Nhất đi ngoại quốc. Nghe đâu ông Diệm và ông Nhu đã giận dữ nói rằng: Ông sẽ dẹp tan đám quân nổi loạn hôm nay như đã làm lần trước 11.11.1960. Ông Lodge nhắc lại rằng nếu ông Diệm và ông Nhu cần giúp đỡ để bảo vệ sinh mạng và ra ngoại quốc thì lúc nào ông cũng sẵn sàng.
 
     Vào sẫm tối khoảng 8 giờ chiều anh em ông Diệm thoát ra ngõ sau Dinh Gia Long, nghe nói theo một đường hầm từ Dinh trổ ra một căn nhà ở đường Lê Thánh Tôn, rồi dùng xe hơi mang bảng số đến nhà Mã Tuyên. Tại đây ông Diệm và ông Nhu vẫn chưa hiểu rõ tình hình, tin tưởng rằng Tướng Đính vẫn còn trung thành và gọi điện thoại cho Tướng Đính nhiều lần.
 
     Lần cuối Tướng Đính đã xẵng giọng trả lời ông đã cứu thoát ông Diệm nhiều lần, nhưng lần này thì không thể được. Có lẽ chính những lần gọi điện thoại đã giúp cho phe đảo chánh biết được nơi ẩn nấp của ông Diệm và ông Nhu. Sáng ngày thứ bảy 2-11, ông Diệm và ông Nhu vừa từ nhà Mã Tuyên đến Nhà Thờ Thánh Phan-Xi-Cô Xa Vi Ê còn được gọi là Nhà Thờ Cha Tam ở Chợ Lớn được vài phút thì ba xe thiết giáp đến bao vây nhà thờ.
 
     Tướng Mai Hữu Xuân đích thân chỉ huy cánh quân này cùng với Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung, Tùy Viên của Tướng Dương Văn Minh.
 
     Quân đảo chánh ập vào nhà thờ, bắt trói anh em ông Diệm kéo lên xe thiết giáp. Những chuyện xảy ra sau đó được kể lại tùy theo từng nhân chứng, có nhiều chi tiết mâu thuẫn.
 
     Trong ngày thứ bảy 2-11, Đài phát thanh loan tin anh em ông Diệm tự tử sau khi bị bắt. Sau đó lại có bản tin nói rằng ông Nhu đã chống cự, xỉ vả quân cách mạng gây một cuộc xô xát nên bị bắn chết và cái chết xảy ra như một tai nạn vô tình.
 
     Khi xác chết anh em ông Diệm được đưa vào Nhà Thương Saint-Paul thì dây trói quặt cánh khuỷu hai người vẫn còn nguyên.
 
     Trên ngực ông Nhu có nhiều vết thương sâu do dao đâm vào và một vết đạn súng lục trên đầu. Trên thân thể ông Diệm, chỉ có một vết thương ở đầu.
 
     Một người lính thiết giáp kể rằng ông Nhung (Thiếu Tá) vốn có một người bà con theo đảng Đại Việt bị bắt và xử tử hay thủ tiêu trong thời kỳ cực thịnh của chế độ họ Ngô, đã cãi vả mắng chửi ông Nhu.
 
     Ông Nhu nhìn ông Nhung cách lạnh lùng, khinh bỉ, và nói vài tiếng tỏ ý khinh miệt.
 
     Ông Nhung đã giật súng có gắn lưỡi lê của một người lính thiết giáp đâm ông Nhu nhiều lát sau lưng, rồi ông Nhu ngã gục nhưng vẫn chưa chết ngay, thì ông Nhung bắn một phát đạn súng lục vào đầu. Các cuộc khám nghiệm sau đó và các phóng ảnh cho thấy ông Nhu bị nhiều vết thương do vật bén nhọn đâm từ lưng trổ ra bụng, và một vết đạn ở đầu.
 
     Sau khi ông Nhu bị đâm nhiều lát, ông Nhung đã bắn một phát súng lục vào đầu ông Diệm, và phát đạn này kết liễu cuộc đời ông Diệm ngay lập tức.
 
     Một người khác kể thêm rằng, khi bắt được hai anh em ông Diệm trói quặt cánh khuỷu, dẫn từ trong nhà thờ ra xe thiết giáp, Tướng Mai Hữu Xuân đã đánh điện về các tướng lãnh tại Bộ Tổng Tham Mưu chỉ huy cuộc đảo chánh xin chỉ thị, sau một lúc bàn cãi, các tướng lãnh đã bỏ phiếu với đa số quyết định phải thủ tiêu ông Diệm gấp, vì lo sợ nếu để ông Diệm sống sót, thì một số đơn vị quân đội có thể ủng hộ ông chống lại phe đảo chánh.
 
     Hiện nay về cái chết của anh em ông Diệm, nhiều người trong cuộc biết rõ, nhưng phần lớn đang sống nên không ai chịu nói ra, vì vậy nhiều bí mật vẫn còn bao trùm xung quanh. Một điều làm tôi chua xót là chuyện ông Cẩn.
 
     Ông Cẩn khi hay tin hai ông Diệm và Nhu bị giết, đã liên lạc với Tòa Lãnh Sự Mỹ tại Huế xin được tị nạn trong Tòa Lãnh Sự Mỹ nhưng đã bị từ chối và hình như chỉ thị từ chối từ Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn gởi ra.
 
     Lúc bấy giờ ông Cẩn đã đến ẩn núp tại Dòng Chúa Cứu Thế ở Huế, và các Cha Dòng Chúa Cứu Thế muốn cho ông Cẩn được an toàn tính mạng đã xin cho ông Cẩn được tị nạn trong Tòa Lãnh Sự Mỹ.
 
     Tòa Lãnh Sự Mỹ điện cho Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn, và một máy bay Mỹ ra Huế chở ông Cẩn vô Sài Gòn tưởng là để cho ông Cẩn tị nạn tại Tòa Đại Sứ, chờ cơ hội ra khỏi nước nhưng sự kiện đau đớn là Tòa Đại Sứ Mỹ đã giao ông Cẩn cho phe đảo chánh. Về trách nhiệm của Mỹ trong vụ đảo chánh này tôi xin ghi lại một đoạn trong những lời tiết lộ của ông Nhu với nữ ký giả Sugan Lebin:
 
     ‘‘Ông Lodge luôn luôn hành động chống lại chúng tôi, với một thành kiến bất di bất dịch mà quan thái thú tại một xứ bảo hộ có thể có được, trước đây ba mươi năm đối với một xứ bảo hộ. Mặc dù Tổng Thống Ngô Đình Diệm cố gắng hết sức để chứng minh rằng mỗi cái trò chơi của ông Lodge chắc chỉ có thể làm lợi cho cộng sản, và đang rơi vào bẫy của Cộng sản nhưng càng cố gắng chứng minh sự thật, thì ông Lodge lại càng hiểu ngược ý chúng tôi.
 
     Ông Lodge đã có gan buộc tôi và vợ tôi rời khỏi Việt Nam. Cô thử tưởng tượng nếu Đại Sứ Việt Nam tại Hoa Thịnh Đốn lên tiếng buộc Tổng Thống Kennedy phải ra lệnh cho bào đệ của ông là Thượng Nghị Sĩ Robert Kennedy và em dâu phải rời Mỹ, thì phản ứng của gia đình Kennedy sẽ như thế nào?
 
     Theo những gì chúng tôi được nghe, được thấy, thì ông Đại Sứ Lodge không hề làm phận sự một Đại Sứ tại Quốc Gia Độc Lập Đồng Minh, là nâng cao tinh thần chiến đấu và hợp tác của Quân Đội Mỹ được gởi đến đây giúp chúng tôi chống cộng sản mà ông ta chỉ lo việc âm mưu chống lại chính phủ hợp pháp mà ông đã đến trình ủy nhiệm thơ…’’
 
     Nhìn lại tấn tuồng đảo chánh những việc trước và sau đó chúng ta không khỏi bùi ngùi cho số phận một dân tộc nhược tiểu, mang tiếng độc lập, nhưng mối dây cai trị đều trong tay một thế lực ngoại quốc.
 
     Sau ngày lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, những xáo trộn và hỗn loạn chính trị, xã hội đã xảy ra đúng như sự lo sợ của tôi. Một vài người biết sự bạc đãi của ông Diệm đối với tôi trong ngày cùng của chế độ, đã đến gặp tôi gần như để chia mừng. Có người nói với tôi: Những điều Cha cảnh cáo Cụ Ngô bây giờ xảy ra đúng như tiên tri, có lẽ Cha hài lòng lắm. Tôi đã cau mặt xin người đó đừng nói vậy, vì dù sao thì ông Diệm đối với tôi cũng có mối tình tri ngộ, tình bằng hữu.
 
     Tôi không hề mong cho ông Diệm và các chế độ của ông sụp đổ mà chỉ mong sao cho ông và chế độ của ông tránh được những lầm lỗi để tồn tại, hướng dẫn dân tộc Việt Nam qua đại nạn. Tôi đau xót nhiều hơn là hài lòng vì mình biết rằng những điều phải xảy ra.
 
     Vài ngày sau khi hay tin ông Diệm mất, tôi được biết những đứa con của ông Nhu còn được phe cách mạng giam giữ.
 
     Chính thức tôi không có tư cách gì để can thiệp nhưng tôi đã tiếp xúc với các nhà lãnh đạo Công Giáo trong đó có Đức Khâm Sứ Tòa Thánh, để ngỏ ý nhờ ngài can thiệp cho những đứa con của ông Nhu được gởi sang La Mã gặp bà Nhu. Hình như lúc bấy giờ phe cách mạng đang gặp những phản ứng bất lợi của giới ngoại giao tại Sài Gòn và dư luận thế giới cho nên muốn có cơ hội xoa dịu sự phẫn nộ của giới ngoại giao và dư luận thế giới bằng hành động nhân đạo.
 
     Việc cho phép các con ông Nhu đi ngoại quốc đã được coi như cơ hội chuộc tội và phe cách mạng đã cho các con ông Nhu ra ngoại quốc một cách dễ dàng.
 
     Những ngày đầu tháng 11 thỉnh thoảng tôi ra đường nhìn cảnh tượng sinh viên dân chúng hân hoan chào mừng những đơn vị tham dự đảo chánh, hò reo ủng hộ các Tướng lãnh đảo chánh, tôi thấy lo hơn mừng. Tôi biết phản ứng của đám đông, nhiều khi chân thành nhưng sai lầm, thiếu thận trọng và đắn đo. Sự bồng bột của đám đông là sức mạnh lớn, đáng sợ nhưng khó bền bỉ nếu không được nuôi dưỡng và sẽ rất nguy hiểm, nếu bị hướng dẫn sai lầm. Tôi lo sợ những phản ứng quá khích của dân chúng và phe cách mạng sẽ đạp đổ mọi công trình xây dựng của ông Diệm, kể cả những việc làm chính đáng hữu ích cho dân tộc.
 
     Tôi nghe kể những màn cướp giựt, hôi của Dinh Gia Long, những cảnh đốt phá đối với vài cơ sở được coi là của chế độ cũ hay thân chế độ cũ mà ngao ngán.
 
     Tôi lại nghe một Tướng lãnh cầm đầu phe cách mạng tuyên bố rằng Ấp Chiến Lược không cần thiết, không ích lợi, những hàng rào quanh Ấp Chiến Lược là hàng rào nhà tù.
 
     Không cần ông phải ký sắc lệnh cho phép dân chúng phá các hàng rào Ấp Chiến Lược thì các cán bộ nằm vùng của cộng sản cũng dựa lời tuyên bố vội vàng hớ hênh đó, giải thích sai lạc thêm lời tuyên bố đó, để mở ra một phong trào phá bỏ Ấp Chiến Lược, gỡ rào, san bằng hào lũy giải giới thanh niên chiến đấu. Nhiều Ấp Chiến Lược trước đây lập được những thành tích ngăn chận cộng sản hữu hiệu, nay thanh niên chiến đấu và cán bộ công dân lo sợ bị tân chế độ đàn áp bắt bớ, vứt súng bỏ trốn, bỏ ngỏ các Ấp Chiến Lược lại cho du kích việt cộng và các cán bộ nằm vùng. Việt cộng xúi dân nổi lên phá hàng rào, san lũy, giải giới thanh niên chiến đấu, mở ngỏ đón bọn cộng sản nằm vùng. Nhiều Ấp Chiến Lược kiểu mẫu, qui tụ phần lớn giáo dân trở thành nạn nhân đầu tiên của phong trào sai lầm này.
 
     Tại Thành Phố Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế một vài hành động kỳ thị tôn giáo được khai thác, thổi phồng. Những đám đông Phật Giáo quá khích suy luận sai lầm, qui tội lỗi cho Công Giáo rục rịch kéo đến xóm đạo mở đầu những cảnh đốt phá hành hạ đàn áp giáo dân.
 
     Rất may uy tín và uy quyền của Mỹ tại Việt Nam còn rất mạnh, và các tướng lãnh thuộc phe đảo chánh cũng rất sợ dư luận Mỹ cho nên đã kịp thời ngăn chận những vụ kỳ thị tôn giáo vừa phát khởi, như vụ lộn xộn ở khu trường Nguyễn Bá Tòng, Thanh Bồ, Đức Lợi. Tuy vậy một bàn tay bí mật nào đó có thể là cộng sản đã cố tình thổi phồng sự kỳ thị tôn giáo, gây thêm hiềm khích và chia rẽ giữa người Công Giáo Việt Nam và dân chúng Việt Nam không Công Giáo.
 
     Cũng rất may các lãnh tụ Phật Giáo nhiều lần chính thức lên tiếng khuyên ngăn những vụ kỳ thị do các đám đông quá khích gây ra ở một vài nơi. Nhờ những điều đó mà nạn kỳ thị tôn giáo, bắt bớ người Công Giáo đã không xảy ra quy mô và toàn diện như lo sợ của tôi.
 
     Cũng vài hôm sau tôi hay tin ông Cẩn trước trốn vào Dòng Chúa Cứu Thế rồi đến tị nạn tại Tòa Lãnh Sự Mỹ tại Huế và được một máy bay riêng của Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn ra đón vào Sài Gòn.
 
     Tôi đã biết vị Đức Khâm Mạng Tòa Thánh can thiệp với ông Đại Sứ Mỹ, xin cho ông Cẩn thoát chết, và được ông Lodge cam đoan sẽ bảo đảm sinh mạng cho ông Cẩn, nên tôi đinh ninh ông Cẩn vào Sài Gòn rồi sẽ được giam trong tù ít lâu và sẽ được phép lưu vong.
 
     Vì nhân đạo cũng như vì thân thiện giữa tôi và ông Cẩn, tôi rất lo lắng cho tánh mạng của ông. Nhưng lúc này tôi không biết làm cách nào để giúp đỡ ông. Tôi chỉ còn biết tìm gặp một vài người trong tân chế độ trình bày cho họ hiểu ông Cẩn không có tội lỗi và trách nhiệm gì lớn lao nào trong vụ đàn áp Phật Giáo miền Trung, trái lại như tôi đã trình bày trước, ông Cẩn đã hết sức can thiệp với chánh quyền địa phương cũng như Đức Cha Thục để ngăn ngừa những hành động sai lầm của chánh quyền địa phương và Trung Ương đối với Phật Giáo.
 
     Tôi nhận thấy ông Cẩn là một người không đến nỗi xấu xa gì hơn ai, và dù sao thì với hai cái chết của ông Diệm và ông Nhu, những người của tân chế độ không nên mang thêm một cái chết thứ ba của ông Cẩn vào lương tâm. Tôi trình bày những sự lợi hại đó với một vài người của tân chế độ để yêu cầu họ suy xét kỹ lưỡng trước khi có quyết định nào đối với tánh mạng ông Cẩn.
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7190
Registration date : 01/04/2011

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN   BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN - Page 5 I_icon13Mon 29 Apr 2024, 08:52

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965
 
L. M. Cao Văn Luận
 

43. Tôi trở lại Huế  
 
     Sự việc đang ở chỗ đó thì tôi được tin một Ủy Ban đại diện các sinh viên và Giáo Sư Đại Học Huế vào Sài Gòn gặp tôi. Trước hết họ trình bày sự kính mến của họ đối với tôi, và yêu cầu tôi trở lại giữ chức Viện Trưởng Viện Đại Học Huế.

    Tôi cũng hơi vui mừng vì nhận thấy những việc làm của mình suốt thời gian làm Viện Trưởng Đại Học Huế ít ra còn để lại một số tình cảm tốt đẹp cho sinh viên và Giáo Sư Huế.

    Nhưng thật tình tôi đã mệt mỏi lắm, và cũng không muốn mang tiếng là một người phục vụ chế độ ông Diệm, nay ông Diệm mới khuất, chế độ mới đổ mà tôi đã vội vàng nhận sự ưu đãi của tân chế độ, của những người lật đổ ông Diệm.

    Dĩ nhiên là những ưu tư này tôi không thể trình bày thẳng với phái đoàn đại diện Viện Đại Học Huế được, tôi tìm cách từ chối khéo và nói với họ:

    – Các anh em có lòng tốt tưởng nhớ đến tôi, làm tôi rất cảm động và ghi nhớ tấm lòng đó của anh em. Nhưng quyền làm Viện Trưởng hay không, thì không ở trong tay tôi. Tôi là một công dân Việt Nam. Trước đây ông Diệm với tư cách Tổng Thống Việt Nam yêu cầu tôi giữ chức Viện Trưởng thì tôi nhận và hết lòng làm việc cho Viện Đại Học Huế lớn mạnh. Nay quốc gia chúng ta có một chính quyền mới, thì sự quyết định cử tôi làm Viện Trưởng hay cử ai khác thay thế ông Viện Trưởng Trần Hữu Thế là quyền của chính quyền đó. Anh em đến thăm tôi thì tôi xin cám ơn và gửi lời cám ơn tất cả anh em sinh viên, Khoa Trưởng, Giáo Sư Viện Đại Học Huế, nhưng việc nhận chức Viện Trưởng như lời yêu cầu anh em thì không thuộc quyền tôi, vậy các anh em nên nói với những người hữu trách trong tân chế độ thì hơn.

    Tôi hiểu một vài người bạn, hoặc quen biết nghĩ rằng tôi đã được ông Diệm tin dùng thì nên giữ tiết tháo, đóng cửa nằm nhà đọc sách lo việc đạo thì hơn là trở ra làm việc với chính quyền mới. Một vài người theo quan niệm ấy đã gửi nhắn lời đến can gián tôi, khi hay tin có một phái đoàn đại diện Đại Học Huế vào tiếp xúc với tôi. Những lời can gián đó cũng làm tôi suy nghĩ khá nhiều và quả thực tôi do dự. Nhưng tôi đinh ninh rằng tân chính phủ không hề nghĩ đến việc cử tôi làm Viện Trưởng Viện Đại Học Huế lần thứ hai.

    Tuy nhiên tôi cũng lo lắng đến những xáo trộn ở Huế, những kỳ thị tôn giáo có thể xảy ra ở vùng miền Trung nơi mà tâm lý dân chúng có những phản ứng quá khích. Tôi nghĩ rằng nếu trở lại chức vụ Viện Trưởng Đại Học tôi có thể chứng minh được rằng trước cũng như bây giờ, Đạo Công Giáo không hề có chủ trương kỳ thị tôn giáo.

    Tôi cũng hy vọng với những cảm tình mà sinh viên Đại Học Huế dành cho tôi, tôi có thể ngăn chận được phần nào cái họa kỳ thị tôn giáo. Tôi biết ở Huế sinh viên đóng vai trò hết sức quan trọng trong sinh hoạt xã hội và chính trị, cho nên nếu sinh viên Huế không gia nhập vào các hoạt động kỳ thị tôn giáo thì quần chúng Huế sẽ khó gây ra những vụ kỳ thị đáng kể nào.

    Những điều này tôi chưa nói ra, mặc dầu đến nay vẫn còn nhiều người trách tôi đã nhận chức Viện Trưởng Viện Đại Học Huế lần thứ hai, do chính quyền cách mạng bổ nhiệm. Bây giờ chúng tôi nói ra không phải để biện hộ cho mình, nhưng chỉ để nói lên một nỗi ưu tư của tôi.

    Sau khi nghe tôi trình bày như vậy, phái đoàn Đại Học Viện Đại Học Huế lên gặp các Tướng lãnh phe cách mạng và Tân Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ. Ít hôm sau tôi được ông Nguyễn Ngọc Thơ mời lên gặp và chính thức yêu cầu tôi trở ra Huế giữ chức Viện Trưởng Viện Đại Học Huế.

    Trong những câu chuyện ông Thơ cũng tỏ ý lo lắng rằng, nếu sinh viên Huế không có một vị Viện Trưởng có uy tín hướng dẫn, thì có thể tham gia vào những phong trào kỳ thị tôn giáo gây ra không biết bao nhiêu tang thương cho đất nước và khó khăn cho chính phủ. Đại Tướng Dương Văn Minh cũng mời tôi vào gặp riêng và ông cũng tỏ ý lo sợ tương tự như ông Thơ. Những lời nói của hai vị này làm tôi suy nghĩ thêm và ảnh hưởng đến quyết định và nhận lời yêu cầu của họ.

    Tôi chưa ra Huế liền, mặc dầu ít hôm sau khi tiếp xúc với ông Thơ và Tướng Minh đã có Sắc Lệnh bổ nhiệm tôi làm Viện Trưởng Viện Đại Học Huế. Tôi đi gặp các Đại Sứ Ngoại Quốc tại Sài Gòn và ông Giám Đốc Phái Bộ Viện Trợ Mỹ.

    Trước hết tôi đến gặp Đại Sứ Đức là ông Von Wenland. Ông này phàn nàn về cái chết của ông Diệm và ông Nhu. Tuy nhiên ông biết ông Diệm và chế độ của ông không tránh khỏi một vài tiếng khiếm khuyết nhưng không ai có thể phủ nhận những thiện chí của ông Diệm đối với quốc gia.

    Cái chết của ông Diệm làm cho tương lai Việt Nam trở nên đen tối hơn. Tôi còn nhớ một đoạn trong câu chuyện của ông Đại Sứ Đức:

   – Tôi không theo tôn giáo nào cả, nhưng tôi tin rằng giờ đây linh hồn ông Diệm sẽ phảng phất nơi đây và sẽ gieo nhiều tai họa cho xứ sở mình. Mặt ông đượm buồn và giọng ông hết sức chua chát. Ông cho biết ông đã đệ đơn từ chức và sẽ rời Việt Nam trong ít lâu. Nghe vậy tôi không còn đề cập đến việc yêu cầu nước Đức giúp đỡ cho Viện Đại Học Huế nữa.

    Người thứ hai mà tôi gặp là Giám Đốc Viện Trợ Hoa Kỳ. Ông hỏi tôi về cảm tưởng đối với cuộc cách mạng vừa qua, và những nhận định của tôi đối với tương lai đất nước tôi. Lúc bấy giờ báo chí Mỹ bắt đầu phân chia làm hai khuynh hướng chớ không thuần nhứt một chiều chỉ trích ông Diệm như trước. Cái chết của ông Diệm và ông Nhu đã làm cho một số người Mỹ xúc động và quay trở lại có cảm tình với ông Diệm hơn trước. Bộ mặt của những người thay thế ông Diệm cũng dần dần hiện rõ và người Mỹ thấy bộ mặt thật đó chẳng đẹp đẽ gì hơn.

   Những người Mỹ trong đó có cựu Đại Sứ Nolting, Tướng Harkine, ông Richardson Giám Đốc Trung Ương Tình Báo Mỹ (CIA) tại Việt Nam lên tiếng cảnh cáo rằng cuộc cách mạng 1-11 chẳng những sẽ không cải thiện được tình hình quân sự và chính trị tại Việt Nam như nhiều người Mỹ mong cầu, mà trái lại sẽ làm cho tình hình chung tồi tệ hơn. Những hỗn loạn chính trị đã bắt đầu diễn ra và về mặt quân sự Quân Đội Việt Nam mải lo canh gác Sài Gòn và các đô thị lớn để đề phòng phe ông Diệm đã gần như bỏ trống các vùng nông thôn cho việt cộng.

    Lúc bấy giờ có thể nói rằng chính quyền Việt Nam chỉ kiểm soát được vài thành phố lớn. Và cũng chỉ kiểm soát được một cách lỏng lẻo. Các đảng phái vận động tìm chỗ đứng trong tân chế độ và chỉ vận động bằng cách liên kết với các Tướng lãnh cách mạng mà không nghĩ đến việc tổ chức quân chủng. Sau cuộc cách mạng, Phật Giáo bắt đầu bất mãn vì nghĩ rằng họ có công nhiều mà không được trọng vọng xứng đáng. Tổ chức Phật Giáo còn quá mới mẻ, thời kỳ tranh đấu quá ngắn ngủi chưa kịp ra ánh sáng, chưa có một số lãnh tụ chính trị đáng giá nào cho nên giả sử lúc bấy giờ chính quyền được giao cho Phật Giáo thì tình hình Việt Nam, có lẽ còn bi đát gấp mấy lần giao cho Tướng lãnh.

    Dựa trên những điều quan sát được kể đó, các chính khách Mỹ và dư luận báo chí Mỹ đã bắt đầu hối hận đã hạ bệ ông Diệm. Ít lâu sau cách mạng Đại Sứ Nolting có trả lời một cuộc phỏng vấn và viết một tờ báo nhận định rằng rồi đây sẽ không có một nhân vật chính trị nào có khả năng thay ông Diệm để lãnh đạo dân tộc Việt Nam trong công cuộc chống cộng.

    Ông nhận định rằng người Mỹ đã phạm vào một lầm lỗi rất nặng khi hạ bệ ông Diệm, hoặc ít ra để cho chuyện hạ bệ này xảy ra trước mắt mình, và nhìn hành động này với đôi mắt đồng lõa.

    Những báo chí Mỹ trước đây chỉ trích ông Diệm nặng lời bao nhiêu bây giờ sự thật đã hiện rõ cũng bắt đầu chỉ trích tân chế độ bấy nhiêu. Lúc ông Giám Đốc Viện Trợ Mỹ hỏi tôi về cuộc cách mạng ông đã biểu lộ sự lúng túng, lo sợ của số người Mỹ trước những bất ngờ sắp đến.

    Tôi hỏi lại ông, thế thì người Mỹ nghĩ như thế nào, tiên liệu như thế nào, dự đoán như thế nào. Nhưng tôi biết có hỏi cũng vô ích, vì ông sẽ trả lời mập mờ, nước đôi, đưa ra những nhận định tổng quát của báo chí Mỹ.

    Điều đó, như tôi đã trình bày trên, chia làm hai khuynh hướng, một khuynh hướng đông đảo tỏ ra hối hận vì đã xảy ra cuộc cách mạng, và một khuynh hướng khác tiếp tục ca tụng cách mạng một cách dè dặt, ngượng ngùng, gượng gạo.

    Nghe ông hỏi tôi về cảm tưởng nhận định của tôi đối với cuộc cách mạng tôi mỉm cười chua chát:

    – Tôi không có cảm tưởng gì đặc biệt, hay nhận định gì lạ lùng hết, vì tôi đã đoán trước những gì xảy ra và cũng đoán được những thế lực nào ở đằng sau gây ra. Tôi cũng làm hết mọi cách để ngăn chận những tai nạn cho ông Diệm, đưa những đề nghị chân thành lên ông Diệm nhưng tất cả nỗ lực của tôi vô ích. Ngày xưa, lúc mới về nước, ông Diệm tin cậy và sáng suốt nghe lời khuyên của tôi bao nhiêu, thì về sau này có vẻ không muốn nghe lời khuyên của tôi bấy nhiêu. Tôi sợ rằng chỉ trong một tương lai gần tình hình Việt Nam sẽ hỗn loạn. Dân chúng sau thời gian ngắn say sưa vì thành công, náo nức vì mới lạ, hứng khởi vì hy vọng, sẽ bắt đầu thất vọng, quay lại khiển trách tân chế độ và tiếc đã mất ông Diệm. Hẳn là ông nhớ câu chuyện cổ Hy Lạp: Một người dân dưới một chế độ độc tài vào đền thờ thần Jupiter cầu nguyện cho nhà độc tài sống lâu, làm một triết gia ngạc nhiên hỏi lý do. Người dân trả lời: Tôi đã lớn tuổi, và đã sống dưới quyền ba nhà độc tài liên tiếp. Kinh nghiệm cho tôi biết kẻ đến sau bao giờ cũng bạo ngược hơn người trước, cho nên tôi lo sợ nếu nhà độc tài ngày nay mà chết thì kẻ thay thế ông ta sẽ còn độc tài hơn ông này vài phần, và khi đó không ai sống nổi với ông. Vì đó trí thức không mong ông chết để có ông mới…

    Hai chúng tôi nhìn nhau chua chát. Tôi nói tiếp:

    – Tôi quan niệm quốc gia Việt Nam chúng tôi như một cơ thể, hay ít ra chính quyền Việt Nam này như một cơ thể, mà ông Diệm là cái đầu, những kẻ phụ tá ông là những tay chân, những bộ phận trong cơ thể, và một chứng bệnh kỳ quái nào đó, những tay chân và những bộ phận trong cơ thể nổi loạn chặt cái đầu đi, thì dĩ nhiên là tay chân và các bộ phận khác không còn người chỉ huy, sẽ hành động rối loạn đấm đá lẫn nhau. Rồi các ông sẽ thấy, những Tướng lãnh, những chính khách cầm quyền thay ông Diệm sẽ nghi kỵ lẫn nhau, thanh toán nhau, tranh giành nhau và gây thêm nhiều xáo trộn chính trị mới, nhiều hỗn loạn xã hội mới. Tôi là kẻ tin vào những uy lực thiêng liêng, nên tôi cho rằng không một việc làm nào dựa trên cái chết của kẻ khác, nhất là cái chết của chủ mình, thầy mình mà có thể tốt đẹp được. Dân chúng Việt Nam lên án nặng nề những kẻ phản Vua phản Thầy. Hay những kẻ dự phần vào cuộc đảo chánh cũng sẽ mang nặng cái mặc cảm đó, và sẽ lúng túng trong những nỗ lực để chạy tội mà không làm được gì khá. Họ sẽ mất tự tin, bị dằn vặt bởi những hối hận, những mặc cảm tội lỗi vì hầu hết họ đều được ông Diệm đào tạo nên, đưa từ chỗ tối tăm lên địa vị cao sang, cho nên cái bóng lớn của ông Diệm không thể nào phai nhòa trong tâm trí họ được, dù thân xác ông Diệm đã tan rã. Lãnh đạo mà thiếu tự tin thì làm sao gây tin tưởng cho dân chúng được?

    Người Mỹ đối diện với tôi gật gù có vẻ đồng ý. Tôi trầm ngâm một lúc rồi tiếp:

    – Những việc vừa xảy ra được đặt tên là một cuộc cách mạng, nhưng như ông thấy và mọi người Việt Nam chúng ta đều thấy không có gì đáng được gọi là một cuộc cách mạng hết. Những căn bản xã hội không thay đổi. Những tệ đoan xã hội không bị bãi bỏ, trái lại sẽ trầm trọng hơn, những bất công và chênh lệch xã hội sẽ nặng nề hơn. Tục ngữ Việt Nam chúng tôi có câu: Đục nước béo cò. Những hỗn loạn sắp tới sẽ làm cho tình hình trong nước chúng tôi chẳng khác nào một vũng nước đục, làm cho những con cá nhỏ, những người dân nghèo đói thiệt thòi hơn và đó là cơ hội tốt nhất để bọn hoạt động chính trị, bọn con buôn chiến tranh lợi dụng làm giàu, bóc lột. Những kẻ thay thế ông Diệm ngày nay không có tư tưởng, chính sách, sáng kiến gì khác hơn ông Diệm, trái lại những việc làm của họ chỉ là những học hỏi từ ông Diệm, và học hỏi không thuộc kỹ, áp dụng sai lầm. Dân chúng nhìn vào những người đó chẳng hạn ông Nguyễn Ngọc Thơ, Thủ Tướng hiện nay, đã là một Phó Tổng Thống vô quyền dưới thời ông Diệm và sẽ không thấy có gì mới lạ, gây được phấn khởi, hào hứng. Dân chúng sẽ nghĩ rằng đây là cái phần xấu, coi phần tệ của ông Diệm được dịp đem ra chưng bày, và tai hại hơn nữa, không còn ông Diệm để lãnh đạo và dạy bảo họ. Những thành phần chính phủ là những chuyên viên hạng hai nếu không nói là còn tệ hơn thế. Trước đây họ giữ chức Giám Đốc trong một chế độ trung ương tập quyền, nghĩa là họ không hề có dịp đưa ra sáng kiến, mà chỉ ngoan ngoãn thi hành lệnh. Nay họ làm Bộ Trưởng làm sao để một sớm một chiều họ có thể có khả năng đảm trách chức vụ mới? Dân chúng Việt Nam nhìn vào họ làm sao có thể tin tưởng họ làm được gì khác hơn chế độ cũ. Vì những lý lẽ trình bày trên, tôi tin chắc rằng chế độ gọi là cách mạng này sẽ không làm được gì tốt, và tình hình chung sẽ không sáng sủa hơn chút nào. Những mong ước mà dư luận và báo chí Mỹ đặt vào cuộc đảo chánh sẽ không thành tựu được. Người Mỹ rồi sẽ còn hối hận và tiếc đã mất ông Diệm hơn dân chúng Việt Nam nhiều.

    Ông Giám Đốc Viện Trợ Mỹ nghe tôi nói vậy có vẻ suy nghĩ lắm, một lúc sau ông gọi điện thoại cho ông Đại Sứ Henry Cabot Lodge, và dứt cuộc điện đàm ông cho tôi biết rằng Đại Sứ Lodge rất muốn gặp tôi. Tôi về nhà được mấy tiếng đồng hồ, chỉ chiều đó có người đại diện của Tòa Đại Sứ Mỹ đến nói là ông Lodge muốn gặp tôi ngay và xe đã chờ sẵn.

    Đây là lần đầu tiên tôi gặp ông Lodge, nét mặt, dáng điệu của ông làm cho tôi nhớ đến hình ảnh một ‘’Businessman’’ thành công đầy tự tin khinh bạc và kiêu ngạo, tuy nhiên bề ngoài và trong lời ông hết sức niềm nở, cởi mở, vui vẻ. Câu chuyện giữa tôi và ông Lodge cũng bắt đầu như câu chuyện với ông Giám Đốc Viện Trợ Mỹ, nhưng tôi trình bày các nhận định của tôi cặn kẽ hơn.

    Cuối cùng ông Lodge có vẻ thành khẩn tha thiết hỏi tôi:

    – Theo ý Cha thì bây giờ chúng ta phải làm cách nào để thành công, để thoát qua những khó khăn mà Cha nêu lên?

    Tôi mỉm cười:

    – Đáng lý các ông đã tính đến chuyện này trước khi có cuộc đảo chánh mới phải chớ, tôi không phải là một chính trị gia, cũng không tham dự gì vào những biến động vừa qua, cho nên tôi không thể đưa ra một giải pháp nào toàn vẹn, nhưng tôi nghĩ rằng nếu muốn thành công phải làm cách nào để gây được và nuôi dưỡng được niềm phấn khởi, hào hứng, tin tưởng trong dân chúng. Sự thay đổi chính trị này đem lại một yếu tố thuận là đem lại cho dân chúng nhất là phía những người không thích ông Diệm một niềm hy vọng tương lại sẽ khá hơn. Nhưng nếu không hành động gấp thì chỉ ít lâu là dân chúng sẽ thất vọng chán chường và hết tin tưởng nổi vào chế độ mới. Mặt khác không phải tất cả chế độ ông Diệm đều sai lầm, vậy thì phải cố gắng duy trì những thành công tốt của ông Diệm. Tôi đang nghe người ta đồn rằng Ấp Chiến Lược bị phá bỏ, các Cán Bộ Ấp và Thanh Niên Chiến Đấu đang bị giải giới. Hẳn là ông hiểu cái gì sẽ xảy ra ở nông thôn sau đó, và ai sẽ được lợi, ai chịu thiệt hại.

    Một việc phải làm khác là tránh thanh toán người của chế độ cũ, và làm sao kết hợp các đảng phái, các phần tử đối lập thành hai ba lực lượng chính trị mạnh, có thực lực, có quần chúng. Nếu không thể làm được việc này thì tôi thấy chỉ có một cách, giao quyền hành cho quân đội. Ít ra trật tự còn được duy trì.

    Câu chuyện giữa tôi và ông Lodge chấm dứt ở đây. Khi đề cập đến việc nên tránh những vụ thanh toán, trả thù người chế độ cũ, tôi đã nghĩ đến trường hợp ông Cẩn và những người của chế độ hiện đang trốn tránh hay bị giam cầm. Trong đó dĩ nhiên có một vài người có tội, nhưng số đông chỉ là những kẻ hành động theo lệnh, và do đó thực tình họ chẳng có tội lỗi gì.

    Nếu chỉ vì theo chế độ cũ mà trừng phạt thì cả những Tướng lãnh và những nhân vật đang ở trong tân chế độ cũng đáng trừng phạt lắm, vì chính họ đã từng là người của chế độ cũ.

    Những chuyện thanh toán và trừng phạt những người chế độ cũ đang xảy ra, nhưng theo tôi thấy thì không đến nỗi qui mô và tàn bạo như tôi lo sợ. Không có những cuộc đàn áp, bắt bớ, xử bắn tập thể. Cũng không nghe nói đến những vụ thủ tiêu rùng rợn, ngoại trừ một vài trường hợp lẻ loi và như tôi có lần trình bày, những kỳ thị tôn giáo và chính trị ngắn tuy có nhưng không lấy gì làm trầm trọng lắm.

    Chỉ có điều đáng ngại, là sau ngày đảo chánh, giá sinh hoạt vọt lên cao, vật giá đắt đỏ chưa từng thấy, dân chúng đang cơn say sưa chính trị ngắn ngủi bắt đầu nghĩ đến chuyện thực tế, và ca thán khắp nơi về nạn vật giá leo thang. Những con đường tiếp tế bị cắt đứt, những hệ thống phân phối bị tắt nghẽn, và nhiều vùng thiếu thốn các nhu yếu phẩm.

    Vào khoảng cuối tháng mười một, tôi ra Huế. Máy bay đang lượn trên sân bay Phú Bài, tôi đã nhìn thấy nhiều đám đông tụ họp trên bãi đất trống trước phòng khách sân bay này. Hàng đoàn xe gắn máy và xe lam, xe hơi đậu dài trên đường từ sân bay Phú Bài hướng về Thành Phố Huế. Một vài biểu ngữ đã được căng ra.

    Tôi vừa bước xuống khỏi máy bay, lập tức một đám sinh viên học sinh nhào đến, giành nhau trèo lên thang máy bay, và tôi chưa kịp làm một cử chỉ gì hay nói một lời nào thì các sinh viên đã công kênh tôi lên vai đến trước đám đông sinh viên đang tụ họp. Tiếng reo hò ầm ĩ, tôi không còn nghe rõ tiếng nào thành tiếng nào.

    Sau một vài phút lộn xộn, những sinh viên công kênh tôi dừng lại trước đám đông sinh viên. Tôi nhận ra những khuôn mặt quen thuộc, trong đó có một số Giáo Sư, Khoa Trưởng đã cộng tác với tôi lâu năm. Bây giờ đám đông đã hơi yên lặng đôi chút, và những tiếng hoan hô nghe đã rõ.

    Tôi cảm động nhưng không khỏi lo ngại. Sự bồng bột này của các sinh viên làm cho nhiệm vụ của tôi trở nên khó khăn hơn. Làm sao tôi vừa có thể thỏa mãn những đòi hỏi của sự khôn ngoan, của tình thế? Sự đón tiếp hôm nay càng nồng nhiệt bao nhiêu thì sau này nếu tôi không thành công trong nhiệm vụ khó khăn, sự thất vọng của họ lại càng lớn hơn bấy nhiêu. Tôi chỉ vẫy tay chào các sinh viên học sinh, và hình như chỉ lẩm bẩm một vài tiếng cám ơn.

    Các sinh viên lại công kênh tôi ra xe. Đoàn người đón tiếp tôi kéo dài trên trăm thước.

    Đến Huế, một đám sinh viên khác không có phương tiện lên Phú Bài đã chờ sẵn, nhập đoàn, rước tôi qua cầu Trường Tiền, chợ Gia Hội rồi mới quay trở về Tòa Viện Trưởng Đại Học Huế. Bây giờ tôi bước lên thềm Đại Học, đứng trước hàng ngàn sinh viên học sinh vẫy tay chào, tôi yêu cầu im lặng, rồi nói một vài lời. Thực tình tôi rất cảm động, cho nên giọng nói của tôi có phần ấp úng:

    – Bây giờ chúng ta đã lật qua một trang lịch sử. Những hận thù, hiểu lầm, kỳ thị nên chôn theo dĩ vãng. Mọi người Việt Nam chúng ta, dù là Công Giáo hay Phật Giáo đều chung một số phận khốn đốn như nhau hết. Moi người Việt Nam chúng ta, nhất là thành phần trí thức, Giáo Sư, sinh viên, phải đoàn kết lại để viết một trang sử đẹp đẽ hơn, ít lầm lỗi hơn, nhiều hứa hẹn hơn.

    Các sinh viên reo hò inh ỏi, nhiều anh em đứng gần chạy lại ôm chầm lấy tôi. Một đại diện sinh viên đứng ra bày tỏ nỗi hân hoan được gặp lại tôi, cám ơn chính phủ cách mạng đã thỏa mãn yêu cầu của anh em, và tỏ ý tin tưởng rằng sự hợp tác giữa tôi và các anh em sinh viên học sinh Huế sẽ bền chặt và tốt đẹp.
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7190
Registration date : 01/04/2011

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN   BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN - Page 5 I_icon13Tue 07 May 2024, 08:05

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965
 
L. M. Cao Văn Luận
 

44. Những cơn sóng gió mới
 
     Đám đông dần dần giải tán trong sự yên tĩnh. Sau buổi ồn ào, tôi càng lo sợ nhiều hơn. Tình hình Huế vẫn còn sôi động, tuy bề ngoài chẳng có gì rõ rệt. Tôi nhận thấy một số phần tử quá khích vẫn còn muốn tiếp tục cuộc đấu tranh dưới một hình thức mới. Phía Phật Giáo vẫn không cho rằng việc lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm đã đủ thỏa mãn họ.

Trong bầu không khí ngột ngạt của Thành Phố Huế, những ngày cuối năm 1963 và đầu năm 1964 tôi nhận thấy nhiều hứa hẹn bùng nổ nay mai, thú thật là tôi vùi đầu vào công việc bề bộn của Viện Đại Học, ít để ý đến những sinh hoạt chính trị bên ngoài. Thỉnh thoảng có vài đám đông Phật Tử kéo đi biểu tình ngoài đường phố, nêu những đòi hỏi không rõ rệt. Phía chính quyền địa phương thì cố gắng mị dân và trấn an mọi người, đưa ra những hứa hẹn mập mờ chẳng thỏa mãn được ai.

Vào khoảng đầu tháng ba năm 1964 sau Tết ít lâu, một hôm ông Lãnh Sự Mỹ tại Huế, là ông Helble đến gặp tôi, nói rằng ông Đại Sứ Lodge muốn ra Huế, gặp riêng tôi nay mai, vậy ông đem tin cho tôi biết trước. Theo chương trình thì ông Lodge sẽ ra vào buổi sáng, gặp tôi tại tư thất rồi hai ông bà Đại Sứ lên Lăng Tự Đức ăn trưa tại đó, và về Sài Gòn trong ngày. Tôi trả lời:

– Ông Đại Sứ Mỹ đích thân ra thăm tôi thật là vinh hạnh lớn cho tôi, nhưng tôi thiết nghĩ trong hoàn cảnh hiện tại, việc ông Đại Sứ đến tư thất tôi, gặp riêng tôi không tiện lắm, có thể gây ra một số hiểu lầm từ nhiều phía. Vì vậy tôi nghĩ rằng chỉ ít lâu nữa, việc xây cất Trường Đại Học Sư Phạm Huế, do quỹ viện trợ Hoa Kỳ đài thọ một phần phí tổn sắp hoàn tất. Hoặc là ông Đại Sứ cố chờ đến lúc đó ra khành thànhh trường và gặp tôi nhân dịp đó tốt hơn. Nếu ông Đại Sứ muốn gặp tôi sớm hơn thì lấy cớ ra thăm trường đang xây cất, tôi sẽ hướng dẫn ông đi coi công trường, rồi nói chuyện trong dịp đó, nhờ ông Lãnh Sự chuyển lời với ông Đại Sứ như thế.

Ông Helble điện thoại ngay cho ông Lodge, nhưng ông Lodge trả lời rằng ông muốn ra Huế gặp tôi ngày mai. Ông sẽ đến Huế lúc mười một giờ trưa, và gặp ông ngay sau đó, đôi bên nó chuyện khoảng một giờ, rồi sau đó ông bà Đại Sứ đi thăm Lăng Tự Đức. Tôi không còn cách gì thoái thác được, đành làm mặt vui nhận lời vậy.

Hôm sau khoảng mười một giờ, ông đến tại nhà riêng của tôi. Vừa bước vào cửa, nhìn tôi ông Lodge nói một câu ca ngợi tôi bằng tiếng Pháp.

– Cha là một nhân vật nổi tiếng nhất Việt Nam, tôi không thể đến Việt Nam mà không đến dâng lên Cha lòng kính mến của tôi.

Dĩ nhiên là tôi chỉ cho rằng đây là một câu nói xã giao hơi quá, chớ thực tình tôi chẳng dám nghĩ mình là nhân vật nổi tiếng chi cả.

Trong phòng chỉ có tôi và ông Lodge. Câu chuyện xoay quanh tình hình chính trị Việt Nam và những nhân vật lãnh đạo lúc bấy giờ. Khởi đầu ông Lodge hỏi tôi một cách tổng quát:

– Cha nghĩ thế nào về những Tướng lãnh hiện đang lãnh đạo Việt Nam?

Thực tình tôi không biết rõ và quen thân với một Tướng lãnh nào lúc bấy giờ, vả lại tôi cũng không muốn trả lời, dù biết:

– Tôi chỉ quen nhiều trong giới Giáo Sư, Trí Thức, Chính Trị, Ngoại Giao. Đối với các Tướng Tá, thì số lớn tôi có nghe nói đến, có biết mặt một số, và giao thiệp theo phép lịch sự và xã giao với một số khác khi làm Viện Trưởng Viện Đại Học Huế lần thứ nhất, tôi không hiểu rõ một tướng lãnh nào quan trọng trong tân chế độ.

Ông Lodge hỏi rõ ràng hơn:

– Chắc là Cha có biết nhiều về Tướng Trần Văn Đôn?

Lúc bấy giờ chính phủ Nguyễn Khánh vừa được thành lập ngày 1-2 sau cuộc chinh lý ngày 31-1. Chính phủ dưới quyền Tướng Khánh Thủ Tướng gồm một số nhân vật chính trị tên tuổi như Nguyễn Tôn Hoàn, Hà Thúc Ký, Lê Văn Hoạch, Âu Trường Thanh, Nguyễn Xuân Oánh.

Hình như trước ngày ông Lodge ra Huế gặp tôi vài hôm thì có Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ Mac Namara và Tướng Maxwell Taylor sang Việt Nam xem xét tình hình quân sự và duyệt xét Chương Trình Bình Định.

Để xoa dịu Phật Giáo Tướng Khánh chấp nhận hiến chương Phật Giáo 4.1.64 ngày 14.3.64 dành cho Phật Giáo nhiều quyền lợi và biệt đãi tối đa. Lúc đó Tướng Trần Văn Đôn không còn giữ một chức vụ gì quan trọng trong chính phủ Nguyễn Khánh cho nên nghe ông hỏi đến Tướng Đôn tôi hơi ngạc nhiên:

– Tôi quen biết trong thời kỳ ông làm Tư Lệnh tại vùng này. Tôi thường gặp ông trong các dịp lễ lạc, nhưng cũng không thân tình lắm hay biết về ông nhiều, tuy nhiên tôi nghe nhiều người nói rằng ông Đôn là một Tướng lãnh có trình độ văn hóa cao, đối xử với các quân nhân tử tế, nên được nhiều người trọng nể mến phục. Về chính kiến của ông thì tôi không dám bình phẩm chi hết.

Ông Lodge lần lượt hỏi tôi về một số các Tướng lãnh và chính khách trong ngoài chính phủ Nguyễn Khánh bấy giờ. Tôi tránh né trả lời, bởi vì tôi không muốn phê bình ai hết, cũng chẳng có tư cách gì để phê bình ai. Tôi sợ những lời mình nói ra có thể bị hiểu lầm và gây nên những ảnh hưởng mình không muốn. Cuối cùng, tôi trình bày với ông Lodge trường hợp ông Cẩn.

– Nhân dịp ông Đại Sứ ra đây thăm tôi, tôi lấy làm cảm kích lắm, và nhân tiện muốn trình bày với ông Đại Sứ một việc mà tôi đã muốn tìm dịp thưa với ông từ lâu. Đó là trường hợp ông Ngô Đình Cẩn. Tôi nói thật là tôi quen thân với ông Cẩn, và nhận thấy ông không phải là người xấu, ông lại cũng không có trách nhiệm và tội lỗi gì trong việc gây ra những cuộc đàn áp Phật Giáo trước đây. Trái lại theo chỗ tôi biết thì chính ông đã cố gắng dung hòa, nềm dẻo, nhưng tình thế dồn dập không cho phép ông làm được việc tốt cho đất nước chúng tôi. Sau cái chết của ông Diệm, ông Nhu mới đây, và ông Khôi thời Việt Minh, hiện nay trong gia đình họ Ngô, một gia đình cách mạng lừng danh ở Việt Nam, chỉ còn mình ông Cẩn đang sống sót, nhưng hiện nay bệnh hoạn, vì bị đau trong tù, vì bị đối xử không lấy gì làm nhân đạo lắm. Vì tình nhân đạo cũng như vì lẽ phải, sự công bằng, tôi tha thiết xin ông Đại Sứ dùng những ảnh hưởng sẵn có của ông để cứu ông Cẩn khỏi chết, và nếu có thể giúp cho ông ra ngoại quốc thoát nạn chữa bệnh luôn thể. Bây giờ ông Diệm, ông Nhu đã bị ám sát, ông Cẩn không còn là kẻ đáng sợ đối với các Tướng lãnh cách mạng nữa, giết ông chẳng ích lợi gì cho ai, mà chỉ gây thêm một tội ác.

Ông Lodge có vẻ đặc biệt lưu ý đến việc này:

– Tôi xin long trọng hứa với Cha rằng tôi sẽ làm mọi cách để ông Cẩn khỏi bị khép án tử hình. Lời tôi hứa với Cha hôm nay cũng là lời tôi đã hứa với Đức Giáo Hoàng. Trong dịp tôi về Mỹ dự tang lễ cố Tổng Thống Kennedy, tôi được lệnh của Tân Tổng Thống Johnson sang ngay La Mã gặp các Giám Mục Mỹ và Đức Giáo Hoàng để đưa ra lời hứa đó. Dịp đó Đức Hồng Y Spellman đưa tôi vào bệ kiến Đức Giáo Hoàng và tôi đã hứa với ngài rằng tôi sẽ làm mọi cách để cứu ông Cẩn bằng được. Vậy bây giờ trước mặt Cha, tôi xin nhắc lại lời hứa đó, và nếu tôi không làm tròn lời hứa này, tôi sẽ từ chức Đại Sứ Mỹ tại Việt Nam lập tức.

Câu chuyện giữa tôi và ông Lodge đến đây thì chấm dứt, và đó cũng là ngày cuối cùng tôi gặp ông Lodge với tư cách Đại Sứ Mỹ tại Việt Nam.

Ít lâu sau, Tòa án cách mạng ở Huế xử vụ Phan Quang Đông, và đến ngày 8 tháng 3 Phan Quang Đông bị kết án tử hình, bồi thường 18 triệu đồng cho các nạn nhân do y ra lệnh hạ sát. Các tội danh được nêu lên để kết án Phan Quang Đông là mưu sát, bắt giam người trái phép, sách thủ tiền tài, lũng đoạn kinh tế v.v…

Đến ngày 16-4 Tòa án cách mạng Sài Gòn xử vụ ông Cẩn. Phiên tòa kéo dài đến ngày 22-4 thì ông Cẩn bị kết án tử hình về các tội danh tương tự như trường hợp Phan Quang Đông. Lúc ra trước tòa, ông Cẩn đi không nổi, phải có người dìu đi. Tiếng ông thều thào trả lời thật chân thành:

– Tôi, quân sự không biết, hành chánh không biết, học hành tầm thường, làm sao có thể ra lệnh cho ai được.

Vài hôm sau, ông Cẩn và Phan Quang Đông xin ân xá. Tình trạng mập mờ kéo dài đến ngày 5-6 thì Đại Tướng Dương Văn Minh, Quốc Trưởng bác đơn xin ân xá, và ngày 5-6 Phan Quang Đông bị xử tử tại Huế, cùng ngày đó ông Cẩn bị xử bắn tại Sài Gòn. Ngày 23-6 ông Lodge chính thức đệ đơn từ chức, và Tướng Maxwell Taylor được cử thay thế.

Tôi không hiểu vì thất bại trong việc cứu ông Cẩn như đã hứa với Đức Giáo Hoàng hay vì lý do nào khác mà ông Lodge từ chức Đại Sứ Mỹ tại Việt Nam, nhưng rất có thể lý do thứ nhất là lý do chính.

Khi rời Sài Gòn ngày 28-6 ông Lodge còn tiếp tục đóng kịch, lấy tư cách được tặng là công dân danh dự của Việt Nam, ông mặc áo gấm, đội khăn đóng nói vài tiếng Việt tung hô Việt Nam và từ giã đám tiễn đưa ở Phi Trường Tân Sơn Nhất.

Cái chết của ông Cẩn làm tôi buồn lắm, và từ đó tôi ít chú ý đến những biến cố chính trị. Tình hình chính trị chung có vẻ bình thường, nhưng tôi nhận thấy dân chúng bắt đầu chán chường đối với cuộc cách mạng 1-11. Những phần tử tham gia vào cuộc cách mạng, cách riêng Phật Giáo, lại càng bất mãn hơn bất cứ ai, vì họ có cảm tưởng họ bị cướp công.

Trong các chính phủ sau cách mạng phe Phật Giáo không có một chân gì được coi là xứng đáng. Nhiều nơi bắt đầu có những cuộc biểu tình lẻ tẻ phản đối chính phủ. Phía Công Giáo thì lo sợ nạn kỳ thị tôn giáo, đôi lúc cũng có vài hành động vội vàng, như cuộc biểu tình của giáo dân từ các trại định cư ở Biên Hòa kéo về công trường Lam Sơn, tố cáo những kẻ lợi dụng cách mạng gây nên những vụ đàn áp Công Giáo.

Tại Huế, hôm 15-9 hàng vạn giáo dân biểu tình trên các đường phố lớn, nêu lên những lời tố cáo tương tự như ở Sài Gòn. Tôi lo sợ sẽ có những cuộc chống lại các cuộc biểu tình của Công Giáo. Rất may chuyện này không xảy ra, ít nhất trên một qui mô rộng lớn.

Sở dĩ những cuộc chống đối giữa Phật Tử Huế và những cuộc xuống đường lên án kỳ thị tôn giáo của giáo dân Phủ Cam không bùng nổ trên một qui mô rộng vì sau cách mạng đa số Phật Tử Huế đã hiểu thế nào là sự tiến công, sự phản bội sau nhiều ngày tranh đấu cam go, không khí cách mạng đã mang lại những đột biến không ngờ ngoài sức tưởng tượng của họ.

Hầu hết những lãnh tụ sinh viên Phật Tử, từng nắm giữ vai trò quan trọng trong công cuộc lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, có vẻ bơ vơ, dường như họ bị thời cuộc mới bỏ quên hoặc có nhớ tới họ chăng nữa cũng chỉ dùng họ vào những vai trò đánh bóng quá trớn cho luồng khí mới.

Đành rằng, trong suốt thời gian dài trước đây, Phật Tử Cố Đô bị ngược đãi, bị khống chế nhưng tôi thấy khi cách mạng hình thành họ lại không muốn khơi thêm hố sâu của sự chia rẽ. Hơn ai hết dân Huế hiểu rằng chia rẽ cũng không mang lại lợi ích gì, chỉ tạo đau thương thêm, ngộ nhận thêm.

Tôi nói vậy là nói một cách bao quát rộng lớn. Thời gian bấy giờ, làm sao tránh khỏi một vài cá nhân xách động cho việc kỳ thị. Họ mang một số thanh niên đột nhập khu Công Giáo Phủ Cam gây những vụ thanh toán nhau lẻ tẻ.

Về những vụ thanh toán nhau lẻ tẻ này, tôi được một người bạn sinh viên Văn Khoa cho biết, nhóm quá khích kia thành lập một Ủy Ban thanh trừng của sinh viên học sinh cách mạng, kê danh sách những người mà họ mệnh danh là ‘’tay sai chế độ cũ’’ để tìm cách thanh toán hành hung.

Sinh viên này nói: Một buổi sáng đang ngồi uống café ở Lạc Sơn thì bị Ủy Ban kia đến ‘’hỏi thăm sức khỏe’’. Bọn họ khoảng chín người vây quanh, đánh anh cho đến lúc ngã gục rồi mới bỏ đi.

Nhiều trường hợp xích mích lẻ tẻ tương tự đã xảy ra ở Huế trong thời gian này. Nên đa số người Công Giáo lo ngại mỗi khi xuất hiện một mình ngoài Thành Phố. Đi đâu họ cũng rủ bạn bè thật đông. Một đôi lần xảy tới những cuộc xô xát lớn. Có một số lánh vào Nam.

Tuy nhiên như tôi đã nói, đây chỉ là những hành động đơn phương của một số cá nhân quá khích, trên tổng quát, giữa Phật Giáo và Công Giáo Huế không hề có những chia rẽ, đố kỵ diễn ra quá đáng.

Người Công Giáo phần nhiều tuy không hưởng lợi lộc gì của chế độ cũ khi cách mạng đã tỏ ra thức thời. Họ sống khép nép, thu mình trong Giáo Khu Phủ Cam, hoặc Cầu Kho. Mọi hình thức phô diễn vào các ngày lễ cũng được giới hạn. Ngôi Thánh Đường Phủ Cam đang xây cất dở dang, vội vàng ngưng ngang. Cho tới bây giờ vẫn chỉ có mặt tiền uy nghi vươn lên giữa trời xanh, phô bày nhiều vết tích loang lở, tội nghiệp. Những hào khí của cách mạng thực sự tàn đi, để lại một Cố Đô trầm mặc và mơ mộng cũ.

Trong khi đó, sau nhiều tháng, chính phủ cách mạng đã không thực thi được điều gì mà toàn dân trông chờ. Vẫn chỉ là những khuôn mặt cũ, những chương trình cũ khiến đại đa số những kẻ trực tiếp góp phần vào công cuộc lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm chán nản.

Họ mang cảm tưởng sự góp phần xương máu của họ trở thành vô duyên, hoặc chỉ là một cái thang cho một vài cá nhân leo lên danh vọng để rồi tà tà hưởng thụ.

Những lãnh tụ cách mạng của Phật Giáo và sinh viên, thay vì giúp Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng nhiều ý kiến, đã không ai bảo ai, đột ngột thu mình vào những nơi trú ngụ an toàn. Có một lãnh tụ sinh viên tâm sự với tôi, anh ta đầy chán nản khi thấy mỗi ngày luồng gió cách mạng thêm nhuốm mùi băng hoại. Anh tỏ vẻ bi quan về tình thế hiện tại. Đôi mắt của anh tôi thấy đã buồn, nhắc chuyện cách mạng, anh càng buồn hơn.

Sở dĩ tôi phải nhắc nhở đến những sự kiện này là để chứng minh rằng đa số đồng bào Phật Giáo cũng như Công Giáo Huế khác với Sài Gòn đã không bước vào hành trình đối chọi nhau, gây thêm rắc rối thù hận cho nhau.

Hơn bất cứ nơi nào hết trên quê hương, ở miền đất được mệnh danh là lỗ rốn của cách mạng này, người ta lại ít nghe thấy dân chúng trầm trồ về bầu khí cách mạng. Tôi có dịp ghé qua nhiều nơi, dưới tầm mắt tôi người dân Huế đang cố gắng sống thu mình vào cuộc sống bình thường, như thời gian tiền chế độ.
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7190
Registration date : 01/04/2011

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN   BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN - Page 5 I_icon13Tue 14 May 2024, 09:55

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965
 
L. M. Cao Văn Luận
 

44. Những cơn sóng gió mới (tt)
 
     Sau cách mạng, người ta tổ chức rất nhiều buổi nói chuyện, vạch mặt những chỗ mà người ta gọi là các thủ đoạn độc tài của chế độ Diệm từ thành thị đến thôn quê.

    Những cuộc mít tinh tập trung dân chúng địa phương kéo dài nhiều tháng. Những sinh viên, lãnh tụ Phật Giáo được sử dụng trong vai trò thuyết trình viên, họ hô hào cách mạng vùng lên, tàn tích của chế độ Diệm phải được triệt hạ. Tuy nhiên các lãnh tụ sinh viên tranh đấu chân chính, oái oăm thay, lại kín miệng cẩn trọng và khi xuất hiện nói chuyện giữa đám đông, chỉ có những sinh viên lãnh tụ lạ hoắc.

    Tôi có tham dự một vài buổi nói chuyện kiểu này, và thấy thuyết trình viên quả thực đã thành công. Một thuyết trình viên sinh viên văn khoa, học trò của tôi, đã khóc ròng khi diễn tả lại cảnh tra tấn tù đày, cảnh chín hầm, cảnh thủ tiêu rồi anh giơ tay lên trời hô hào toàn dân hãy hủy diệt làn sóng độc tài của chế độ cũ.

    Lối diễn tả của sinh viên này làm nhiều kẻ cảm động, nhưng làm tôi buồn cười. Vì có lẽ nhiều lãnh tụ sinh viên Huế thời đó biết rõ thực chất của sinh viên kia. Thời gian đấu tranh, anh ta chỉ tham gia cầm chừng. Ngục tối anh ta chưa từng nếm. Cảnh dã man anh chưa từng chứng kiến, tham dự.

    Anh không hề có mặt ở Chùa Từ Đàm, suốt thời gian ngôi chùa này bị phong tỏa. Cơm Chay anh không hề ăn như rất nhiều bạn bè Quốc Học, Đồng Khánh. Ấy vậy mà anh nói năng như thật, diễn tả như thật. Hội Đồng Tướng Lãnh Cách Mạng rất thành công trong việc sử dụng đường lối tuyên truyền này, nhưng họ không ngờ, những lãnh tụ sinh viên thực sự, thái độ xa rời họ, mất niềm tin tưởng nơi họ.

    Tôi không có ác ý gì với sinh viên kia, nhưng phải ghi lại điều này, để cho mọi người thấy rằng, ngay những công cuộc bé nhỏ, những Tướng lãnh cách mạng đã không tìm cách hoàn bị chu toàn, huống gì những công cuộc lớn.

    Bởi vậy, dân chúng miền Trung sống xa cách, âm thầm, sự xa cách và âm thầm đáng quan ngại, cho thấy những bùng nổ lớn trong tương lai…

    Đúng như điều tôi dự đoán trước, những manh nha của một sự phản kháng chính trị đã bắt đầu hình thành từ những thành phần trí thức của Cố Đô đưa tôi đến sự chán nản tột độ. Cho tới bây giờ, tôi cũng không biết động lực nào thúc đẩy những cộng sự của tôi, học trò của tôi bước vào hành trình phiêu lưu đưa đất nước vốn rối loạn, lại càng thêm rối loạn như vậy.

    Vào năm 1064 tôi vừa chẵn hai mươi lăm tuổi Linh Mục. Vì không còn nao nức gì, lại buồn hoa thời đại mình đang sống, tôi quyết định không tổ chức Lễ Ngân Khánh to tát làm gì, dường như tôi đã giấu hết bạn bè thân thuộc. Tôi dự định nhân dịp này suy nghiệm về những chuyện đã trải qua trong đời, như một tấm gương thanh khiết, tôi muốn soi lại đời mình trong đó thế thôi.

    Tuy nhiên những Giáo Sư và sinh viên trong Đại Học cũng tìm ra, họ kéo tới chúc mừng thật đông ngoài sức tưởng tượng.

    Cầm đầu số Giáo Sư, sinh viên tới mừng Lễ Ngân Khánh của tôi là Bác Sĩ Lê Khắc Quyến, lúc bấy giờ đang giữ chức Khoa Trưởng Y Khoa, ông Quyến có mang theo một bức Hoành Phi bằng gỗ mít khắc mấy chữ Hán sơn son thiếp vàng: ‘’Thiện Mỹ lưỡng toàn’’.

    Thú thực lúc bấy giờ tôi cảm động lắm. Số Giáo Sư đến đông đủ như vậy, chứng tỏ sau cách mạng mối giao hảo giữa chúng tôi vẫn bền chặt, thắm thiết. Tình hình mới của chính trị không hề ảnh hưởng đến tình thân thiện trong Viện Đại Học với nhau.

    Tôi còn cảm động hơn lúc Giáo Sư Lê Tuyên với một người bạn gái tới mừng tôi cùng với bức Hoành Phi ghi mấy chữ ‘‘Sư sinh đại nghĩa’’. Tuyên là học trò của tôi, chọn mấy chữ này, tôi thấy vừa khéo vừa cảm động.

    Những sinh hoạt Đại Học trở lại bình thường như xưa đó là điều làm tôi hãnh diện. Mặc dù ở Sài Gòn hoặc ở Cố Đô Huế đã sôi sục những xáo trộn vừa nổi rõ lên, vừa âm thầm, nhưng trong Viện Đại Học cả Giáo Sư lẫn sinh viên không có xảy ra chuyện chi.

    Tôi hằng duy trì Đại Học chỉ duy nhất có một thiên chức là phát huy văn hóa thuần túy.

    Chính trị không thể tự do vào tung hoành hoặc lũng đoạn trong lãnh vực Đại Học dưới quyền tôi điều khiển. Ngay thời gian đấu tranh chống chế độ Ngô Đình tôi cũng không bao giờ chấp nhận cho các Giáo Sư và sinh viên chọn Đại Học làm địa điểm tập trung xách động.

    Mặc dù đôi lần có mấy Giáo Sư thân tình tới yêu cầu tôi thay đổi quan điểm này, tôi nhất định từ chối đến cùng.

    Bây giờ sau cách mạng tôi càng muốn không khí Đại Học Huế phải được bình thường hơn bao giờ. Cuộc tìm kiếm và phát huy văn hóa phải được tiếp tục.

    Bởi vậy dù không chống đối những phong trào mà sinh viên học sinh tham dự trước đây, nhưng tôi cũng không chấp nhận để nó bành trướng trong những lãnh vực sinh hoạt Đại Học. Thà là tôi không còn hiện diện ở sinh hoạt này hơn là ngoảnh mặt chấp nhận những điều ngược hẳn với chủ trương vững mạnh của mình.

    Lúc bấy giờ tôi có nghe nhiều sinh viên rục rịch kéo về miền quê, tham dự những sinh hoạt cộng đồng với những người dân nghèo khó như hát cho đồng bào nghe, nói chuyện với đồng bào… Tìm hiểu ra, tôi được biết những sinh viên của tôi tham dự vào chương trình bình định của chính quyền do Phó Thủ Tướng Nguyễn Tôn Hoàn phát động.

    Nhiều Giáo Sư có tới gặp tôi yêu cầu tôi có thái độ về sự việc này, nhưng trong thâm tâm tôi thấy việc làm đó không có gì nguy hại, còn đáng cổ võ thêm lên, tuy nhiên tôi chỉ im lặng không bác bỏ, cũng không chấp nhận.

    Sinh viên làm gì ngoài Khu Viện Đại Học thì làm, miễn việc học hành không gián đoạn, các kỳ thi không đến nỗi tệ, đó là tâm trạng thực nhất của bất cứ vị nào điều khiển, coi sóc ngành giáo dục.

    Tôi nghĩ đa số sinh viên Huế sau một mùa tranh đấu đầy nước mắt và cam go họ đã thức tỉnh. Nhìn chung quanh đất nước vẫn chẳng thay đổi bao nhiêu, dân chúng không hưởng lợi bao nhiêu, có lẽ họ đã nhận ra cuộc cách mạng không thể ngày một, ngày hai là đạp đổ được tất cả, thay đổi tất cả.

    Phải có một cuộc cách mạng lâu dài mới hy vọng đem đến những mục đích cao đẹp mà mọi người mong muốn. Để có một cuộc cách mạng xã hội hữu hiệu như vậy trước hết tuổi trẻ phải có căn bản văn hóa, phải kiên gan tìm tòi mới không gặp những cam go, thất bại…

    Nhưng Mưu sự tại Nhân, Thành sự tại Thiên. Ơn trên đã không chìu lòng những kẻ trần tục tội lỗi của Ngài. Không khí im lìm chỉ kéo dài một thời gian, như tôi đã dự đoán trước đây, nó đã tới giai đoạn bùng dậy.

    Huế Cố Đô thân yêu, mảnh đất trầm mặc nghìn năm của dòng sông Hương đang chuẩn bị bước tơi một chuyển mình khác kinh khủng hơn, không chỉ ngắn hạn như cuộc tranh đấu có máu và nước mắt trước đây, nó kéo dài hơn và tạo thêm những xáo trộn cho một chính phủ, một quốc gia đang đối đầu với kẻ thù ghê gớm của thế kỷ: Cộng sản.

    Tôi tưởng qua thời gian nổi sóng cũ, những kẻ thức thời ở Huế đã học được mớ kinh nghiệm, đã hiểu thế nào là lạm dụng chiếm đoạt, bất công. Câu nói của anh sinh viên ngày nào chúng tôi còn nhớ rõ ràng: ‘‘Chúng con đã chán nản’’. Đôi mắt buồn của anh tôi cũng nhớ như đinh đóng cột. Không nhẽ lúc này nó đã đổi thay, nó đã bỏ rơi kẻ hằng suy nghĩ về nó.

    Tôi không nhớ rõ phong trào chính trị hậu cách mạng ở Huế được chuẩn bị từ thời gian nào, với động lực nào thúc đẩy. Tôi vốn không quan tâm tới chính trị, nên muốn tìm hiểu lúc này thật khó khăn. Tuy nhiên tôi có thể ghi lại đây không sai chạy cái ngày mà tổ chức nhân dân cứu quốc Huế hình thành, khởi đầu cho giai đoạn đấu tranh chống đối mãnh liệt thời đó.

    Điều mà tôi không mấy quản ngại trước đây khi giáo dân Hố Nai kéo về Sài Gòn biểu tình chống kỳ thị nay đã thực sự là đáng lưu ý ở Huế, phong trào chính trị mới đang cố tình đào sâu cái hố kỳ thị giữa Phật Tử và giáo dân Ky-tô.

    Người ta có muốn ngăn chận cũng không cứu vãn lại được nữa.

    Trước đó, khi có dịp gặp gỡ những Giáo Sư hoặc sinh viên trong Viện Đại Học tôi khoác lác đề cập đến những xáo trộn xảy ra tại Thủ đô Sài Gòn không ngoài mục đích cho họ thấy rằng:

    Những xáo trộn như vậy không đi đến đâu, chỉ tạo thêm những ngộ nhận, những mặc cảm giữa người và người với nhau. Mệnh danh là xuống đường đòi bình đẳng, nhưng bình đẳng đâu thấy, chia rẽ hiện hình nguyên vẹn, nồng nàn. Đó là điều bất hạnh nhất, đáng lấy làm đề tài suy ngẫm nhất.

    Những người gặp gỡ tôi đã phát biểu những ý kiến đồng nhất như vậy. Lúc đó tôi hân hoan và tin tưởng rằng Đại Học Huế phải được trưởng thành thêm và bành trướng thêm. Tuy nhiên khi hay tin phong trào chính trị bắt đầu hoạt động, mà những kẻ khởi xướng chính là những người cộng sự với tôi, đã làm cho tôi bàng hoàng không ít…

    Thoạt đầu nhóm hoạt động chính trị mang tên là Phong trào nhân dân cứu quốc qui tụ một số Giáo Sư như Lê Tuyên, Mai Văn Lễ, Cao Huy Thuần, Tôn Thất Hanh và do Bác Sĩ Lê Khắc Quyến, Khoa Trưởng Y Khoa làm Chủ Tịch, nhưng sau đó phong trào lan rộng trong hàng ngũ sinh viên Huế, thực sự biến Đại Học Huế làm môi trường hoạt động chính trị, trái hẳn với những nguyện ước của tôi.

    Giáo Sư Lê Khắc Quyến còn ngang nhiên đặt văn phòng của phong trào trong Viện Đại Học. Họ lấy mọi phương tiện trong cơ sở văn hóa này để dùng vào các chương trình chính trị của họ. Tôi có nghe một vài sinh viên thân tín tường trình lại những hoạt động này, nhưng tôi không tin, vì mới hôm nào đây Lê Khắc Quyến, Lê Tuyên còn tới mừng lễ Ngân Khánh của tôi bằng mấy bức hoành phi, mang những dòng chữ chí tình ‘’Thiện mỹ lưỡng toàn’’, ‘’Sư sinh đại nghĩa’’.

    Qua nhiều lần gặp gỡ ông Quyến cũng như người học trò cũ của tôi Lê Tuyên đã quá hiểu ngyện vọng của tôi là gạt hẳn những không khí, những phong trào chính trị ngoài ngưỡng cửa Đại Học. Tôi còn ân cần tâm sự với họ rằng, Đại Học chỉ dùng vào công cuộc kiếm tìm và phát huy văn hóa mới, gây dựng và nuôi dưỡng những Bác Học cho tương lai, không thể đem những thứ thành quả ngắn, những xáo động nửa vời vào lũng đoạn chi phối sinh hoạt hướng thượng đó. Hơn những người nào hết, chính Quyến và Lê Tuyên là những người vồn vã nhất trong việc ủng hộ mục đích của tôi. Không ngờ vật đổi sao dời, ngày một ngày hai họ đã phát lộ một bộ mặt khác, chủ trương khác, tới khi Lê Khắc Quyến đích thân đến gặp tôi và mời tôi tham gia phong trào nhân dân cứu quốc lúc đó mới thấy thực sự chán nản bàng hoàng. Tôi đã cố gắng giữ vững tinh thần trong lúc đó với Quyến để câu chuyện diễn ra trong vòng thân thiết bình thản.

    Tôi im lặng nghe Quyến trình bày về phong trào nhân dân cứu quốc, có lẽ Quyến nói khá nhiều về mọi vấn đề, mọi khía cạnh. Nhưng cho tới nay tôi chẳng còn nhớ được gì. Tuy nhiên điều làm tôi không bao giờ quên đi, Quyến ngỏ lời yêu cầu tôi ủng hộ phong trào chính trị này. Và tôi thành thực nói với Giáo Sư Chủ Tịch Lê Khắc Quyến:

    – Các anh lập phong trào chính trị tôi không có quyền ngăn cản. Nếu lập phong trào tranh đấu tự do dân chủ cho quê hương, tôi càng tán thành là đằng khác. Hơn lúc nào hết anh thấy quê hương đang cần nhiều hậu thuẫn để đánh bại hay đối đầu với làn sóng đỏ cộng sản…

    Tôi nhấn mạnh với Bác Sĩ Quyến rằng, tư cách một Linh Mục Viện Trưởng Viện Đại Học không cho phép tôi có ý kiến rõ ràng về phong trào chính trị của ông ấy. Tôi còn nhắc lại lập trường cũ của tôi là tách rời chính trị khỏi sinh hoạt Đại Học và nói với ông Quyến là tôi không chấp thuận việc phát động phong trào trong giới sinh viên của tôi.

    Bác Sĩ Quyến có vẻ bất bình, ông ta biện dẫn một vài lý do để bênh vực cho lập luận của ông. Tuy nhiên tôi vẫn trầm tĩnh nói:

    – Anh dư biết mơ ước của tôi là phát huy văn hóa dân tộc. Trước đây tôi đã nhiều lần nói với các anh rằng chính trị là nhất thời văn hóa mới trường cửu. Nếu Đại Học muốn trường cửu, Đại Học không nên làm những chuyện nhất thời. Các anh đã đồng ý với tôi về điểm đó trước, thì bây giờ tôi cũng xin các anh cho tôi giữ vững lập trường ấy.

    Bác Sĩ Quyến chống chế:

    – Trước đây tình thế khác, chúng tôi đã chấp thuận lập trường của Cha. Bây giờ với không khí chính trị mới, phải có sinh khí mới trong Đại Học.

    Tôi mỉm cười, có lẽ nụ cười bấy giờ chua xót lắm, buồn thảm lắm.

    – Tôi xác định với anh một lần nữa: Tôi không muốn cho Đại Học có đảng phái chính trị. Chẳng phải lúc này tôi mới có chủ trương lập trường này mà ngay từ khi Đại Học khai sinh, tôi cũng đã nhấn mạnh đến lập trường của tôi. Khi nào tôi còn giữ chức coi sóc Đại Học Huế, tôi còn tranh đấu tới cùng. Không ngờ lúc này các anh đặt văn phòng của phong trào ở Đại Học mà không cho tôi hay. Lại khám xét sinh viên trước khi họ vào trường nữa. Đó là chuyện trái ngược với không khí Viện Đại Học này. Nếu các anh tiếp tục hoạt động, các anh gắng tìm chỗ khác đặt văn phòng, xin trả Đại Học cho tôi ngay.

    Giáo Sư Lê Khắc Quyến lớn giọng:

    – Cha đuổi chúng tôi đi hả?

    Tôi lắc đầu:

    – Không phải đuổi. Anh nói quá. Tôi chỉ yêu cầu các anh trả lại không khí trầm mặc cho Đại Học. Tôi chưa hiểu rõ lắm về phong trào của các anh, nhưng có đi phố và nhìn thấy nhiều khẩu hiệu đả đảo Tướng lãnh, đồng hóa người Công Giáo với Cần Lao. Tôi là Công Giáo, nhưng không phải bất cứ người Công Giáo nào cũng là đảng viên Đảng Cần lao của chế độ cũ. Tập thể Cần Lao không xấu, chỉ có cá nhân xấu mà thôi. Cho nên các anh đừng lẫn lộn… Các anh cần phân tích người nào tốt, kẻ nào xấu, đừng đồng hóa tập thể tôn giáo và Cần Lao, làm như thế không đạt được mục tiêu gì, chỉ gây chia rẽ giữa tôn giáo này và tôn giáo khác mà thôi.

    Tôi cũng nhấn mạnh với ông Quyến:

    – Lực lượng duy nhất hiện nay để chống cộng sản là Lực Lượng Quân Đội. Bây giờ các anh nêu đích danh những Tướng lãnh cầm đầu Quân Đội đả kích. Hành động đó có khác nào chúng ta phá đi bức thành trì chống cộng. Điều đó không thể chấp nhận được. Đất nước chúng ta đã chìm đắm bao nhiêu năm. Không thể tạo cơ hội thuận tiện để cho mảnh đất còn lại của quê mẹ khốn khổ này rơi vào tay cộng sản.

    Tôi còn nói với Giáo Sư Quyến một lần nữa là, ông ta hãy dời văn phòng của phong trào ra khỏi Viện Đại Học để tôi khỏi lấy làm thất tín vì đã không giữ vững lập trường duy trì của mình. Giáo Sư Quyến không nói gì. Ông ta đứng dậy cùng với mấy Giáo Sư đi theo xin cáo lui.

    Tôi tiễn ông Quyến ra tận cửa. Tuy ông không phản đối những ý kiến của tôi trong cuộc mạn đàm, nhưng tôi thấy nét mặt ông có vẻ buồn buồn, và tức bực. Thú thực tôi đã hết sức khiêm tốn trong câu chuyện với mục đích duy trì hòa khí giữa những kẻ cộng tác hàng ngày với nhau. Vậy mà câu chuyện không ít thì nhiều đã đem lại sự nghi kỵ, nếu không nói là bất bình giữa tôi và Giáo Sư Chủ Tịch Lê Khắc Quyến. Trong lúc Quyến lẳng lặng lên xe, các Giáo Sư khác, trong phong trào chính trị có lẽ thông cảm cho mục tiêu tối thượng của tôi, đã thân ái hứa hẹn với tôi rằng, phong trào nhân dân cứu quốc không đả kích tập thể giáo dân Ky-tô nữa và ngưng lại mọi chương trình đồng hóa Cần Lao với Công Giáo. Những Giáo Sư này đoán chắc rằng, họ chỉ tranh đấu cho tự do dân chủ mà thôi.

    Sở dĩ tôi góp ý họ về những vấn đề đả kích Tướng lãnh, tố khổ Cần Lao là vì, ngay sau khi phong trào nhân sân cứu quốc hình thành, họ ra một tờ báo lấy tên là Lập Trường làm cơ quan ngôn luận. Tờ báo đặt ngay ở nhà in của Viện Đại Học dưới chân cầu Bạch Hổ.

    Và mọi phương tiện của nhà in này, phong trào đều xung công vào việc ấn loát tờ báo này.

    Từ những số đầu tiên, những tờ báo này vạch mặt chỉ tên những kẻ họ cho là Cần Lao ác ôn, tay sai hoặc Công An Mật Vụ của chế độ cũ. Hầu như tất cả những nhân vật nắm những chức vụ từ hạ tầng cơ sở như Xã Quận đến Tỉnh Thành đều là những mục tiêu chính để cho họ nguyền rủa, mặc dầu trên thực tế, những kẻ bị chỉ trích chỉ là công cụ mọn hèn của chế độ Ngô Đình Diệm.

    Qua tờ báo địa phương này, phong trào Nhân dân cứu quốc của Giáo Sư Lê Khắc Quyến lên án gắt gao đảng Cần Lao, quan trọng và nguy hiểm hơn nữa họ còn dùng những luận cứ để đồng hóa người Công Giáo với Cần Lao nòng cốt. Tạo phong trào chống Cần Lao kịch liệt trên báo chí, với đủ mọi phương tiện, đủ mọi lập luận, họ gây căm hờn giữa quần chúng và giáo dân Cố Đô Huế.

    Tờ Lập Trường còn nêu đích danh những Tướng lãnh mà họ cho là con đẻ của chế độ cũ để đả kích. Xuyên qua số Tướng lãnh này, họ chỉ trích luôn cả tập thể Quân Đội. Phải công nhận rằng (dù tôi bất đồng ý với chủ trương của phong trào nhân dân cứu quốc) các Giáo Sư từng cộng tác với tôi ít nhiều đã thành công. Dân chúng Huế, đa số đã ủng hộ, cổ võ cho mục tiêu của phong trào.

    Ngoài thành phố, hàng trăm khẩu hiệu viết trên những tấm vải màu, nội dung chống chế độ nhà Ngô, chống Tướng lãnh nhan nhản khắp nơi, tôi đọc những câu khẩu hiệu này tự nhiên thấy trái tim mình nôn nao, quặn thắt. Dầu gì đi nữa, chế độ cũ kể như đã hoàn toàn bị triệt hạ rồi, không khí cách mạng và nhiều người khao khát mong chờ cũng đã hết.

    Giờ đây không phải lúc để chúng ta đả kích lẫn nhau, vạch mặt chỉ tên lẫn nhau, triệt hạ uy tín lẫn nhau mà là giai đoạn cần phải tạo dựng lại, củng cố lại. Chế độ nhà Ngô sụp đổ, mang theo cả công trình của ông Diệm lại từ con số không, tất cả nguồn mạch quê hương lại phải khởi đi từ con số không buồn thảm đó.

    Muốn thành công cứu vớt sự suy tàn của quê cha đất tổ, một nhóm người không thể gồng mình làm được công việc đòi hỏi nhiều mức sống và can đảm này mà tất cả phải bắt tay với nhau, quên đi những kỷ niệm u buồn, hướng về bầu trời tương lai đang mở ra trước mắt.

    Có lẽ không riêng gì tôi, nhiều người ở giải đất ốm o gầy yếu này đều mong muốn như vậy.

    Nhưng không hiểu tại sao những người trí thức lại hiểu lệch lạc như vậy. Tôi không tin những cộng sự của tôi cố tình tạo ra một tình trạng chia rẽ, nhiễu nhương thêm cho quê hương. Hơn bất cứ người nào hết, những cộng sự của tôi đã có rất nhiều kinh nghiệm trong giai đoạn chuyển tiếp vừa rồi. Trong thâm tâm tôi tin họ sẽ hiểu bao quát vấn đề để kịp thời dừng lại ở giai đoạn khởi đầu nhiều sôi bỏng.

    Tuy nhiên, đó chỉ là sự mong ước ảo tưởng của tôi, không những cộng sự viên thuộc lãnh vực Đại Học Huế với tôi chẳng soát xét lại công cuộc chống lại Cần Lao mà càng tiến sâu hơn nữa. Ngoài thành phố, trong trường sở, đâu đâu tôi cũng nhìn thấy sự căm thù và nổi giận.

    Phong trào chính trị này còn lập thêm những trạm phóng thanh ở các Phân Khoa Đại Học, các ngôi chùa và tối tối họ loan truyền những bài viết đả kích Quân Đội, Công Giáo, Cần Lao nặng nề.

    Tôi không hưởng ơn mưa móc gì của chế độ Tổng Thống Diệm.

    Tôi không hề bênh vực gì chế độ ông ấy. Tuy nhiên tôi cũng không mấy hài lòng khi thấy phong trào kia cố tình đồng hóa người Công Giáo với Cần Lao. Cần Lao cũng có kẻ tốt người xấu, không phải tất cả Cần Lao đều xấu hết. Vì vậy trong buổi gặp gỡ với Giáo Sư Quyến, tôi đã thành thật nói với ông ấy điều này.
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7190
Registration date : 01/04/2011

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN   BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN - Page 5 I_icon13Mon 20 May 2024, 10:46

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965
 
L. M. Cao Văn Luận
 

45. Vĩnh biệt Huế
 
     Nhưng những lời khuyến cáo của tôi đã không ích lợi gì. Lê Khắc Quyến, Lê Tuyên và đồng bọn vẫn tiếp tục cuộc tranh đấu chính trị của họ và vẫn chiếm cứ Đại Học, gây ra nhiều xáo trộn. Tôi cảm thấy bất lực để đối phó với họ, và quá chán nản tôi đã nghĩ đến việc từ chức Viện Trưởng, cuốn gói ra đi, từ biệt xứ Huế mà tôi đã tận tâm phục vụ ngót 20 năm trời.

    Vào cuối tháng tám, một hôm vì quá bực mình và chán nản, tôi đã thảo đơn từ chức, nhưng rồi lại bỏ vào hộc bàn viết. Sở dĩ tôi còn ngần ngại chưa dứt khoát quyết định là vì ở Đại Học còn nhiều việc chưa làm xong, nhiều dự trù chưa được thực hiện: Đại Học Y Khoa với viện trợ của Gia Nã Đại chưa xây cất hết, Đại Giảng Đường của Đại Học Khoa Học cũng đang còn bỏ dở, Đại Học Sư Phạm vừa xây cất xong chưa được chính thức khánh thành, chương trình xây cất Trung Tâm Kỹ Thuật ở Đồng An Cựu với sự giúp đỡ của Đại Học Standfort chưa bắt đầu. Việc hiệu đính các Châu bản Triều Nguyễn khởi công từ ba năm trước với sự cộng tác của Giáo Sư Chen Ching Ho cũng chưa hoàn tất. Ngày 9 tháng 9 tôi vào Sài Gòn để gặp ông Đại Sứ Anh xin giúp cho Đại Học Y Khoa một vài Giáo Sư và một số dụng cụ thí nghiệm. Từ trước đến nay tôi đã liên lạc mấy lần với Tòa Đại Sứ Anh để xin viện trợ cho Đại Học Huế nhưng luôn luôn bị từ chối, lần này tôi hy vọng thành công vì ông Đại Sứ Anh vừa mới ra thăm Huế và hứa hẹn giúp đỡ, tôi vào Sài Gòn mới được ba hôm công việc chưa xong gì thì ngày 12 tháng 9 xảy ra vụ đảo chánh do nhóm Phạm Ngọc Thảo chủ động. Nhân cơ hội đó Lê Tuyên và Lê Khắc Quyến đã cho phao đồn ở Huế rằng tôi đã vào Sài Gòn lần này chỉ là để cổ xúy và trực tiếp tham gia vào cuộc đảo chánh ấy, họ đã hội họp sinh viên và Giáo Sư lại để công khai lên án tôi và đòi tôi phải từ chức, phần đông các Giáo Sư và sinh viên phản đối việc đó vì còn muốn tôi ở lại. Tuy thế ngày 14 tháng 9 tôi đã nhận được một điện tín từ Huế đánh vào yêu cầu tôi từ chức, viện lẽ rằng sự hiện diện của tôi ở Đại Học Huế trong giai đoạn hiện tại không còn thích hợp và cần thiết.

     Đã nuôi sẵn ý định rút lui từ hai tháng nay rồi nên khi nhận được điện tín ấy của Lê Khắc Quyến đồng ký với Lê Tuyên, Tôn Thất Hanh, Mai Văn Lễ và một vài Giáo Sư khác, tôi đã không ngần ngại đắn đo lập tức đến gặp Bùi Tường Huân, lúc đó mới được phe Phật Giáo đưa lên làm Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục, và đưa cho ông ta cái thư xin từ chức mà tôi đã viết sẵn hai tháng trước và lúc vào Sài Gòn tôi đã mang theo. Bùi Tường Huân hình như đã sắp đặt trước với nhóm cứu quốc ở Huế trước nên đã vui vẻ chấp nhận sự từ chức của tôi liền và vài hôm sau đã ký Nghị Định giải nhiệm cho tôi và bổ nhiệm tôi làm Giáo Sư Đại Học Sư Phạm Sài Gòn. Lúc chấp nhận sự từ chức của tôi Bùi Tường Huân có nói: ‘’Ít hôm nữa, lúc nào thuận tiện mời Cha trở lại Huế làm lễ bàn giao. Chúng tôi sẽ tổ chức một lễ tiễn đưa Cha thật trọng thể và sẽ gắn huy chương cho Cha để tỏ lòng tri ân công lao Cha đối với Đại Học Huế nói riêng và nền giáo dục nói chung’’.

     Tôi đã từ chối và đã không trở lại Huế làm lễ bàn giao, chỉ nhờ một người bạn ra đưa sách vở và đồ đạc vào Sài Gòn thôi. Tôi không trở lại Huế, thực ra vì không muốn gây xúc động cho nhiều người mà tôi biết chắc là còn mến tiếc tôi và còn muốn cho tôi ở lại điều khiển Đại Học Huế. Từ đó tôi sống trong im lặng ở Sài Gòn, tuy nhiên tôi vẫn luôn theo dõi những thăng trầm của Viện Đại Học Huế mà tôi coi như là sự nghiệp lớn nhất và thành công nhất của đời tôi, một sự nghiệp mà tôi phải vất vả dày công tạo dựng, vun trồng suốt bảy năm, cầu mong cho nó được phát triển và mãi mãi tồn tại với non sông để tên tuổi tôi cũng được mãi mãi gắn chặt vào.


L.M Cao Văn Luận
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content




BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN   BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN - Page 5 I_icon13

Về Đầu Trang Go down
 
BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN
Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Similar topics
-
» BÊN LỀ CUỘC ĐỜI
» Thơ PHẠM KHANG
» MƯA Ở BÊN KIA
» BÊN HỒ
» TRANG THƠ LÊ HẢI CHÂU
Trang 5 trong tổng số 5 trangChuyển đến trang : Previous  1, 2, 3, 4, 5

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
daovien.net :: VƯỜN VĂN :: Truyện Sưu tầm :: Hồi ký, tuỳ bút-