Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesVietUniĐăng kýĐăng Nhập
Bài viết mới
Những Bài Giảng Hay Thầy Thích Pháp Hoà by mytutru Yesterday at 20:28

Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 20:15

Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Yesterday at 16:18

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN by Trà Mi Yesterday at 10:41

TRUYỆN KIỀU CÓ TRƯỚC ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH, VÀ LÀ CỦA VIỆT NAM ??? by Trà Mi Yesterday at 10:27

Lục bát by Tinh Hoa Yesterday at 07:21

PHÁP VIỆN MINH ĐĂNG QUANG TĂNG NI & Đại Chúng by mytutru Yesterday at 00:55

SƯ TOẠI KHANH (những bài giảng nên nghe) by mytutru Sat 16 Mar 2024, 20:15

Xem tướng mạo đàn ông ngoại tình, lăng nhăng by Trà Mi Sat 16 Mar 2024, 10:05

Putin dối trá khi trả lời Tucker Carlson by Trà Mi Fri 15 Mar 2024, 11:39

Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Fri 15 Mar 2024, 11:20

Chùm thơ "Có lẽ..." by Tú_Yên tv Fri 15 Mar 2024, 11:09

Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Fri 15 Mar 2024, 11:07

7 chữ by Tinh Hoa Fri 15 Mar 2024, 03:27

Một thoáng mây bay 12 by Ai Hoa Thu 14 Mar 2024, 09:55

BẮT CÁ TRỜI MƯA by Phương Nguyên Wed 13 Mar 2024, 20:48

5 chữ by Tinh Hoa Wed 13 Mar 2024, 07:56

Tiến Trình Tu Học Phật - Thành Phật by mytutru Mon 11 Mar 2024, 23:17

Tập Mỗi Ngày by mytutru Mon 11 Mar 2024, 22:48

Lan ĐV 8 by buixuanphuong09 Mon 11 Mar 2024, 11:06

SẦU LY BIỆT by Phương Nguyên Mon 11 Mar 2024, 08:02

LỀU THƠ NHẠC by Phương Nguyên Sun 10 Mar 2024, 08:39

MỪNG NGÀY 08.03 by Phương Nguyên Sun 10 Mar 2024, 08:21

Chỉn by Trà Mi Sat 09 Mar 2024, 12:30

Lỗi 404 by mytutru Fri 08 Mar 2024, 11:09

Thể Tánh Muôn Loài by mytutru Tue 05 Mar 2024, 23:44

5-8-8-8 by Tinh Hoa Tue 05 Mar 2024, 03:32

Còn mãi duyên thầy by buixuanphuong09 Mon 04 Mar 2024, 13:37

Con Đường Tâm Mytutru TKN Đào Liên by mytutru Sat 02 Mar 2024, 12:09

Hoa Sen Ao Sen by mytutru Sat 02 Mar 2024, 08:27

Tự điển
* Tự Điển Hồ Ngọc Đức



* Tự Điển Hán Việt
Hán Việt
Thư viện nhạc phổ
Tân nhạc ♫
Nghe Nhạc
Cải lương, Hài kịch
Truyện Audio
Âm Dương Lịch
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
Đăng Nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập: 
:: Quên mật khẩu

Share | 
 

 Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Chuyển đến trang : Previous  1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8  Next
Tác giảThông điệp
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng   Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 I_icon13Tue 01 Jun 2021, 09:42

TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG

Thuỵ Khuê

Sự thành lập Tự Lực văn đoàn và Phong Hóa

Phần II

Chân dung Nhất Linh

Trong Những ngày vui, Nhất Linh xuất hiện sau Nguyễn Gia Trí, trong vai Phượng. Khi in thành sách, đổi thành Phúc, có lẽ để tránh nhầm với Phương, nhưng lại làm trệch ý Khái Hưng: cố ý đặt tên Phượng đi với Phương như hai giọt nước, giống Khái Hưng và Nhất Linh ở ngoài đời.

Và đây là đoạn Phượng đến gặp Duy, "chủ nhiệm" báo Tự Động để bàn chuyện "mở báo":

"- Chào ông chủ nhiệm.

Duy nghĩ thầm:

- Thôi chết tôi rồi. Ông này mà đến chơi thì chắc chắn là mất hết một buổi sáng nghe chuyện mở báo.

Như đọc được tư tưởng của Duy, ông khách hỏi luôn:

- Ông bận? Nếu ông bận, xin để khi khác tôi lại đến.

Duy muốn đáp: "Vâng quả thực tôi bận", nhưng chàng chỉ mỉm một nụ cười rất tự nhiên giơ tay mời:

- Ông ngồi chơi. Thưa không, tôi không bận gì hết. Tôi rất vui lòng tiếp chuyện ông.

- Thưa ông hôm nay nghỉ?

- Vâng, hôm nay thứ năm.

- Báo của ông ra hôm nay, tôi vừa mua một số đây.

Vừa nói chàng vừa giơ ra một tập báo. Rồi cười nói tiếp:

- Ông đã biết đấy, tôi rất thích nghề báo, và báo nào tôi cũng mua, cũng đọc. Tôi đọc cả những truyện kiếm hiệp, kiếm tiên nữa. Nhưng tôi không mua năm báo nào hết. Tội gì phải không, thưa ông? Mình ở Hà Nội, nghe trẻ rao ngoài phố, gọi vào mua một số. Như thế có phải tiện không? Mà lại tránh được cái nạn mất báo, khỏi phải mất công viết thư lên toà soạn đòi số khác…

Chàng kéo một thôi về cái lẽ mất báo, về cách xếp đặt vụng về trong ban trị sự của hết thẩy các toà báo chữ Pháp, chữ Việt.

- Rồi ông xem, khi nào báo của tôi ra đời, ông sẽ thấy cách tổ chức khôn khéo hoàn toàn. Hiện giờ tôi đương ở thời kỳ điều tra, nhận xét, khảo cứu.

Chàng rút ra một quyển sổ con, nói tiếp:

- Đây này, ở cả trong này, "projet" mở báo ở cả trong này.

Duy rùng mình, lo sợ vì biết thế nào Phúc cũng đem cái kế hoạch mở báo ra nói cho mình nghe trong khoảng ít ra là một giờ đồng hồ. Ở Hà Nội, và ở tỉnh lỵ các thành phố Phúc đã đi qua, dễ trong hầu hết các giới trí thức, ít ai không một lần được nghe Phúc bàn về cái kế hoạch mở báo của chàng.

Phúc là một vị giáo sư khoa học có giá trị tại trường trung học. Chàng đã tòng học bốn năm ở bên Pháp và đã đậu cử nhân khoa học. Về nước, chàng được bổ ngay giáo sư và lương tháng kể cũng khá cao, có lẽ đến gần ba trăm bạc.

Nhưng trong thời kỳ học tập bên Pháp cũng như ngày nay trong thời kỳ dạy học, chàng chỉ chuyên nghiên cứu có một thứ báo chí. Chàng nói với hết thảy các bạn bè và những chỗ quen biết rằng nghề gõ đầu trẻ, chàng chỉ theo tạm, nghề chính của chàng là nghề viết báo, mở báo kia"
(Những ngày vui trang 148-150).

Và Phúc còn thao thao bất tuyệt về nghề báo trong sáu trang sách nữa.

Phúc thì đúng là Nhất Linh rồi: Giáo sư cử nhân mới ở Pháp về. Luôn luôn mơ tưởng việc làm báo và đi đâu cũng tuyên truyền việc lập báo. Mặc dù lương giáo sư khá cao, gần ba trăm bạc, nhưng Nhất Linh vẫn không đủ tiền để ra báo.

Cuối cùng, phải nhờ đến số tiền 10.000 của Nguyễn Văn Tiên Leung Fat Fa, Nhất Linh mới có thể thực hiện được giấc mộng, kể từ Phong Hóa số 14.

Những thành viên đầu tiên của Tự Lực văn đoàn

Theo sự sắp đặt nhân vật trong Những ngày vui, thì Nguyễn Gia Trí và Khái Hưng là hai người đầu tiên trong "nhóm" Tự Lực. Nhất Linh đến sau, việc này hư thực như thế nào, khó biết được, mà cũng không quan trọng.

Chỉ biết ba hạt nhân đầu của Tự Lực văn đoàn là Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí và Nhất Linh. Tự Lực văn đoàn đã manh nha trong thời gian từ tháng 6-1932 đến tháng 9-1932, nghiã là từ Phong Hóa số 1 (16-6-1932) đến số 13 (8-9-1932) tức là thời kỳ chuẩn bị ra báo Phong Hóa số 14.

Khi đọc kỹ Phong Hóa, chúng ta sẽ thấy rõ hai thời kỳ này, như đã được Khái Hưng mô tả trong Những ngày vui:

Từ số 1 đến số 13: Phong Hóa do Khái Hưng chủ trì.

Từ số 14 trở đi (nhờ số tiền 10.000 đồng) Nhất Linh tổ chức lại tờ báo, mở rộng với nhiều người cộng tác và ông làm Giám đốc.

Nhưng hai thời kỳ này không hoàn toàn phân cách, bởi vì nếu tinh ý, ta sẽ thấy có những thành viên của văn đoàn đã xuất hiện trên Phong Hóa ngay từ những số đầu:

- Phong Hóa số 2 (23-6-1932), bìa tranh trừu tượng, ký tên Đông Sơn bằng chữ Hán, bìa này giữ đến số 10 (18-8-1932). Nếu Đông Sơn là Nhất Linh, thì không thể nói Nhất Linh chỉ "vào" Phong Hóa từ số 14, mà "vào" từ số 2.

- Phong Hóa số 3 (30-6-1932) có hý họa ký tên Đông Sơn bằng chữ quốc ngữ, cũng thế, Nhất Linh "vào" từ số 3 chăng?

Vậy ta phải hiểu như thế nào? Theo tôi, những điều Khái Hưng viết trong Những ngày vui phù hợp với thực tế hơn, còn những điều Nhất Linh và Tứ Ly viết trên Phong Hóa số 154, chỉ có tính cách tượng trưng, tuyên ngôn, tuyên cáo, cho nên ta hiểu tại sao Khái Hưng làm thinh, không tuyên bố gì trên số báo Phong Hóa 154 này. (Xem Sự thành lập Tự Lực văn đoàn, phần I)

Bởi vì, nếu Nhất Linh chỉ "vào" Phong Hóa từ số 14, thì tranh bìa ký tên Đông Sơn chữ Hán từ số 2 và hý họa ký tên Đông Sơn quốc ngữ trong số 3, là của ai?

Trừ khi Đông Sơn lúc đầu là Nguyễn Gia Trí?


Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Tlvd0110

Tranh bià Đông Sơn, ký chữ Hán, Phong Hóa số 2



Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Tlvd0111

Tranh Đông Sơn ký chữ quốc ngữ trong Phong Hóa số 3


Tóm lại, trừ khi có khám phá mới, tôi tạm coi Đông Sơn là tên chung của Nguyễn Gia Trí và Nhất Linh trong thời kỳ đầu. Đến khi nào thì tách riêng và trở thành tên của Nhất Linh? Đó là một câu hỏi chưa thể giải đáp.

Về văn, Nhất Linh dường như không viết gì cho Phong Hóa từ số 1 đến số 13, nếu xét giọng văn và tư tưởng. Ông chính thức xuất hiện cùng với Tứ Ly (Hoàng Đạo) và Tú Mỡ, trên Phong Hóa số 14 (22-9-1932), số báo chính thức của Tự Lực văn đoàn. Thạch Lam cũng viết từ số 14, với tên TL và số 15, với tên Việt Sinh.

Trường hợp Thế Lữ khá phức tạp, ông có ba bài in trên Phong Hóa những số đầu, ký tên Nhất Chi Mai: tạp văn Quần trắng áo lam (Phong Hóa số 4, 7-7-1932), tường thuật Một buổi diễn kịch làm phúc (Phong Hóa số 5, 14-7-1932) và truyện ngắn Bả phồn hoa (Phong Hóa số 6, 21-7-1932); nhưng lúc đó ông chưa nổi danh, nên không ai biết. Bẵng đi nửa năm, trên Phong Hóa không thấy tên Nhất Chi Mai nữa. Đến Phong Hóa số 27, 23-12-1932, mới có bài ông, lần này ký tên Thế Lữ, dưới truyện ngắn Thây ma xuống gác. Hơn một năm sau, ông xin được vào làm việc trong tòa soạn Phong Hóa, từ số 91 (30-3-1934). Bút hiệu Nhất Chi Mai chỉ trở lại trên vài số báo Phong Hóa cuối cùng và một cách chính thức, trên báo Ngày Nay.

Tóm lại, ta có thể tạm kết luận: những thành viên đầu tiên làm báo Phong Hóa, từ số 1 đến số 13, là Khái Hưng và Nguyễn Gia Trí, lúc đó chắc chưa có ý định lập "văn đoàn" gì cả. Kể từ Phong Hóa số 14 có Nhất Linh, Hoàng Đạo, Tú Mỡ và Thạch Lam mới trở thành một nhóm hay một "văn đoàn" và tới số 27, có thêm Thế Lữ.

Nhưng đây chỉ là kết luận tạm thời, kỳ tới, sau khi khảo sát nội dung và hình thức những số báo Phong Hóa đầu tiên do Khái Hưng phụ trách (từ số 1 đến số 13), tôi sẽ đưa ra một kết luận rõ ràng hơn.

(Còn tiếp)

Thụy Khuê

___________________________

[1] Lạnh lùng đã in mấy trang đầu trên Phong Hóa số 151 (31-8-1935), rồi ngừng. Nhất Linh cho in Đi Tây ký tên Lãng Du thay thế. Gần một năm sau, Lạnh lùng xuất hiện lại trên Ngày Nay (từ số 16, 12-7-1936 đến số 37, 6-12-1936).

[2] Lũng Thượng thuộc Yên Lạc, Vĩnh Yên, nơi có đồn điền của gia đình Đỗ Đình Đạo, một yếu nhân của Việt Nam Quốc Dân Đảng, bạn thân của Nhất Linh.

[3] Những ngày vui, Phượng Giang 1958, trang 95-97. Chúng tôi trích bản in trong sách, vì bản này đã sửa chữa những lỗi chính tả.

[4] Những ngày vui, bản Phượng Giang, trang 99.

[5] Theo lời Trần Khánh Triệu (con nuôi Khái Hưng, con ruột Nhất Linh) trong bài Papa toà báo, in trên Thế Kỷ 21, số tưởng niệm Khái Hưng tháng 12/1997, in lại trong Nhất Linh, người nghệ sĩ, người chiến sĩ, Nxb Thế Kỷ, California, 2004.

[6] Ninh Giang thuộc tỉnh Hải Dương.

[7] Chữ TCHYA có thuyết nói là Tôi chẳng yêu ai.

[8] Viễn Sơn Nguyễn Tường Bách, Tưởng nhớ Khái Hưng, Người bạn, Người anh thân mến, Nhà văn, Chiến sĩ cách mạng, in trong Kỷ vật đầu tay và cuối cùng, cuốn 1, Hồn bướm mơ tiên, Nguyễn Thạch Kiên soạn, Nxb Phượng Hoàng, Hoa Kỳ, 1997, t. 157-158.

[9] Đoạn này tôi trích ở báo Ngày Nay số 16, vì cho đó là bản gốc, khi in thành sách, được sửa lại như sau:

"Là vì học gần hết năm thứ hai và sau một cuộc cãi lý kịch liệt với ông giáo, Duy bỏ học. Nhưng ít lâu chàng lại xin vào lần thứ hai. Ông giáo vì mến tài nên bằng lòng. Nhưng đến năm thứ ba, được năm tháng, vì một điều chẳng quan hệ mấy, Duy lại bỏ học. Rồi ít lâu lại vào học. Lần sau cùng, Duy chính thức từ giã trường Mỹ Thuật, vì chàng trúng tuyển kỳ thi ra". Nhưng có lẽ đoạn trong sách đúng với thực tại hơn: Nguyễn Gia Trí đã bỏ học, nhưng đi xem hội chợ, thấy tranh sơn mài của Trần Quang Trân lại quay trở về học tiếp sơn mài đến lúc ra trường năm 1936 (theo thư Nguyễn Gia Trí gửi Mai Thọ Truyền, in trong loạt bài Những lá thư Nguyễn Gia Trí gửi Phạm Tăng, trên mạng vanviet.info và thuykhue.free.fr ).

[10] Đoạn này cũng trích Những ngày vui, in trên Ngày Nay số 16. Bản Phượng Giang 1958, trang 7-9, có sửa vài chữ so với bản in trên báo.

[11] Xem bài Những bức thư Nguyễn Gia Trí gửi cho Phạm Tăng, site: vanviet.info và thuykhue.free.fr

[12] Lê Phổ trả lời phỏng vấn của Thụy Khuê trên RFI, in lại trong sách Lê Thị Lựu ấn tượng hoàng hôn, nxb Tổng Hợp TP HCM, Bảo tàng Mỹ Thuật TPHCM, 2018).

[13] Trong bài Nguyễn Gia Trí, bậc đạo sư của sơn mài nghệ thuật của Hoàng Hưng, in trong sách Những người lao động sáng tạo, nxb Lao Động, 1998.

(còn tiếp)
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng   Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 I_icon13Wed 02 Jun 2021, 09:38

TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG

Thuỵ Khuê

Khái Hưng và Phong Hóa

Đọc Phong Hóa chúng ta sẽ thấy về mặt bài vở: Phong Hóa từ số 1 (16-6-1932) đến số 13 (8-9-1932) do Khái Hưng phụ trách, từ số 14 (22-9-1932) trở đi, Nhất Linh đổi mới tờ báo, mời thêm những người viết, người vẽ mới và làm Giám đốc.

Theo Những ngày vui của Khái Hưng, sở dĩ có sự cải tiến này là nhờ số tiền 10.000 đồng của ân nhân người Minh hương Nguyễn Văn Tiên Leung-Fat-Fa di tặng. Nói khác đi, số tiền Nhất Linh có để phát triển tờ báo là của một người Minh hương, trước chịu ơn Khái Hưng, cho hoặc cho vay.

Trên Phong Hoá số 14 (22-9-32) có đăng quảng cáo xà phòng thơm Mondia, Đại lý độc quyền là Lune-Fat, 22 Hàng Bạc Hà Nội. Phải chăng đây là cửa hiệu của gia đình Leung-Fat-Fa?

Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Tlvd0112

Phong Hóa số 14

Chúng tôi xin tóm tắt lại câu chuyện ra được kể trong Những ngày vui:

Duy [Nguyễn Gia Trí] xoay xở, gạ ông chủ hãng xe hơi bỏ tiền ra in báo để đăng quảng cáo khỏi tốn tiền. Ông chủ cho bọn Phương [Khái Hưng] Duy mỗi tháng 200 đồng để làm báo Tự Động. Tự Động là tờ báo đầu tiên [tức là Phong Hóa từ số 1 đến số 13] do Phương, Điển viết, Duy vẽ. Điển chắc là nhân vật hư cấu vì chẳng thấy bài nào có thể gọi là của Điển trên báo Phong Hóa. Được trợ cấp 200 đồng, cộng thêm tiền Duy làm "áp phe" và vẽ tranh, nên Tự Động ra được, nhưng báo ế, không biết sống chết lúc nào, mặc dù Duy cố hết sức xin quảng cáo các nhà giầu, cũng không ai bỏ tiền ra. Cuối cùng, nhờ di sản của Nguyễn Văn Tiên Leung-Fat-Fa, mới có tờ Con người [tức là Phong Hóa kể từ số 14].

Về cái tên Tự Động

Phương [Khái Hưng] chất vấn Duy [Nguyễn Gia Trí]:

"Phương hỏi:

- Thế báo anh tên là gì?

- Ô tô.

Điển lăn ra cười:

- Trời ơi! Trên báo Ô tô của anh mà chúng tôi gửi đăng văn, đăng truyện dài, truyện ngắn, thì thánh cũng phải tức cười.

- Việc gì mà tức cười? Thế trên báo Nông Lâm người ta đăng toàn truyện văn chương và truyện kiếm hiệp thì sao? Vả lại mai tôi mới nộp đơn xin ra báo. Nếu các anh không thích cái tên Ô tô thì tôi sẽ đổi nó ra "Tự động". Không ai hiểu tự động là cái quái quỷ gì, thế là được rồi. Rồi trong bài phi lộ, ta sẽ nói lờ mờ mấy câu cho độc giả hiểu lầm ra nghiã tự do, tự lập gì đó. Thế là báo chạy như mớ tôm tươi ngay. Các anh tha hồ viết.

Phương và Điển vẫn tưởng đó là một câu chuyện đùa bỡn. Nhưng hai chàng kinh ngạc xiết bao khi, một tuần lễ sau, cùng nhận được giấy gọi ra sở liêm phóng khai căn cước và lý lịch. Đến đây, Phương mới biết mình nghiễm nhiên trở nên chủ bút tờ báo "Tự động". Giá không có cái dấu ngoặc hàng chữ Pháp (Auto Revue), thì có lẽ chàng cũng quên bẵng nghiã chữ "Tự động".

Rồi nhờ về thế lực và sự vận động của chủ hãng xe lớn, hai tháng sau, báo "Tự Động" được phép ra đời để góp tiếng với các bạn đồng nghiệp Nam Trung Bắc"
[1]

Đoạn văn này phản ảnh một số việc thực: nhờ thế lực của ông Phạm Hữu Ninh và Nguyễn Xuân Mai (tên hai người được ghi trên đầu báo Phong Hóa) mà báo Tự Động (tức Phong Hóa) xin được giấy phép ra đời. Khái Hưng là chủ bút. Đây là tờ báo đầu tiên của nhóm Tự Động, cũng là giai đoạn đầu của tờ Phong Hóa, Khái Hưng viết gần hết các bài trên báo với những bút hiệu khác nhau.

Tự Động là tên báo, nhưng sự thực là tên văn đoàn Tự Lực nói trại đi. Vậy "nhóm Tự Động" hay nhóm Tự Lực, lúc đầu chỉ có hai người: Khái Hưng và Nguyễn Gia Trí.

Đến khi Tự Động trở thành báo Con Người (tức là Phong Hóa từ số 14 trở đi), Nhất Linh mới cải tổ tờ báo, làm Giám đốc, mượn thêm những người mới.

Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Tlvd0113

Tự động xa, tranh Gia Trí, Ngày Nay số 28

Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Tlvd0114

Toà soạn Tự Động, tranh Gia Trí, Ngày Nay số 28

Sự vận động cho báo Tự Động (tức Phong Hóa số1) được Khái Hưng mô tả như sau:

"Trên các bức tường ở các nơi ngã ba, ngã tư thành phố Hà Nội, người ta thấy dán những tờ yết thị màu vàng rộng bản có hai chữ lớn "Tự Động".

Lại gần người ta sẽ nhận rõ, vẽ mầu đỏ, hai bàn ty gân guốc nắm chặt cái "volant" và viết đè lên trên những dòng chữ đen sau này:

Tuần báo ra ngày thứ năm

Có đủ các mục về chính trị, xã hội, thương mại, văn chương và phụ nữ, do các nhà văn có chân tài soạn…

Số đầu ra ngày 1/10/19… sẽ có những bài:

1) Mấy lời phi lộ, của Tự động.

2) Mỹ thuật và ô tô của họa sĩ Nguyễn văn Duy.

3) Tôi làm thầu khoán, phóng sự của Trần đình Điển.

4) Nhan sắc của cô Đỗ mộng Nga.

5) Đêm thu mơ màng, truyện ngắn của cô Song Thu.

6) Một đời, truyện dài của Đỗ như Phương.

Và nhiểu bài rất hay rất mới rất vui của toàn các văn sĩ đã có tiếng tăm trong làng báo và làng văn.

Đón xem sẽ biết"
(Những ngày vui, trang 103).

Khái Hưng còn đưa vào miệng người đi đường (bình phẩm bức quảng cáo) những lời sau đây:

"Một người láu lỉnh đáp:

- Phải, tự động xa, tự động xa. Nhớ ngày Nam Phong mới ra đời, ông Phạm Quỳnh cũng gọi xe ô tô là tự động xa. Biết đâu tự động đây lại không là tự động xa, và tờ báo Tự Động lại không chỉ là một tờ báo quảng cáo ô tô!

Tiếng cười lại phá lên một lần nữa. Một chàng đeo kính trắng ý chừng muốn khoe rằng ta giỏi chữ nho, giảng nghiã:

- Tự động là tự mình động đậy, tự mình chuyển động, không phải theo ai, không nhờ sức ngoài, không chịu ảnh hưởng ở ngoài sai khiến. Hai chữ "tự động" của người ta hay lắm đấy chứ. Báo Tự động của người ta là một tờ báo tự lập, không sống về phụ cấp của chính phủ hay của một nhà tư bản nào
[chúng tôi in đậm] Tự hoạt động để sống một cách vẻ vang" (Những ngày vui, trang 104- 105).

Với giọng nửa đùa nửa thực, Khái Hưng xác định vai trò của Nguyễn Gia Trí trong tờ báo với bài Mỹ thuật và ô tô của họa sĩ Nguyễn văn Duy. Rồi ông lái hai chữ Tự Lực thành Tự Động để chế nhạo Phạm Quỳnh dùng chữ nho, đồng thời khoe Phong Hóa là "tờ báo tự lập, không sống về phụ cấp của chính phủ hay của một nhà tư bản nào" để chứng tỏ hai chữ Tự Lực đã có từ thời kỳ đầu tiên và quyết định tự lập, không xin tiền trợ cấp của chính phủ hay một nhà tư bản nào, cũng vậy.

Khái Hưng lại kể lúc mọi người đang bình phẩm tờ quảng cáo, thì "trong khi ấy ở phố Đường Thành hẻo lánh, các nhân viên toà soạn báo Tự Động làm việc để xuất bản số đầu kịp vào ngày đã định"[2]

Như vậy trụ sở đầu tiên của Phong Hóa ở phố Đường Thành chăng? Hay đây là địa chỉ Khái Hưng đặt ra? Còn căn nhà năm phòng mà Duy (Nguyễn Gia Trí) thuê cho Phương (Khái Hưng) để làm báo, là nhà nào? Nhà Đường Thành hay là nhà số 1, đường Carnot, toà soạn và trị sự báo Phong Hóa từ số 1 đến số 126 (30-11-1934), trước khi dời về 80 Quan Thánh? Nhiều câu hỏi chưa tìm được lời giải đáp.

Khái Hưng viết: "Thế rồi ngày mồng một tháng mười, như lời "kính cáo" gửi cho các bạn đồng nghiệp. Tự Động ra số đầu "chào quốc dân"[3]

Lời kính cáo chào quốc dân này nhại lại Mấy lời kính cáo quốc dân in trên trang nhất báo Phong Hóa số 1 (16-6-1932), như ta sẽ thấy ở dưới.

(còn tiếp)
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng   Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 I_icon13Fri 04 Jun 2021, 08:53

TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG

Thuỵ Khuê

Phong Hóa từ số 1 đến số 13, Khái Hưng ngự trị

Hai nhà nghiên cứu nhìn thấy vai trò của Khái Hưng trên Phong Hóa từ số 1 là Phạm Thế Ngũ và Thanh Lãng.

Phạm Thế Ngũ ghi: "Năm 1932, tờ Phong Hóa của mấy đồng nghiệp cùng dạy học ở trong trường [Thăng Long] ra đời, do Phạm Hữu Ninh, người sáng lập trường Thăng Long làm quản lý, Trần Khánh Giư, giáo sư trường Thăng Long làm chủ bút"[4].

Thanh Lãng viết: "Tuần báo Phong Hóa của ông Phạm Hữu Ninh, ngay từ số 1 ra tháng Juin 1932, cũng đã có một nội dung khác hẳn các báo đương thời cả về văn cũng như về ý tưởng. Trần Khánh Giư ( Khái Hưng) là cây bút cốt cán, giữ nhiều mục quan trọng trên Phong Hóa suốt từ số 1 cho đến số 14"[5]

Nhưng hai ông dừng lại ở hai câu này, không tìm hiểu thêm. Còn phần lớn những người viết khác chỉ chép đi chép lại rằng Nhất Linh, giáo sư cử nhân học ở Pháp về, mua lại tờ Phong Hóa của Phạm Hữu Ninh không có độc giả, sắp chết.

Như trên đã nói, mặc dù Khái Hưng viết: "Duy vẽ tranh. Còn Điển và Phương theo đuổi công việc soạn văn, dịch sách" (trang 99), ta cũng có thể đoán chắc răng Điển là nhân vật tưởng tượng, Khái Hưng đưa ra để làm như có hai người viết chứ không phải mình ông tự biên tự diễn, trên Phong Hóa từ số 1 đến số 13.

Còn một điều quan trọng nữa là cả Khái Hưng lẫn Nhất Linh trong thời kỳ đầu đều chưa ký tên Khái Hưng, Nhất Linh. Trần Khánh Giư chỉ bắt đầu ký tên T. Khái Hưng, trên Phong Hóa số 15 (29-9-1932) dưới truyện ngắn Cái thù ba mươi năm. Nguyễn Tường Tam lần đầu ký tên Nhất Linh dưới bài thơ Điệu thơ cụt trên Phong Hóa số 16 (6-10-1932), còn truyện ngắn vẫn ký Ngô Tâm Tư, rồi Bảo Sơn. Mãi đến Phong Hóa số 91 (30-3-34), lần đầu tiên bút hiệu Nhất Linh mới được ký dưới truyện vừa Thế rồi một buổi chiều.

Cho nên nếu chỉ dựa vào bút hiệu Khái Hưng, Nhất Linh, ta không thể điều tra được những bước đầu xây dựng Tự Lực văn đoàn, ai làm gì. Sự chọn tên của Khái Hưng trong Những ngày vui cũng có ý nghiã: Khái Hưng, Nhất Linh, luôn luôn đi đôi như Phương với Phượng. Khi Khái Hưng lấy tên Nhị Linh cũng trong ý ấy: dù hơn Nhất Linh 10 tuổi, và khai phá tiểu thuyết, truyện ngắn trước Nhất Linh, nhưng ông vẫn ký tên Nhị Linh, để công nhận vai trò chủ soái Tự Lực văn đoàn của Nhất Linh.

Phong Hóa số 1 ra ngày 16-6-1932[6]. Nội dung gồm có các bài:

Mấy lời kính cáo quốc dân, ký tên Phong Hóa Tuần Báo; Phong Tục (bản điện tử thiếu một trang, nên không rõ tên tác giả); Mục Bia Phong Hóa có ba bài: Sở Khanh của Kỳ-Hoa, Năm năm chăn gối của Bi Thời Khách, Chữ tình trong lúc biến của Trần Đỗ; Tân học cựu học chỉ là hai tiếng, của Trần Khánh Giư; Tranh Hai đám rước sư tử không ký tên; Mục Hài văn ký tên Quần Đệ Tử[7]. Và các mục: Văn Đàn; Sử ký và địa dư; Phụ nữ; Tin vắn nước Nam và Thế giới, Khoa học thường thức. Đoản thiên tiểu thuyết Mưu sâu đã dắp [rắp] của Kỳ Hoa; và quân sự tiểu thuyết Trận đánh phương nam (không ký tên, có chỗ ký Kỳ Hoa).

Tóm lại, trong số 1 này, ngoài hai bài ký tên thật Trần Khánh Giư, những bài còn đều lại ký tên khác, nhưng nếu tinh ý, ta sẽ thấy giọng văn và tư tưởng vẫn là Khái Hưng.

Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Tlvd0115

Bìa Phong Hóa số 1

Trên Phong Hóa số 1, trang đầu, có bài Mấy lời kính cáo quốc dân ký Phong Hóa Tuần Báo, lời lẽ như sau:

"… Xã hội Việt Nam ta đương ở vào buổi giao thời, cái giở [dở] của mình chưa giũ [rũ] sạch, cái hay của mình chưa nhận thấu, đương lúc ấy, tờ "Phong Hóa tuần báo" ra đời tưởng cũng không phải là sinh chẳng gặp thời vậy.

Vườn còn hoang, cỏ còn rậm, muốn sửa sang cho thành một cảnh tráng quan há không phải là bổn phận chung của cả Quốc dân? Phong Hóa Tuần Báo nay tự nhận chút đỉnh trách nhiệm, sửa sang vườn cũ, cây xưa, biết cái hay thì nêu ra để người lấy đấy mà trau rồi [dồi], biết cái giở [dở] cũng nêu ra để người nhớ lấy mà ruồng bỏ, âu cũng là gánh vác việc công ích trong muôn một.

Đã không thiên tín, lại chẳng chấp mê, chọn lọc hai đường tân cựu so sánh cho đúng hoàn cảnh hiện thời, bỏ điều giở, vạch điều hay của lễ nghi phong tục để cùng Quốc-Dân tấn thủ thi hành, đó là tôn chỉ của tờ Phong Hóa Tuần Báo".


Những lời này phù hợp với quan niệm trung dung, hoà hợp cũ mới của Khái Hưng, và "dọn cỏ vườn hoang" sẽ là mục "Hạt đậu dọn" Khái Hưng phụ trách trên Phong Hóa dưới tên Nhát dao cạo, để sửa sai các câu văn trên báo khác. Bài Mấy lời kính cáo quốc dân cùng giọng với bài tiểu luận Tân học cựu học chỉ là hai tiếng viết về Phan Khôi và Phạm Quỳnh, dung hoà ý tưởng của hai nhà văn đối lập tư tưởng tân-cựu, ký tên Trần Khánh Giư.

Tóm lại, ba bài Mấy lời kính cáo quốc dân (giải thích lý do ra báo), Phong tục (giải thích tên Phong Hóa: giáo hóa và phong tục) và bài thơ Cùng các bạn Phong Hóa, trong mục Văn Đàn (nói lên mục đích và tôn chỉ tờ báo) ký tên Phong Hóa, đều do Khái Hưng viết; và tôi chắc chắn cái tên Phong Hóa cũng do Khái Hưng đặt, bởi vì ba bài viết này đều đồng quy ở điểm giáo hóa và phong tục.

Mục Văn Đàn còn có bài thơ A une jeune mariée của Victor Hugo, dịch sang tiếng Việt là Lời mẹ khuyên con lúc xuất giá, do Đào Thiện Ngôn dịch; và một số bài thơ ký tên Kỳ Hoa, như Ngu CơChiêu Quân, nhất là bài hát nói Tu là cõi phúc, đã chớm nở tư tưởng thoát tục trong Hồn bướm mơ tiên. Vì vậy, ta có thể đoán chắc rằng: Đào Thiện Ngôn và Kỳ Hoa cũng vẫn là Khái Hưng, bởi vì chỉ mình Khái Hưng mới có kiến thức Đông phương sâu sắc, có tầm triết học Thái Tây, có tư tưởng thấm nhuần Nho Phật, có tài làm thơ và dịch thơ chữ Pháp và chữ Hán, có khuynh hướng lịch sử và cực lực bênh vực nữ quyền.

Mục Sử ký và địa dư có bài Con tiên cháu rồng kể chuyện Lạc Long Quân và Âu Cơ ký tên Kỳ Hoa, chứng tỏ khuynh hướng lịch sử đã bắt đầu. Mục Phụ nữ có bài Làm thân con gái đời thượng cổ của Trần Khánh Giư, mở đầu chiến dịch khôi phục nữ quyền trong tiểu luận. Tiếp đến là đoản thiên tiểu thuyết Mưu sâu đã dắp [rắp] của Kỳ Hoa (truyện một người chồng lập mưu đổ cho vợ tội ngoại tình để đuổi đi) chứng tỏ ông đã bắt đầu dùng tiểu thuyết để bênh vực người phụ nữ, mà đỉnh cao sẽ là Nửa chừng xuân, đăng trên Phong Hóa từ số 36 (1-3-1933).

Sau cùng là quân sự tiểu thuyết Trận đánh phương nam, không ký tên (có lần ký Kỳ Hoa) phóng tác theo tiểu thuyết kiếm hiệp Tây phương, cho ta thấy ông đã tập viết tiểu thuyết lịch sử và đỉnh cao sẽ là Tiêu Sơn tráng sĩ, bắt đầu đăng trên Phong Hóa từ số 129 (21-12-1934).

Kỳ Hoa có lẽ là bút hiệu Khái Hưng định chọn lúc đầu. Kỳ Hoa và Đào Thiện Ngôn sẽ biến mất sau Phong Hóa số 7, thay thế bằng những bút hiệu khác.

Trên Phong Hóa số 1, hầu như những tư tưởng chính xây dựng tờ Phong Hóa của Khái Hưng đã được bộc lộ: cho thấy hầu như toàn bộ tư tưởng ôn hoà và phong cách sáng tác đan cài văn chương, lịch sử và văn hoá Việt của ông. Tóm lại, năm 1932, trên Phong Hóa giai đoạn đầu của Tự Lực văn đoàn, Khái Hưng bao dàn gần hết bài vở, cũng như với hai tờ Việt Nam và Chính Nghiã, ở giai đoạn chót của Tự Lực văn đoàn, năm 1946. Ông đã "luyện văn" trên tờ Phong Hóa từ số 1 đến số 13, bằng nhiều thể loại khác nhau, với những chủ đề khác nhau.

(còn tiếp)
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng   Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 I_icon13Tue 08 Jun 2021, 09:15

TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG

Thuỵ Khuê

Phong Hóa số 2 (23-6-1932), báo ra ngày thứ năm, bìa có tranh trừu tượng, ký tên chữ Hán, nghiã là Đông Sơn[8]. Nội dung gồm có:

Bài xã luận: Muốn phá hủy hãy kiến thiết đã của Trần Khánh Giư. Mục Bia Phong Hóa có bài Nam vô tửu như kỳ vô phong của Kỳ Hoa. Hý họa không ký tên. Hài văn ký Quần Đệ Tử.

Ý nghiã Bồi thường trong sự hình phạt ở Á Đông của Trần Khánh Giư. Mục Văn đàn: gồm một bài hát nói Mừng Phong Hóa của Thảo Thượng Phong và một bài thơ cổ của Tăng Tử đời Tống vịnh Ngu Cơ, do Kỳ Hoa dịch, rất hay.

Mục Sử ký và địa dư có bài Thần núi thần sông (chuyện Sơn Tinh, Thuỷ Tinh) của Kỳ Hoa. Sau cùng là đoản thiên tiểu thuyết Mùa hoa gạo của Kỳ Hoa và Trận đánh phương nam, tiểu thuyết quân sự cũng của Kỳ Hoa.


Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Tlvd0116


Bìa Phong Hóa số 2


Tranh bìa này chắc Nguyễn Gia Trí vẽ, ký tên Đông Sơn chữ Hán, vì lúc này, trên nguyên tắc, chưa có Nhất Linh.

Lần đầu tiên tờ báo ghi tên tòa soạn và trị sự: Số 1, đường Carnot trên trang bìa. Và cũng lần đầu tiên ghi: Nguyễn Xuân Mai, Giám đốc và Phạm Hữu Ninh, Quản lý nhà in Thụy Ký (chữ nhỏ ở trang sau chót). Hai ông này sẽ giữ địa vị quan trọng trong một thời gian dài, như ta sẽ thấy ở dưới. Nhưng hầu như ít ai chú ý đến tên Nguyễn Xuân Mai, mà chỉ giữ lại tên Phạm Hữu Ninh vì ông là hiệu trưởng trường Thăng Long.

Trong số 2 này, vẫn gần như chỉ có một mình Khái Hưng tự biên tự diễn, ông ký thêm tên Thảo Thượng Phong dưới bài hát nói và tên này cũng chỉ xuất hiện vài số rồi biến mất. Nhưng đáng chú ý là hai bài:

- Xã luận: Muốn phá hủy hãy kiến thiết đã của Trần Khánh Giư, lời lẽ mạnh bạo, thuyết phục, nêu lên những hủ lậu của lối sống cũ, cần phải đổi mới, nhưng cũng chống lại sự a dua quá đáng của một số người theo mới: "Những cái mới không hẳn đã là hay, những cái cũ không chắc đã là dở, theo mới bỏ cũ vị tất đã là đi không phải đường. Song giá khi nào học những cái mới được tường tận đã, được hoàn toàn đã, thấu hết được tinh thần đã, hãy nên ruồng rẫy những cái cũ thì hợp đạo hơn". Trần Khánh Giư đưa ra thí dụ: xưa kia còn học chữ nho thì đứa trẻ nào trong làng cũng ê a dăm ba chữ của thầy đồ, bây giờ chuyển sang quốc ngữ, mấy làng mới có được một trường học, nạn mù chữ mạnh hơn. Quan điểm này -hoàn toàn khác với khẩu hiệu "theo mới hoàn toàn theo mới" của Hoàng Đạo- Khái Hưng đã dùng làm nền tảng để xây dựng nhân vật Mai trong Nửa chừng xuân, khác hẳn nhân vật Loan trong Đoạn tuyệt của Nhất Linh.

- Đoản thiên tiểu thuyết Mùa hoa gạo ký Kỳ Hoa, là tự truyện về quãng đời đi học của Khái Hưng: thủa nhỏ học 5 năm chữ Hán (từ 5 tuổi đến 10 tuổi) rồi mới học chữ Tây. Thi bằng Sơ Học năm 14 tuổi, vì đỗ cao nên được vào trường Bảo Hộ (ngoài đời Khái Hưng học trường Albert Sarraut). Mùa hoa gạo sẽ được ông viết lại thành hồi ký Thế giới cũ Mực tầu giấy bản ký tên Nhị Linh, về thời học chữ nho, đăng trên Phong Hóa từ số 24 (2-12-1932).

Phong Hóa số 3 (30-6-1932) ngoài những mục thường thức, còn có:

Xã luận
: Một câu hỏi của Trần Khánh Giư, biện hộ cho việc con gái cần phải đi học để có kiến thức, nâng cao giá trị người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội.

Bài Quang cảnh một tiệm hút thuốc phiện ở Hà Nội (đăng hai kỳ, kỳ đầu ký Thảo Thượng Phong, kỳ sau ký Trần Đỗ). Bài này có lẽ là thử nghiệm truyện ngắn hiện đại đầu tiên của Khái Hưng, viết theo lối phóng sự hư cấu về một tiệm hút thuốc phiện. Phương pháp mô tả của ông đã thành hình: tiệm hút ở ngõ Sầm Công được Khái Hưng soi tỏ mọi khía cạnh: người và vật.

Mục Bia Phong Hóa có bài Hoạn Thư của Kỳ Hoa. Mục Hài văn của Quần Đệ Tử, mục Thực hay hư của Nghịch Nhĩ Đào Đình Dù. Mục Gương thể thao của Nguyễn Tuấn Giao. Mục Chuyện Phong Hóa: Vì tình nên phải… của Khúc Giang.

Và trên Phong Hóa số 3 này có tranh hài hước ký tên Đông Sơn quốc ngữ lần đầu. Có thể vẫn là của Nguyễn Gia Trí, vì Nhất Linh chưa "vào", và có quảng cáo Nguyễn Tường Tam dạy trường Thăng Long, giáo sư cử nhân Vật lý. Cũng trong số báo này có thêm bút hiệu Khúc Giang, là tên một bài thơ của Đỗ Phủ.

Phong Hóa số 4 (7-7-1932)

Xã luận
: Nghề và tiếng của Trần Khánh Giư. Tuỳ bút Quần trắng áo lam của Nhất Chi Mai (bàn về mốt áo lam quần trắng của các bà các cô đang thịnh hành) đây là bài văn đầu tiên của Nhất Chi Mai tức Thế Lữ được đăng trên Phong Hóa, viết theo thể văn tùy bút khá mới, nhưng không ai để ý. Mọi người chỉ coi như Thế Lữ có mặt, từ lúc truyện ngắn Thây ma xuống gác ký tên Ng. Thế Lữ, được đăng trên Phong Hóa số 27 (23-12-1932).

Mục Bia Phong Hóa có bài Cái ngông cái rởm của người đời của Khúc Giang Đào Thiện Ngôn. Qua bút hiệu này ta biết Khúc Giang chính là Đào Thiện Ngôn, đều là Khái Hưng.

Tiểu luận Một cái khí giới của ông bố An Nam của Trần Khánh Giư, đả phá chế độ phụ quyền. Mục Phụ nữ có bài Hồ Xuân Hương của Kỳ Hoa. Thực hay hư của Nghịch Nhĩ Đào Đình Dù. Bài Quang cảnh một tiệm thuốc phiện ở Hà Nội (tiếp theo), lần này không ký Thảo Thượng Phong mà ký Trần Đỗ. Như vậy Trần Đỗ cũng là bút hiệu của Khái Hưng. Hài văn của Quần Đệ Tử. Có tật giật mình, tranh của Hbat. Mục Văn đàn, có ba bài thơ: Qua thành tỉnh Sơn, Thăm cảnh hồ Gươm, Đêm hè xem sách, không đề tên tác giả và một đoản văn của Chateaubriand do Đào Thiện Ngôn dịch, tất cả đều "của" Khái Hưng. Có tranh hài hước chế nhạo việc đánh bài, không ký tên. Mục Sử ký và điạ dư, có bài Đức Thánh Gióng của Kỳ Hoa.

Phong Hóa từ số 5 (14-7-1932) đến số 10 (18-8-1932)

Phong Hóa số 5 có bài Một buổi diễn kịch làm phúc, tường thuật của Nhất Chi Mai và Phong Hóa số 6, có truyện Bả phồn hoa của Nhất Chi Mai, sau đó không thấy bài của Nhất Chi Mai nữa.

Tóm lại, từ số 1 đến số 10, Khái Hưng bao dàn gần như hết cả tờ báo với những tên khác nhau. Ông đã ký những tên: Trần Khánh Giư, Kỳ Hoa, Đào Thiện Ngôn, Trần Đỗ, Thảo Thượng Phong, Khúc Giang, Hưng Bang, K.G., Ngô Đình Chiên, Bán Than[9], Hứa Do, K.G. Đào Quang Triệu, T. K. Giư, Lão Ôn, Trần Lang, Nhà Nho, Quần Đệ Tử, Nghịch Nhĩ Đào Đình Dù… Những bút hiệu này, hoặc do phá ba chữ Trần Khánh Giư, để lắp lại theo một trật tự khác, hoặc sử dụng hai chữ đầu K.G rồi biến chế thêm, hoặc dùng những sự tích liên quan đến tướng Trần Khánh Dư trong lịch sử, cùng quê với ông, hoặc thầm kín nói lên tính chất nhà nho "người hiền" như Hứa Do của chính mình, hoặc cho thấy Khái Hưng có humour, thích pha trò, tự giễu. Ông chỉ bắt đầu ký tên T. Khái Hưng trên Phong Hóa số 15 (29-9-1932) dưới đoản thiên tiểu thuyết Cái thù ba mươi năm, tác phẩm đầu tiên bộc lộ ngôn ngữ tiểu thuyết của Khái Hưng.


Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Tlvd0117


Phong Hóa số 11



Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Tlvd0118


Phong Hóa số 14


Phong Hóa số 11 (25-8- 1932), là ngõ quặt, bắt đầu sự cải tiến. Về hình thức, bỏ lối trình bày khổ nhỏ của tập san, chuyển sang khổ lớn của báo hàng ngày (như Phong Hóa số 14). Và có bài quảng cáo trên trang nhất, như sau:

Một sự cải cách lớn của báo Phong Hóa

Phong Hóa tuần báo tạm ra bốn trang giá bán 0p,03 [3 xu] để đủ thời giờ dự định một cuộc hoán cải rất lớn lao.

Vài tuần nữa tờ báo Phong Hóa sẽ được vừa lòng độc giả về hết các phương diện văn chương, mỹ thuật, tư tưởng.

Xin độc giả vững tâm chờ đợi. Phong Hóa tuần báo sẽ không phụ tấm lòng yêu mến của độc giả.


Qua lời quảng cáo này, ta có thể hiểu, kể từ số 11, Phong Hóa đã có số tiền 10.000 đồng của Nguyễn Văn Tiên Leung-Fat-Fa, nên Tự Lực văn đoàn mới quyết định đổi mới tờ Phong Hóa, theo cách tổ chức của Nhất Linh.

Nhưng Tự Lực văn đoàn lúc đó có những ai? Đã là một văn đoàn chưa? Dựa vào Những ngày vui, thì lúc đó "nhóm Tự Động" hay Tự Lực chỉ có Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí và Nhất Linh.

Phong Hóa số 12 (1-9-1932)
trình bày giống hệt như Phong Hóa số 11, bài quảng cáo cũng như thế, trên trang nhất.

Phong Hóa số 13 (8-9-1932), đăng bài quảng cáo mới, ở giữa trang nhất, "hoành tráng" và "nhà nghề" hơn, chắc đã có bàn tay Nhất Linh nhúng vào:

"Một cuộc hoán cải lớn lao trong báo Phong Hóa!
Một sự lạ trong làng báo!
Một cái mới!
Đến ngày thứ năm 22 Sept.1932
Báo Phong Hóa sẽ ra số mới 8 hay 12 trang (khổ nhật trình). Mỗi số 0p07 [7 xu]".
Bàn một cách vui vẻ về các vấn đề cần thiết; xã hội , chính trị, kinh tế
Nói rõ về hiện tượng trong nước.
Có 15 tranh vui, nhiều chuyện vui v.v..
Cần thiết…
Hoạt động…
Vui vẻ…
Mãi… Mãi…
Ai cần xem báo! Ai thích đọc báo!
Nên đọc Phong Hóa
Kính cáo độc giả:
Báo Phong Hóa tạm nghỉ một kỳ (15 Septembre) để có đủ thời giờ sửa soạn số ngày 22 Septembre".




Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Tlvd0119


Phong Hóa số 13


Vậy ta có thể tóm tắt lại tình hình như sau:

Phong Hóa từ số 1 đến số 10: Khái Hưng viết, báo có khổ nhỏ của tạp chí (24×33).

Phong Hóa số 11, đổi mới hình thức, khổ lớn như báo hàng ngày và đăng quảng cáo: báo Phong Hóa sẽ có cải cách lớn.

Phong Hóa số 12 và 13, rút gọn nội dung bài vở, để chuẩn bị cho số 14.

Phong Hóa số 14: tờ báo đã cải cách, do Tự Lực văn đoàn chủ trương, ra đời.

Từ số 20 trở đi, trở lại khổ tạp chí.

Nhưng vẫn còn câu hỏi: Tự Lực văn đoàn thành lập lúc nào mà "chủ trương" báo Phong Hóa số 14 như lời Nhất Linh và Hoàng Đạo tuyên bố trên Phong Hóa số 154? (Xem Sự thành lập Tự Lực văn đoàn, phần I). Có thể có hai câu trả lời:

1- Từ Phong Hóa số 1 đến Phong Hóa số 13.

2- Từ Phong Hóa số 10 đến Phong Hóa số 13.

Tôi chọn câu trả lời số 2, bởi vì, trên Phong Hóa từ số 1 đến số 10, chỉ có mình Khái Hưng viết. Đến Phong Hóa số 11, sự thay đổi rất rõ ràng. Vậy ta có thể coi là Nhất Linh đã "vào" Phong Hóa, trễ lắm là từ số 11; và nhờ tiền của Leung-Fat-Fa, ông mới có phương tiện tổ chức lại tờ báo, mời Tú Mỡ, gọi các em vào giúp, mượn thêm họa sĩ vẽ hý họa.

Như vậy, ta có thể "chính thức" nhìn nhận rằng:

Nhóm Tự Lực đã thành hình trong khoảng thời gian từ Phong Hóa số 11 (25-8-1932) đến Phong Hóa số 13 (8-9-1932), tức là những ngày cuối tháng tám đầu tháng chín năm 1932.

(còn tiếp)
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng   Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 I_icon13Wed 09 Jun 2021, 08:28

TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG

Thuỵ Khuê

Nguyễn Xuân Mai và Phạm Hữu Ninh

Đáng lẽ bài này kết thúc ở đây, nhưng chúng tôi vẫn cón muốn tìm hiểu thêm một vấn đề nữa: Nguyễn Xuân Mai là ai?

Cho đến nay, hầu như mọi người đều tin rằng Phong Hóa chỉ bắt đầu từ số 14, khi Nhất Linh làm giám đốc. Nhưng nếu đọc kỹ Phong Hóa từ những số đầu, thì mọi sự không hoàn toàn như thế: Phong Hóa là một tờ báo có sự quản trị liên tục, từ số 1 đến số 13, do Khái Hưng viết với những bút hiệu khác nhau; rồi từ số 14 trở đi, Nhất Linh mở rộng, đổi mới và làm Giám đốc, nhưng Ban quản trị không hề thay đổi: tên hai ông Phạm Hữu Ninh và Nguyễn Xuân Mai luôn luôn có trên đầu báo, từ số 14 (22-9-1932) đến số 126 (30-11- 1934). Vậy họ là ai?

Nếu Nhất Linh mua lại tờ Phong Hóa của ông Phạm Hữu Ninh, thì tại sao tên ông Ninh và ông Mai vẫn còn tồn tại trên mặt báo, sau số 14? Không những vai trò của Phạm Hữu Ninh không dừng ở Phong Hóa số 13, mà còn kéo dài nhiều năm sau. Vì từ số 14 (22-9-1932) trở đi, trên đầu báo, dưới tên Phong Hóa, luôn luôn có hàng chữ này:

"Fondateur Directeur politique [Sáng lập, Giám đốc chính trị] Nguyễn Xuân Mai, Directeur [Giám đốc] Nguyễn Tường Tam, Administrateur Gérant [Quản lý Trị sự] Phạm Hữu Ninh" Đến số 126 (30-11-1934), khi toà soạn dọn về 80 Quan Thánh, những dòng chữ này mới bỏ hẳn, chỉ giữ lại: Nguyễn Tường Tam Directeur.

Việc này dẫn đến hai câu hỏi:

- Một tờ báo có cần Giám đốc chính trị không?

- Phạm Hữu Ninh là hiệu trưởng trường Thăng Long, còn Nguyễn Xuân Mai là ai?

Trên bià Phong Hóa từ số 1 đến số 13, không thấy ghi tên Phạm Hữu Ninh, Nguyễn Xuân Mai trên đầu báo. Nhưng từ Phong Hóa số 2 (23-6-1932), ở trang cuối ghi hàng chữ nhỏ tiếng Pháp: Le Directeur Nguyễn Xuân Mai – Imprimerie Thụy Ký Hà Nội - Le gérant Phạm Hữu Ninh [Giám đốc Nguyễn Xuân Mai - Nhà in Thụy Ký Hà Nội - Quản lý Phạm Hữu Ninh].

Đây là lần đầu tiên tên hai ông xuất hiện, Nguyễn Xuân Mai được ghi là Giám đốc nhà in Thụy Ký, còn Phạm Hữu Ninh làm quản lý.

Phong Hóa số 11 (25-8-1932), nhà in đổi tên là Moderne, hai ông vẫn làm giám đốc và quản lý. Và đến Phong Hóa số 14, khi Nhất Linh làm Giám đốc, thì Nguyễn Xuân Mai trở thành nhà Sáng Lập và Giám đốc chính trị. Tại sao?

Tú Mỡ kể lại chuyện ra báo trong hồi ký như sau:

"Mãi đến khi anh Tam rủ tôi vào báo Tiếng Cười thì cá mới thực gặp nước; tôi mến phục anh Tam có con mắt tinh đời, biết người, biết của, nên vui sướng nhận lời cộng tác với anh. (…)

Chúng tôi đã sáng tác được nhiều cho báo Tiếng Cười. Nhưng vẫn chưa được giấy phép ra báo. Anh Tam có đi thăm dò tin tức, thì ở sở báo chí của phủ Thống sứ người ta bảo rằng: "còn xét!“ Một tháng, hai tháng, ba tháng, vẫn cứ "còn xét". Chúng tôi bảo nhau: cái kiểu kéo dài "còn xét" này, có nghiã là nó không muốn cho phép. Nhưng nó xỏ lá không muốn công khai từ chối vì không có lý do chính đáng"
[10]

Câu này sai, vì Nhất Linh viết trong bài Nói truyện cũ trên Phong Hóa số 154 (20-9-1935) rằng: "Tờ "Tiếng Cười" đó đã được giấy phép xuất bản của chính phủ, nhưng không thể ra đời được, vì một lẽ giản dị là không kịp thu xếp xong trước ngày hết hạn giấy phép". Và trong bài tiểu sử Nhất Linh do Nguyễn Ngu Í soạn năm 1966, cho biết thêm: Tiếng Cười không ra được vì không có tiền.

Điều này chứng tỏ Tú Mỡ không biết rõ chuyện báo Tiếng Cười, ông chỉ nghe kể lại, rồi bịa thêm câu: "sở báo chí phủ Thống sứ bảo: còn xét", được rất nhiều người chép lại.

Nhưng đoạn dưới đây, có một điều tin được:

"Anh Tam đâu có chịu bó tay. Anh xoay và đã xoay rất cừ. Bấy giờ, nhân dịp có tờ Phong Hóa của anh Phạm Hữu Ninh, quản trị, anh Nguyễn Xuân Mai, giám đốc chính trị, loại báo vô thưởng vô phạt, đang sống dở chết dở vì không ai buồn đọc, sắp sửa phải đình bản. Anh Tam đề nghị với hai anh nhượng lại tờ báo cho mình làm chủ bút, hai anh vẫn đứng tên quản trị và giám đốc chính trị làm vì, mỗi tháng lĩnh mấy chục bạc lương (tức là tiền cho thuê báo). Tất cả đều hỉ hả: anh Ninh và anh Mai trút được gánh nặng mà báo khỏi đình bản; anh Tam sẵn có tờ báo thay cho tờ Tiếng Cười, chắc là không đươc phép xuất bản"[11]

Điểm có thể tin được ở đây trong lời Tú Mỡ là: Nhất Linh chỉ "thuê" giấy phép làm báo, cho nên hai ông Ninh và Mai vẫn "chính thức" đứng tên. Việc này giải thích lý do tại sao trên đầu Phong Hóa số 14 lại ghi: Nguyễn Xuân Mai là người Sáng lập và Giám đốc chính trị; Nguyễn Tường Tam, Giám đốc và Phạm Hữu Ninh, Quản lý. Chỉ tới số 126, khi toà soạn đã dọn về 80 Quan Thánh, thì trên đầu báo mới bỏ hết tên ba người, nhưng tên Nguyễn Xuân Mai và Phạm Hữu Ninh, lại xuất hiện lại, trên báo thêm một thời gian nữa, đến Phong Hóa số 139 (8-3-1935) mới chấm dứt hẳn[12].

Cũng nên ghi thêm: kể từ Phong Hóa số 136 (15-2-1935) Nguyễn Tường Tam không có tên trên bảng quảng cáo các giáo sư cử nhân trường Thăng Long. Nhưng ông chỉ ngừng dạy một thời gian, vì đến năm 1937, trên báo Ngày Nay số 74 (29-8-1937), lại quảng cáo tên ông trong ban giáo sư nhà trường, như vậy ông còn dạy học trong niên khoá 1937-1938 nữa.

Phong Hóa Ngày Nay bị biển thủ

Nhà in, nhà xuất bản và tờ báo là ba cơ quan khác nhau. Báo Phong Hóa, từ số 1(6-6-1932) đến số 190 (5-6-1936) đã thay đổi tên nhà in nhiều lần, thoạt tiên là Thụy Ký, rồi Imprimerie Moderne (62 Hàng Bạc), Lê Văn Tân, Trung Bắc Tân Văn và Tân Dân[13]. Chắc chỉ đổi tên, chứ vẫn là một nhà in, vì ông Nguyễn Xuân Mai luôn luôn là Giám đốc và ông Phạm Hữu Ninh quản lý. Từ Phong Hóa số 134(30-1-1935) trở về sau mới chuyển sang Nguyễn Tường Tam quản lý nhà in Tân Dân đến số 190, số chót.

Còn báo Ngày Nay ra sau, lần lượt do Nguyễn Tường Cẩm (anh Nhất Linh), Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), Trần Khánh Giư (Khái Hưng) và Nguyễn Tường Lân (Thạch Lam) làm Giám đốc. Tên nhà in báo Ngày Nay cũng thay đổi từ Imprimerie d’Extrême Orient sang TBTV (Trung Bắc Tân Văn) rồi lại trở về với tên Thụy Ký[14], và "những nhà in" này đều do Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Tường Lân và Nguyễn Kim Hoàn (em rể Nhất Linh, chồng bà Nguyễn Thị Thế) thay phiên nhau quản lý.

Qua chuyện nhà in, bật ra mấy câu hỏi có tính cách xác định:

- Tên nhà in hai báo Phong Hóa Ngày Nay, tuy thay đổi nhiều lần, nhưng có phải vẫn chỉ là một nhà in Thụy Ký mà ông giám đốc là Nguyễn Xuân Mai hay không?

- Sau Phạm Hữu Ninh đến Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Tường Lân, Nguyễn Kim Hoàn kế tiếp nhau quản lý (các) nhà in. "Các" nhà in này tuy thay đổi tên nhưng cuối cùng vẫn trở về với tên đầu tiên Thụy Ký, trước khi "bán lại" cho Ngày Nay.

- Ngày Nay số 208 quảng cáo: "Ngày Nay ngày nay in nhà in nhà" và từ Ngày Nay số 209, báo đề in ở Imprimerie spéciale de la Revue Ngày Nay. Vậy báo Ngày Nay chỉ có nhà in riêng bắt đầu từ số 208, và nhà in này cũng tên là Ngày Nay.

- Tại sao một tờ báo lớn như Ngày Nay và một nhà xuất bản lớn như Đời Nay lại chỉ có nhà in riêng khá chậm như vậy?

- Bởi vì Tự Lực văn đoàn bị một người biển thủ. Việc này bà Nguyễn Thị Thế có nói đến trong hồi ký: "Các anh mải mê sáng tác, soạn bài vở nên giao việc trông nom ấn loát và quảng cáo cho một người bạn vì quá tin nên không kiểm soát gì cả. Trong hai năm ông ta thụt két mất một số tiền lớn; sau này có người mách các anh soát lại sổ sách mới rõ, thật là chua cay"[15] Nhưng bà không nói rõ ai thụt két và trong thời gian nào. Khi rà lại Phong HóaNgày Nay để tìm dấu vết vụ này, chúng tôi thấy rằng:

Kể từ Phong Hóa số 140 (15-3-1935), ông Nguyễn Văn Thức làm Quản lý báo Phong HóaNgày Nay, tên ông được đề liên tục trên đầu báo, trong hai năm rưỡi.

Bỗng nhiên, đến Ngày Nay số 74 (29-8-1937), dưới bài diễn văn của Nhất Linh Ý nghiã xã hội của Ánh Sáng, trên một cột nhỏ, phải chú ý mới thấy, có in mấy dòng Cùng các độc giả Ngày Nay và những nhà đăng quảng cáo, dưới dạng bố cáo như sau:

"Ông Nguyễn Văn Thức, người thủ khố (Caissier comptable) của báo Ngày Nay bỗng dưng bỏ việc mấy hôm nay không đến tòa báo. Vậy chúng tôi không coi ông ấy là người làm công của chúng tôi nữa. Tiền nong, thư từ về việc quảng cáo, xin các bạn gửi cho ông TRẦN TIÊU, 80 Grand Bouddha, Hà Nội".

Vậy, Trần Tiêu, em ruột Khái Hưng đã thay Nguyễn Văn Thức làm quản lý báo Ngày Nay (Nguyễn Thị Thế ghi Hoàng Đạo) trong một thời gian, sau đó Nguyễn Trọng Trạc lên thay thế, rồi sau báo Ngày Nay không đề tên Giám đốc, Quản lý nữa. Kể từ Ngày Nay số 166 (17-6-1939) ông Nguyễn Kim Hoàn, làm quản lý nhà in Thụy Ký đến số báo chót.

Vì vụ biển thủ này, cho nên báo Ngày Nay không có tiền để lập nhà in riêng và nhà xuất bản Đời Nay cũng bị khó khăn theo, cho nên mãi đến năm 1940, tức là tới lúc các thành viên chính đã phải trốn tránh và Tự Lực văn đoàn bắt đầu tan rã, thì Ngày Nay số 209 (25-5-1940), mới in được ở nhà in riêng, và quảng cáo trên báo câu đối: Ngày Nay ngày nay in nhà in nhà.

Tại sao ông Nguyễn Xuân Mai lại là người sáng lập Phong Hóa?

Câu hỏi: ông Nguyễn Xuân Mai, Giám đốc Sáng lập và Giám đốc Chính trị tờ Phong Hóa, là ai? Vẫn chưa trả lời được. Đọc lời chia buồn của Phong Hóa khi được tin cụ Thượng Đính mất, tôi được biết một thông tin quý giá giúp tôi giải mã câu hỏi này.

Bản Tin buồn đăng trên Phong Hóa số 183 (17-4-1936), bắt đầu như sau:

"Bản báo được tin cụ Lê Vân Đính, Tuần phủ chí sĩ, thân phụ ông Lê Vân Nham, nhạc phụ ông Thụy Ký và ông Trần Khánh Giư đã mệnh chung ở Dịch Diệp (Nam Định) ngày 7 tháng tư…"

Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Tlvd0210

Nhờ mấy dòng này mà ta biết ông Thụy Ký là người anh đồng hao của Khái Hưng.

Vì vậy, chúng tôi tạm đưa ra giả thuyết: tờ Phong Hóa, được ông Thụy Ký (Nguyễn Xuân Mai), không những giúp đỡ Khái Hưng in báo từ số 1, mà khi Nhất Linh mở rộng tờ báo, từ số 14, ông Thụy Ký Nguyễn Xuân Mai còn bao che cả việc chính trị (vì ông có thế lực?), cho nên trên đầu tờ Phong Hóa, từ số 14, luôn luôn đề Nguyễn Xuân Mai, Giám đốc Sáng lập và Giám đốc Chính trị. Như thế, công của ông trong việc xây dựng tờ Phong Hóa thực không nhỏ, và ông quả là người Sáng lập ra tờ báo.

Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Tlvd0211

Fondateur Directeur Politique Nguyễn Xuân Mai

Nhà in Thụy Ký, trong suốt 8 năm, do ông Nguyễn Xuân Mai làm chủ, ban đầu mượn ông Phạm Hữu Ninh, tiếp đến anh em Nguyễn Tường làm quản lý và chỉ đến bốn tháng cuối cùng, Tự Lực văn đoàn mới mua được nhà in mới (hay mua lại nhà in Thụy Ký) để có nhà in riêng, tức là nhà in Ngày Nay, in báo Ngày Nay từ số 209 (25-5-1940), đến 224 (7-9-1940) là số chót. Nhưng năm 1940, Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo và Nguyễn Gia Trí đã tham gia cách mạng rồi.

Tóm lại, sau những khảo sát đầu tiên, chúng tôi xin tạm kết luận:

Báo Phong Hoá (số 1, ra ngày 6-6-1932) do Nguyễn Xuân Mai, giám đốc nhà xuất bản Thụy Ký sáng lập và in ấn; Trần Khánh Giư và Nguyễn Gia Trí chủ trương; Trần Khánh Giư đặt tên là Phong Hoá và viết hầu như toàn diện bài vở từ số 1 đến số 13 (8-9-1932). Tên Tự Lực cũng đã có trong thời kỳ này.

Kể từ Phong Hoá số 11, nhờ số tiền 10.000 đồng của Nguyễn Văn Tiên Leung-Fat-Fa di tặng, mới có quyết định mở rộng và đổi mới theo kế hoạch của Nguyễn Tường Tam.

Tự Lực văn đoàn đã thành hình trong khoảng thời gian từ Phong Hóa số 11 (25-8-32) đến Phong Hóa số 13 (8-9-32), tức là những ngày cuối tháng tám đầu tháng chín năm 1932, để chuẩn bị cho số báo 14 (22-9- 1932) là số báo chính thức của văn đoàn.

(Còn tiếp)

Thụy Khuê

______________________

[1] Những ngày vui, bản Phượng Giang, 1958, trang 101-102.

[2] Những ngày vui, bản Phượng Giang, trang 105.

[3] Những ngày vui, trang 108.

[4] Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập III, Anh Phương Sài Gòn, 1965, Đại Nam Hoa Kỳ, in lại, trang 432.

[5] Thanh Lãng, Bảng lược đồ văn học Việt Nam, quyển hạ, Ba thế hệ của nền văn học mới (1862-1945) NxbTrình Bầy, 1967, trang 609.

[6] Khổ tạp chí, 16 trang, giá 10 xu, chưa có bìa. Khung in Giá báo, đề: Ngân phiếu và thư tín xin gửi: M. Phạm Hữu Ninh, Quản lý Phong Hóa Tuần Báo, số 1 đường Carnot Hà Nội.

[7] Mục Hài văn ký tên Quần Đệ Tử từ số 1 tới số 7; số 8 ký Bán Than; số 9 ký Bi Thời Khách. Từ số 10, đổi tên thành Nụ Cười, vẫn do Khái Hưng viết, ký tên Lão Ôn; số 11 và 12 ký tên Nhà Nho; số 13 ký tên Ba Phải. Đặc biệt số 6, có bài thơ phỏng cổ Chinh Phụ Ngâm: Lời than của chị em dưới sóm [xóm] của Quần Đệ Tử, rất hay.

[8] Bìa này giữ đến số 10. Dưới tranh bìa, đề hàng chữ to: Toà soạn và trị sự số 1, Đường Carnot [nay là Phan Đinh Phùng] Hà Nội. Giá bán 10 xu. Ở tận cùng trang cuối, ghi hàng chữ nhỏ: Le directeur Nguyễn Xuân Mai- Imprimerie Thụy Ký Hà Nội- Le gérant: Phạm Hữu Ninh.

[9] Tướng Trần Khánh Dư ngày trước có lúc bị biếm phải làm nghề bán than.

[10] Trong bếp núc của Tự Lực văn đoàn, hồi ký của Tú Mỡ, Tạp chí Văn Học, Hà Nội, số 5-6 năm 1988 và số 1 năm 1989, in lại trong cuốn Tự Lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc, Mai Hương tuyển chọn và biên soạn, Nxb Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, 2000, trang 125-158).

[11] Tú Mỡ, Trong bếp núc của Tự Lực Văn Đoàn, sách dã dẫn.

[12] Kể từ Phong Hóa số 127 (7-12-34) tên Nguyễn Xuân Mai và Phạm Hữu Ninh không còn trên đầu báo, nhưng cuối báo vẫn đề tên ông Phạm Hữu Ninh quản lý nhà in Tân Dân, tới số 134 (30-1-1935). Từ số 135 (8-2-1935) nhà in Tân Dân do Nguyễn Tường Tam quản lý. Đến số 137 (22-2-35) và số 138 (1-3-1935), lại thấy tên ông Nguyễn Xuân Mai xuất hiện trên đầu báo, với danh nghiã: Sáng lập. Tới Phong Hóa số 139 (8-3-1935) mới bỏ hẳn tên hai ông Nguyễn Xuân Mai và Phạm Hữu Ninh.

[13] Nhà in Thụy Ký, do ông Phạm Hữu Ninh quản lý, đổi tên là Imprimerie Moderne 62 Hàng Bạc kể từ Phong Hóa số 11 (25-8-1932). Tiếp đó, sẽ có những tên: Lê Cường, (do Nguyễn Tường Tam quản lý, in Phong Hóa số 14) nhưng từ số 15, lại trở về tên Moderne, rồi trở thành: Lê Văn Tân, Trung Bắc Tân Văn và Tân Dân, đều do ông Phạm Hữu Ninh quản lý. Đến Phong Hóa 134 (30-1-1935), nhà in Tân Dân mới do Nguyễn Tường Tam quản lý.

[14] Ngày Nay số 1 (30-1-1935) in ở Imprimerie d’Extrême-Orient, do Nguyễn Tường Cẩm làm Giám đốc báo và Quản lý cả nhà in. Được năm số thì ông Cẩm nghỉ. Nguyễn Tường Tam thay thế. Ngày Nay số 26 (20-9-1936) nhà in có tên là TBTV (Trung Bắc Tân Văn), số 27 (27-9-1936) lấy lại tên Thụy Ký, rồi từ số 31 (25-10-1936), lại đổi tên TBTV, đến số 38 (13-12-1936), trở về tên Thụy Ký, vẫn do Nguyễn Tường Tam làm Quản lý. Tới Ngày Nay số 68 (18-7-1937), Nguyễn Tường Lân (Thạch Lam) lên làm Giám đốc tờ báo, đồng thời Quản lý nhà in Thụy Ký cho tới số 165 (10-6-1939). Từ Ngày Nay số 166 (17-6-1939), không đề tên giám đốc tờ báo nữa, chỉ còn tên Nguyễn Kim Hoàn (chồng bà Nguyễn Thị Thế, em gái Nhất Linh) làm quản lý nhà in Thụy Ký cho tới số 208 (18-5-1940). Và từ Ngày Nay số 209, báo đề in ở Imprimerie spéciale de la Revue Ngày Nay, tức là nhà in riêng của Ngày Nay cho tới số cuối cùng 224, vẫn do ông Nguyễn Kim Hoàn quản lý.

[15] Hồi ký Nguyễn Thị Thế, bản Văn Hóa Ngày Nay, 1996, Hoa Kỳ, trang 120.
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng   Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 I_icon13Thu 10 Jun 2021, 10:28

TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG

Thuỵ Khuê

Nhất Linh và Phong Hóa


Phong Hóa số 14, ra ngày 22-9-1932, được coi là tờ báo đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn. Tuy nhiên sự thay đổi, như ta đã thấy trong chương Khái Hưng và Phong Hóa, bắt đầu từ trước.

Ngay từ số 11 (25-8- 32), Phong Hóa đã đổi dạng từ tạp chí sang nhật trình, theo kiểu Phong Hóa số 14 (22-9-32): Bỏ tranh bià, in 4 trang lớn, giá 8 xu. Trang nhất đăng bài quảng cáo sau đây:

Một sự cải cách lớn của báo Phong Hóa

Phong Hóa tuần báo tạm ra 4 trang giá bán 0p.03 [3 xu][1] để đủ thời giờ dự định một cuộc hoán cải rất lớn lao.
Vài tuần nữa tờ báo Phong Hóa sẽ được vừa lòng độc giả về hết các phương diện văn chương, mỹ thuật, tư tưởng.
Xin độc giả vững tâm chờ đợi. Phong Hóa tuần báo sẽ không phụ tấm lòng yêu mến của độc giả.


Tiếp tục quảng cáo như thế trên số 12 (1-9-1932). Số 13 (8-9-1932), in thêm khẩu hiệu: Một cuộc hoán cải lớn lao trong báo Phong Hóa! Một sự lạ trong làng báo! Một cái mới!

Và có lời Kính cáo độc giả: Báo Phong Hóa tạm nghỉ một kỳ (15-9) để có đủ thời giờ sửa soạn số ngày 22 Septembre.


Ngày 22-9-1932, Phong Hóa số 14 ra đời.

Chấm dứt thời kỳ độc diễn của Khái Hưng. Nhất Linh xuất hiện với nhiều ngòi bút mới. Ê-kíp làm việc trong một tháng để hoàn thành số ra mắt.

Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Tlvd0212

Trang đầu Phong Hóa số 14

Những thành viên của Tự Lực Văn Đoàn đều có mặt trên số 14 này: Nhất Linh, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí, Hoàng Đạo, Thạch Lam và Tú Mỡ, trừ Thế Lữ, đến sau.

Từ số 14 (22-9-1932) đến số 20 (4-11-1932), trong hai tháng, qua 8 số báo hàng tuần, Phong Hóa đã, từng bước, từng bước, dấn thân vào việc cải tiến xã hội, chối bỏ cái cũ, cái hủ lậu để bước vào thời đại mới, xây dựng nền văn chương quốc ngữ, hiện đại hóa tiểu thuyết ở miền Bắc, mà Hồn bướm mơ tiên là tác phẩm khởi đầu.

Sự đổi mới của Phong Hóa

Phong Hóa số 14, khổ nhật trình, 8 trang, giá 7 xu[2]. Trang nhất, trên đầu báo đề hai địa chỉ: Toà soạn: 25 Boulevard Henri d’Orléans [nay là Phùng Hưng] và Trị sự: 1 Boulevard Carnot; cùng với tên ba người: Fondateur Directeur politique: Nguyễn Xuân Mai. Directeur: Nguyễn Tường Tam. Administrateur gérant: Phạm Hữu Ninh. (Sáng lập và Giám đốc chính trị: Nguyễn Xuân Mai. Giám đốc: Nguyễn Tường Tam. Quản lý Trị sự: Phạm Hữu Ninh).

Nguyễn Tường Tam đổi mới tờ báo từ hình thức đến nội dung: phong phú, hấp dẫn, nhiều hý họa và minh họa. Ông đã thực hiện được ý định muốn có một tờ báo như tờ Le Rire (Tiếng Cười) của Pháp[3].

Nguyễn Tường Tam có hai em hậu thuẫn: Nguyễn Tường Long, làm tham tá lục sự ở trong Nam, ra Bắc, xuất hiện trên số 14, ký tên Tứ Ly và Tòng Lương [Tường Long nói lái], Thạch Lam, con thứ sáu trong gia đình Nguyễn Tường, góp mặt trên số đầu với một truyện rất ngắn, ký tên TL [Tường Lân viết tắt]. Tú Mỡ, quen Nhất Linh vì làm cùng sở tài chính từ cuối năm 1923, được mời phụ trách mục thơ trào phúng trên báo cùng với Bán Than (Khái Hưng).

Từ trước đến nay, người ta vẫn tưởng: Nhất Linh mua lại tờ Phong Hóa của Phạm Hữu Ninh, và có sự gián đoạn lớn giữa tờ báo của ông Ninh và tờ Phong Hóa. Nhưng không phải vậy, Phong Hóa từ số 1 đến số 14 là sự liên tục về mặt quản trị và biên tập, như chúng tôi đã trình bày trong những chương trước: hai hạt nhân đầu của Tự Lực Văn Đoàn là Khái Hưng và Nguyễn Gia Trí, làm Phong Hóa với sự trợ giúp phương tiện của hai ông Nguyễn Xuân Mai và Phạm Hữu Ninh. Khi nhận được tiền di tặng của Leung-Fat-Fa Nguyễn Văn Tiên, từ số 11, Phong Hóa mới thông báo cùng độc giả dự định đổi mới, qua hai số chuyển tiếp 12 và 13, Phong Hóa hoàn toàn đổi mới từ số 14.

Nhất Linh tổ chức lại tờ báo, phát triển những mục mà Khái Hưng đã tạo ra từ số 1, mời thêm người viết, mở rộng những mục cũ, tạo mục mới, xác định đường hướng của tờ báo, dùng hý họa và văn chương tấn công vào thành trì cổ hủ và lạc hậu của đạo Nho và sự thối nát của guồng máy thuộc địa. Sau khi Phong Hóa bị đóng cửa ở số 190, Hoàng Đạo và Nguyễn Gia Trí mở thêm mặt trận tranh đấu chính trị: đòi hỏi tự do dân chủ, trên báo Ngày Nay, kể từ số 16 (12-7-1936).

Nhất Linh cải tiến Phong Hóa

Nhất Linh cải tiến Phong Hóa bằng cách: Phát triển những mục cũ do Khái Hưng đặt ra và thêm vào những mục mới:

– Bài xã luận có từ số 1, luôn luôn ký trên Trần Khánh Giư. Đó là bài chính, dài, ở trang đầu, dùng nhiều thể loại khác nhau, chủ đề khác nhau, coi như văn bản “chỉ đạo” của chủ bút; từ số 11, bài xã luận này được thu gọn lại, in ở cột báo đầu cùng, bên trái.

Từ số 14 trở đi, trở thành bài viết ngắn, in nghiêng, mục đích cổ vũ hay giải thích chủ trương, chủ đề của số báo, do Nhị Linh (Khái Hưng), Nhất Linh, và Tứ Ly (Hoàng Đạo) phụ trách.

– Mục Thực hay hư, có từ số 2, chưa ký tên. Từ số 3 trở đi ký những tên khác nhau của Khái Hưng, như Nghịch Nhĩ Đào Đình Dù, Sào Phủ, Hứa Do, Tô Tô Phôn[4].

Đến số 14, Nhất Linh chia mục này thành ba mục: Từ nhỏ đến lớn (nói về việc), Từ cao đến thấp (nói về người) (sau sẽ chập làm một, lấy tên Người và Việc) và Bàn ngang (nói ngược). Ba mục này giao cho Tứ Ly (Hoàng Đạo) phụ trách.

– Mục Tin nước Nam và thế giới có từ số 1, không ký tên. Đến số 14 đổi thành Những việc chính cần biết trong tuần lễ này, số đầu do Thiện Căn viết, đây là bút hiệu của Hoàng Tích Chu. Sở dĩ Nhất Linh, Khái Hưng mời Hoàng Tích Chu bởi vì ông là một trong những nhà báo tân tiến đầu tiên của Việt Nam, đã đi Pháp hai lần, học nghề báo, trước Nhất Linh. Với chủ trương thay đổi văn chương quốc ngữ, Phong Hóa cần Hoàng Tích Chu. Chẳng may Hoàng Tích Chu mất sớm (25-1-1933) ở tuổi 36, nên ông chỉ viết cho Phong Hóa có hai vở kịch và một bài phóng sự, nhưng ông đã để lại dấu ấn sâu đậm. Chúng tôi sẽ trở lại với Hoàng Tích Chu trong một chương sau.

– Mục Hài văn có từ PH số 1, do Khái Hưng viết, ký Quần Đệ Tử từ số 1 tới số 7; số 8 ký Bán Than; số 9 ký Bi Thời Khách. Từ số 10, đổi tên thành Nụ Cười, vẫn do Khái Hưng viết, ký tên Lão Ôn; số 11 và 12 ký tên Nhà Nho; số 13 ký tên Ba Phải. Đặc biệt trong số 6, có bài thơ phỏng Chinh Phụ Ngâm: Lời than của chị em dưới sóm [xóm] của Quần Đệ Tử, rất hay.

Từ số 14, mục Hài văn đổi thành Vui… Cười… do nhiều người viết, đôi khi cả độc giả cũng tham dự.

– Mục Khoa học có từ số 1.

– Mục Văn đàn có từ số 1 do Khái Hưng viết dưới những bút hiệu khác nhau, như: Phong Hóa, Đào Thiện Ngôn, Kỳ Hoa, Thảo Thượng Phong, Ngô Đình Chiên, Trần Lang và TKH (Trần Khái Hưng), chuyên dịch thơ, dịch văn và sáng tác.

Kể từ số 14, Văn đàn đổi thành Văn học, vẫn do Khái Hưng phụ trách dưới bút hiệu Văn Lực.

Ngoài ra, Nhất Linh đưa thêm vào hai mục mới:

Giòng nước ngược, thơ trào phúng, do Tú Mỡ phụ trách, thỉnh thoảng có thơ của Bán Than (Khái Hưng).

– Mục Những hạt đậu dọn, do Nhát Giao [Dao] Cạo (Khái Hưng) nhặt sạn chữ nghiã trên các báo khác.

Phong Hóa số 14 có những bài sau đây:

Xã luận
: Biết dân quê… của Nguyễn Đông Sơn (Nhất Linh), nội dung bênh vực dân quê. Mục Văn Học có bài tiểu luận bàn về thi ca, tựa đề Thơ của Văn Lực (Khái Hưng). Mục Khoa học có bài Giống tôm ở nhờ của Văn Ký. Mục Những việc chính cần biết trong tuần lễ này của Thiện Căn (Hoàng Tích Chu).

Phần hý họa gồm có: Tranh Người An Nam mình kinh doanh của Đông Sơn. Tranh Mồm mép hàng giầy của Tô, với nhân vật hình dạng giống Lý Toét, nhưng chưa đề tên. Tranh Giậy khôn của Nal, [có khi ký Nul (Số Không) hay Tú Nuy (tạm dịch là Truổng Cời)]. Tranh Nhà giáo quen tay của Tứ Ly. Ba tranh Trong vườn bách thú, Một ngài nhãng trí, Hai ngài nhãng trí, và tranh minh họa truyện ngắn Kong-Ko Đai-Jin của Khái Hưng đều ký tên Mac. Truyện hài hước bằng tranh Ông Hàn đi sănÔng Hàn kể truyện, không ký tên. Tranh Ông Nguyễn Khắc Hiếu với việc đời, của Tứ Ly giễu Tản Đà say rượu, đi kèm với bài thơ: Trời đầy Nguyễn Khắc Hiếu của Bán Than.

Phần sáng tác gồm có: Truyện ngắn Nùng Chi Lan của Tòng Lương (Tường Long nói lái). Mục Văn vui có truyện Lệ Hồng quyên sinh của T.L (Tường Lân). Truyện ngắn Kong-Ko Đai-Jin của Trần Khánh Giư (Khái Hưng). Truyện trinh thám: Giết chồng… báo thù chồng của Ngô Tâm Tư (Nhất Linh). Mục Giòng nước ngược với ba bài thơ Tự thuật, Kiệu bay, Thi lấy được của Tú Mỡ và bài Phụ nữ với quần vợt của Bán Than.

Phong Hóa 14 là số ra mắt, Tự Lực Văn Đoàn muốn “phô trương lực lượng” với số tranh hài hước kỷ lục, bài viết phong phú, chủ đích giới thiệu các ngòi bút mới và trình bầy hai yếu tố hài hước và văn chương như cốt lõi của tờ báo.

Phong Hóa số 15 (29-9-1932), có chủ đề đả phá sự sầu thảm với ba sự kiện đáng chú ý:

– Lần đầu tiên Trần Khánh Giư ký T. Khái Hưng. Nguyễn Tường Tam vẫn ký Ngô Tâm Tư.

– Lần đầu tiên có tên Việt Sinh, bút hiệu của Thạch Lam trên Phong Hóa.

– Lần đầu tiên có hình Lý Toét trên báo, ở đầu mục Vui Cười, ký DS (Đông Sơn).

Bài xã luận: Sầu thảm nhiều rồi của Việt Sinh, công kích lối văn lâm ly đẫm nước mắt đang thịnh hành thời đó, như Tuyết Hồng lệ sử, Tố Tâm, v.v… Tranh hài hước Một đám ma vui, trên trang nhất, của Đông Sơn, đưa tiễn những tác phẩm sầu thảm, hậu thuẫn cho bài của Việt Sinh. Tứ Ly trong mục Từ cao đến thấp chế giễu chuyện cô gái Bắc Ninh lên Hà Nội tự tử, Bán Than phụ họa với bài thơ Nước Hồ Gươm trong Giòng nước ngược châm biếm chuyện tự hủy mình. Khi một “chủ đề” được đưa ra, ở đây là “văn chương sầu thảm” và bị “đánh hội đồng” như thế thì “khổ chủ” khó ngóc đầu lên được, đó là chiến thuật của Nhất Linh trên Phong Hóa: một khi đề đã ra rồi, anh em mặc sức tấn công bằng tranh và lời.

Phần sáng tác có truyện ngắn Tiếng chó sủa của Ngô Tâm Tư, chuyện hai vợ chồng đào của, lối viết còn khá thô sơ. Truyện ngắn Đi Nam Kỳ của T.K.G. (Khái Hưng) do Tứ Ly minh họa, cũng chưa có gì mới. Nhưng truyện ngắn Cái thù ba mươi năm, của T. Khái Hưng, bút hiệu này lần đầu tiên ra mắt độc giả, đã xác định một phong cách truyện ngắn có cấu trúc chặt chẽ, ngôn ngữ điêu luyện.

Phong Hóa số 16 (6-10-1932): Bút hiệu Nhất Linh xuất hiện lần đầu, dưới bài tiểu luận Nam nữ bình quyền và bài thơ Điệu thơ cụt. Nhưng truyện ngắn vẫn ký Ngô Tâm Tư.

Trong số này có bài xã luận Tinh thần khủng hoảng của Tòng Lương (Tường Long) nói về vấn đề thanh niên bị khủng hoảng tinh thần vì muốn bỏ cái cũ mà chưa thu thập được cái mới.

Bài tiểu luận Nam nữ bình quyền của Nhất Linh, nhìn cái tựa, ta tưởng Nhất Linh bênh vực phụ nữ, hóa ra không. Theo ông, người chồng (hống hách), thật ra chỉ là Giám quốc bù nhìn. Chị em mới thực nắm chức Thủ tướng, ông viết: “bọn đàn ông có quyền bao nhiêu cũng vẫn chưa đủ đàn áp được cái thân liễu yếu, chỉ nhờ cái “yếu” ấy mà sức mạnh vô song”. Có thể do kinh nghiệm gia đình chăng? Mẹ và vợ ông đều là những “thủ tướng”. Nhưng không phải gia đình nào người đàn bà cũng làm thủ tướng! Bài này đi đôi với hý họa Nam nữ bình quyền, vẽ người đàn ông đánh phấn, không ký tên, chắc cũng của Nhất Linh.

Truyện ngắn Cái hoa chanh của Ngô Tâm Tư hay hơn truyện Tiếng chó sủa trong số 15.

Và truyện ngắn Sóng gió Đồ Sơn của T. Khái Hưng đã thấp thoáng không khí lãng mạn Tự Lực Văn Đoàn.

Cũng trên Phong Hóa số 16, lần đầu Nguyễn Tường Cẩm, anh Nhất Linh, viết bài Thomas Bata, nhà đóng giầy trứ danh mới từ trần.

Phong Hóa số 17 (13-10-1932) có tranh Đồng tử quân của Đông Sơn, vẽ một đội quân đồng tử (cùng chết) cầm ống thuốc phiện thay súng xông trận cảm tử. Có truyện ngắn Tiếng gọi cõi âm của Ngô Tâm Tư, do Cô Tô minh họa và truyện ngắn Cái thống đời Tống của T. Khái Hưng do Tứ Ly minh họa.

Đặc biệt là bài Để còn hỏi ông nghè Nguyễn Mạnh Tường của Văn Lực (Khái Hưng), tác giả hỏi ý kiến ông tiến sĩ văn chương về việc đổi mới văn chương quốc ngữ, có nên lấy chữ Hán hay chữ Pháp làm mẫu, theo lối Ronsard, thế Kỷ XVI, đã cải cách thi ca Pháp, và Corneille, Racine, Molière, thế Kỷ XVII, chấn chỉnh bi kịch và hài kịch, đều lấy văn Hy La làm mẫu không?

Phong Hóa số 18 (20-10-1932) có truyện Tình tuyệt vọng của Khái Hưng do Tứ Ly minh họa, và bài thơ Tình tuyệt vọng Khái Hưng dịch Arvers. Với bài thơ này, Khái Hưng đã nổi tiếng trên văn đàn, trong nhiều thập niên, vì tính cách lạng mạn “mới” không than khóc, phù hợp với tâm trạng thanh niên nam nữ lúc bấy giờ.

Đặc biệt có bài Trường Mỹ thuật Đông Pháp, không ký tên, nhưng chắc của Nhất Linh. Bài này cho biết nhiều nét về trường Mỹ Thuật Đông Dương trong những ngày đầu, mà chỉ Nhất Linh, đã từng học qua, mới có thể viết được. Đây là bài đầu tiên viết về trường Mỹ thuật trên Phong Hóa. Chúng tôi sẽ trở lại với trường Mỹ thuật Đông Dương, trong một chương khác.

Bài Bàn về quốc văn của Nguyễn Mạnh Tường trả lời bài Văn Lực đã đăng trong số 17, có nhiều ý kiến rất hay, chúng tôi cũng sẽ trở lại với Nguyễn Mạnh Tường trong một kỳ tới.

Trong số 18 này, lần đầu tiên có truyện ngắn Cái bánh ngọt của Trần Tiêu, em ruột Khái Hưng, và cũng là lần đầu tiên có tranh của Trần Quang Trân, ký Ngạc Mai.

Phong Hóa số 19 (27-10-32), có bài xã luận Tiếng cười của Nguyễn Tường Cẩm, anh ruột Nhất Linh, là bài viết thứ hai của ông, rồi ngừng. Có tranh Ấy họ đá… nhau, chế giễu cảnh đá banh của Tứ Ly. Ba Ếch xuất hiện lần đầu trong truyện Ba Ếch đi xe hoả. Có truyện ngắn Ada Kwaben của Khái Hưng, vở hài kịch D.P.T.M.N.T.U.T.A.H.T.T.H. hay là hội Ausecourfem của H.T.C. (Hoàng Tích Chu), cùng bài Nguyễn Mạnh Tường trả lời Văn Lực (Khái Hưng).

Phong Hóa số 20 (4-11-1932), tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên xuất hiện lần đầu trên Phong Hóa, mở một kỷ nguyên mới: Tự Lực Văn Đoàn đã hoàn tất giai đoạn hình thành để bước sang giai đoạn phát triển. Từ nay Phong Hóa trở thành tờ báo lớn nhất đất Bắc, có ảnh hưởng không nhỏ đến phong cách văn chương và sự đổi mới xã hội ở trong nước.

(còn tiếp)
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng   Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 I_icon13Fri 11 Jun 2021, 10:23

TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG

Thuỵ Khuê

Những họa sĩ vẽ tranh hài hước

Về tranh, từ Phong Hóa số 4 đến số 12, ngoài vài tranh không ký tên, số nào cũng có tranh ký tên H.bat. Rồi từ số 13 trở đi, xuất hiện nhiều tên khác. Phải chăng tất cả những tranh đó đều của Nguyễn Gia Trí?

Tuy nhiên, Phong Hóa có tranh bìa ký tên Đông Sơn chữ Hán từ số 2 và số 3, có một hý họa ký tên Đông Sơn chữ quốc ngữ, mà trên nguyên tắc, lúc đó Nhất Linh chưa “vào”, vậy ai vẽ? Nguyễn Gia Trí hay Nhất Linh? Nếu là tên chung của hai người thì lúc nào trở thành tên riêng của Nhất Linh?

Phong Hóa số 14, trên trang nhất, có hý họa “Người An Nam mình kinh doanh” ký tên Đông Sơn, vẽ một chiếc xe hàng khốn khổ, chất lèn hành khách và hàng hóa đồ đạc lên tới mui xe. Tranh này được coi là của Nhất Linh.

Khi làm Phong Hóa, ban đầu chắc Nhất Linh chỉ có chủ đích dùng tranh hài hước để giải trí và thu hút độc giả, chế giễu những cái cổ hủ của nhà nho, những cái lỗi thời trong phong tục (chủ trương này bị nhiều người hiểu lầm và đánh giá sai). Nhưng dần dần, tranh và văn hài sẽ chuyển sang chống chế độ quan trường thối nát. Trên Phong Hóa số 150 (24-5-1935) Tứ Ly trong mục “Những cuộc điều tra phỏng vấn không tiền khoáng hậu- Đi xem mũ cánh chuồn, đã phỏng vấn giả tưởng Tổng đốc Vi Văn Định, sau đó bị đóng cửa ba tháng. Từ đó, tranh biếm họa trên Phong Hóa thẳng thừng ra mặt chống thực dân mà Nguyễn Gia Trí là “thủ phạm” chính.

Nguyễn Cát Tường là người vào Phong Hóa rất sớm, đã vẽ trên Phong Hóa từ số 13 (8-9-1932), ký tên A.S. Lemur[5] có thể vì còn là học trò, không được quyền vẽ báo và ký tên như một họa sĩ chuyên nghiệp. Sự kiện này giải thích tại sao Nguyễn Gia Trí trong thời gian từ 1932 đến 1936, thường vẽ tranh không ký tên, hoặc ký tên lung tung, không giữ tên nào rõ ràng và lâu dài. Nguyễn Cát Tường chỉ trở lại Phong Hóa từ số 27 (23-12-1932).

Bắt đầu từ Phong Hóa số 18 (20-10-1932), có tranh của Trần Quang Trân ký Ngym.

Tiếp đến các họa sĩ Trần Bình Lộc, Nguyễn Tường Lân (hoạ sĩ, trùng tên với Thạch Lam), Trần Văn Cẩn, Lưu Văn Sìn, v.v…

Trên số 1, Khái Hưng chưa chủ trương đem tranh hài hước vào Phong Hóa. Phải đến khi Nhất Linh xuất hiện, hý họa mới thực sự trở thành phong cách thể hiện đời sống, phê bình xã hội và lôi cuốn độc giả. Từ số 14 đến số 20, Nhất Linh, Nguyễn Gia Trí, và Tứ Ly là ba họa sĩ chính đảm nhiệm các bức hý họa và minh họa trên Phong Hóa, tạo thành một “lực lượng” chống phá thành trì cổ hủ, phụ họa với ba ngòi bút châm biếm và hài hước: Tứ Ly, Tú Mỡ và Bán Than (Khái Hưng).

“Lực lượng” này đã được Thạch Lam thống kê trên Phong Hóa 154 (20-9-1935), số kỷ niệm ba năm Phong Hóa như sau: Từ số 14 đến số 154, Phong Hóa ra được 139 số báo, 2224 trang; với 1.390 tranh hoạt kê; 832 tranh minh họa; tổng cộng 2224 tranh.

Tại sao Phong Hóa lại có thể “sản xuất” ra một lượng tranh hùng hậu như thế? Là do thế này: Giám đốc Phong Hóa Nguyễn Tường Tam, học trường Mỹ Thuật Đông Dương khoá đầu (1925) cùng với: Nam Sơn, Lê Phổ, Nguyễn Phan Chánh, Mai Thứ, Lê Văn Đệ… được hơn một năm thì bỏ; nhưng ông vẫn được coi là họa sĩ “toàn diện”: Ông ở trong danh sách ban giám khảo chấm giải cho phòng triển lãm 1935, cùng với: giáo sư Tardieu, các hoạ sĩ Tô Ngọc Vân, Lê Phổ, Nguyễn Nam Sơn, Trần Quang Trân, Trần Văn Cẩn, Trần Bình Lộc, v.v… (PH số 13, 22-2-1935). Thế Lữ, cũng học Mỹ Thuật, nhưng chắc chỉ theo lớp dự bị thi vào trường, rồi bỏ, nên không có tên trong danh sách sinh viên[6].

Hoàng Đạo không học trường Mỹ Thuật, nhưng vẽ rất hay. Thạch Lam không vẽ nhưng yêu hội họa, sau ông phụ trách mục mỹ thuật trên Phong Hóa Ngày Nay. Khái Hưng, Tú Mỡ đều biết vẽ cả. Cho nên ngoài hai “họa sĩ chính quy” Nguyễn Gia Trí và Nhất Linh, các thành viên khác của Tự Lực Văn Đoàn đều là “họa sĩ nghiệp dư”, rồi họa sĩ ở ngoài cũng vẽ tranh gửi đăng hoặc dự thi hội họa Phong Hóa, chưa kể các họa sĩ khác được chính thức mời vào.

Nhất Linh vẽ ký tên Đông Sơn, Hoàng Đạo ký tên Tứ Ly và Nguyễn Gia Trí không ký tên, hoặc ký nhiều tên: Tô (tên chó Tây) , Cô Tô (cô chó Tây), LTô, Nal, Nul (Số Không), Hoth, Mac, Mạc, Daladin (của Aladin), Tú Nuy [Truổng cời] và nhiều tên khác nữa, trước khi lấy tên “chính thức” là Rigt nghiã là Gia Trí Cười (gt ri viết ngược) hay Lẽ phải (Right).

Bút hiệu Đông Sơn, có từ Phong Hóa số 2 bằng chữ Hán trên tranh bìa. Đến số 3, có tranh Đông Sơn ký chữ quốc ngữ, chắc do Nguyễn Gia Trí đặt ra vì lúc đó Nhất Linh chưa vào. Tôi tạm đoán: hai người cùng ký tên Đông Sơn trong một thời gian, sau đó tên này mới tách ra thành tên riêng của Nhất Linh.

Bút hiệu Đông Sơn, ký dưới bức tranh hài hước Người Annam mình kinh doanh, in trên trang nhất số 14, vẽ một chiếc xe hàng, bánh xe vá chằng chịt, lèn hành khách, hàng hóa, đồ đạc, như cá hộp, có người lăn xuống đất, bị người khác nôn mửa lên mặt. Trong số hành khách ngồi chen chúc trên mui có hình (giống như) Lý Toét. Bên đường có cột cây số giống hệt mộ bia. Chuyến xe hàng ghi chạy đường Hà Nội- Chín Suối, có 25 chỗ ngồi nhất định.

Đây là bức tranh đầu tiên, tiêu biểu cho thể loại hài hước trên Phong Hóa: Mô tả cảnh lầm than của dân tộc mình dưới ách thực dân, và tự giễu cái nghèo, cái bon chen, ham sống, sống tủi nhục của kiếp người nô lệ.

Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Tlvd0213

Người Annam mình kinh doanh, Phong Hóa số 14

Vẫn trên Phong Hóa số 14, trang 3, có hai tranh: Mồm mép hàng giầy, ký Tô, vẽ người bán giầy có khuôn mặt và bộ dạng giống Lý Toét. Bên cạnh có bức tranh Giậy khôn ký Nul, vẽ cảnh một thằng nhỏ bị xe cán đứt đôi, một ông nhà quê, cầm dù giống Lý Toét đi qua, cúi xuống mắng: lần sau có đi nên cẩn thận!

Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Tlvd0214

Số 15, có tranh Một đám ma vui… của Đông Sơn, đưa tiễn những thứ u buồn sầu não, đang làm chủ tình hình lúc bấy giờ. Dẫn đầu là hàng kèn trống và lá cờ hiệu: Sầu thảm nhiều rồi, đằng sau là những người đi đưa ma và một rừng phướn ghi tên những tác phẩm, những chủ trương, những con người sầu não, phải tống táng đi, như: Sợi tơ lòng, Nho phong, Giọt lệ phòng văn, Tân sầu Nguyễn Tiến Lãng, Một tụi chán đời, Duyên nợ phù sinh…

Tóm lại, Nho Phong cũng bị cha đẻ Nhất Linh đem ra đưa đám, như những tác phẩm cổ lỗ sĩ khác.

Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Tlvd0215

Một đám ma vui cùa Đông Sơn, Phong Hóa số 15

Trên đầu mục Vui cười lần đầu tiên có chân dung Lý Toét, ký DS (Đông Sơn).

Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Tlvd0216

Bức hý họa Trên xe điện, không ký tên, mô tả cảnh người mình ngồi tầu điện: khạc nhổ, vén quần gãi sồn sột, nói oang oang, cãi lộn, nôn mửa… ở dưới ghi: Không nên như những người này.

Số 16, vẽ tiếp hai tranh Những chỗ ngồi trên xe điện, ký LTô, tranh bên trái: một người phụ nữ có tuổi bước vào toa tầu, không ai nhường chỗ. Bức tranh bên phải, cũng cảnh ấy, nhưng một thiếu nữ trẻ đẹp bước vào, các cậu tranh nhau xun xoe: Mời cô ngồi, mời cô ngồi đây! Bức tranh Cũng tắm bể ký Hoth, cực kỳ châm biếm. Một bức tranh khác, không ký tên, vẽ ông Lý đi qua hàng nước, cô hàng mời: Mời ông vào sơi nước chanh nước đá. Ông Lý (lễ phép): Tôi không dám mời cô sơi.

Tóm lại, tranh hài hước trên Phong Hóa, thời kỳ đầu, mang tính mua vui, tự trào và giáo dục. Phanh phui đời sống xã hội dưới chế độ thuộc địa, chế giễu sự quê mùa, dốt nát, khốn khổ của dân ta, chịu phận dân tộc bị trị, hoang mang và lạc lõng không theo kịp đời sống mới.

(còn tiếp)
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng   Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 I_icon13Tue 15 Jun 2021, 12:18

TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG

Thuỵ Khuê

Tranh và thơ chế giễu Tản Đà

Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Tlvd0217

Ông Nguyễn Khắc Hiếu với việc đời

Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Tlvd0218

Trời đầy Nguyễn Khắc Hiếu

Phong Hóa số 14, trang 4, có ba tranh hai hước, nhưng đáng chú ý là tranh của Tứ Ly: Ông Nguyễn Khắc Hiếu với việc đời, vẽ Tản Đà có râu, say rượu ngất ngư bên đống chai không. Lại có bài thơ Trời đầy Nguyễn Khắc Hiếu của Bán Than (Khái Hưng) phụ họa, như sau:

Trong phòng khách cụ Trời
Cậu nhỏ dâng văn bôi
Sẩy tay đánh rơi vỡ:
Nguyễn Khắc Hiếu ra đời!

Từ khi Hiếu xuất thế
Vẫn nhớ cảnh thiên tiên.
Bữa cơm thường phải rượu
Nhưng túi lại rỗng tiền.

Rượu ngon thức nhắm ngon,
Giọng văn lại càng giòn:
Khối tình con, tình lớn
Giấc mộng lớn, mộng con.

Thích chí nằm ngâm nga
Tiếng động vang Ngân hà.
Trời hỏi: “ai ngâm thế?”
Muôn tâu, ấy Tản Đà

Trời nổi trận lôi đình
Rằng: “cái thằng tiên ranh
Ta đầy xuống hạ giới
Để hắn chịu nhục hình

Ai ngờ hắn vẫn nhàn
Ngày tháng ngâm thơ tràn
Các ngươi ai có cách
Bắt hắn phải gian nan”

Chư tiên đồng thanh nói:
“Tội nặng nhất trần phàm
Là bắt anh Khắc-Hiếu
Làm chủ báo An-Nam”

– Bán Than


Sự chế giễu Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu trên Phong Hóa có vẻ như được Tản Đà khuyến khích. Tứ Ly kể lại câu chuyện sau[7]:

Trên Phong Hóa số 14, Tứ Ly vẽ bức tranh Ông Nguyễn Khắc Hiếu với việc đời giễu Nguyễn Khắc Hiếu say rượu, có râu. Mấy hôm sau Tản Đà đến toà soạn chơi, mày râu nhẵn nhụi, Tứ Ly chột dạ, bèn đăng lời Cải chính trên Phong Hóa số 15: “Trong số báo trước (số 14) Phong Hóa có đăng hình ông Nguyễn Khắc Hiếu, lỡ nét bút thành vẽ nhà thi sĩ có râu. Vậy cái lỗi, vẽ rắn thêm chân ấy, bản báo xin cam chịu với ông Lý Bạch thời nay. Lại xin các cô “tình nhân không quen biết” của ông Hiếu cứ vui lòng mà viết thư trả lời về Hàng Bông cho ổng: ổng chẳng có râu đâu, các cô đừng sợ sệt”. Nhưng, vẫn theo lời Tứ Ly kể tiếp: Một buổi tiếp chuyện ông Hiếu, thấy ông nói rằng: Một Tờ báo hay cải chính là tờ báo hư!” làm chàng càng chột dạ, sợ ổng lại để râu, mình lại phải cải chính, cứ thế mãi, thì còn gì “giá trị” tờ Phong Hóa!

Phong Hóa số 16, Trong mục Giòng nước ngược, đề tài Cảm thu, lại có bài Điệu thơ cụt ký Nhất Linh và bài Cảm thu ký Bán Than. Chúng ta nên để ý đến bài Điệu thơ cụt, vì đây là lần đầu tiên bút hiệu Nhất Linh xuất hiện trên mặt báo và bài này còn được ghi là Thơ mới (khác với bài Cảm thu của Bán Than là thơ cũ, làm theo thể thất ngôn bát cú) có âm điệu gần như thơ tự do. Chúng ta cũng nên biết lúc đó Thơ mới vừa ra đời, được giới thiệu lần đầu ở ngoài Bắc, trên báo Phong Hóa Xuân đầu tiên, số 31 (24-1-1933). Vậy bài Điệu thơ cụt của Nhất Linh là một bài Thơ mới, mới nhất, bài đầu tiên hết của Tự Lực Văn Đoàn:

Lũ khỉ trong bách thú
Nhớ rừng xưa kêu rú
Nhà văn cảm thu về
Dặn [Rặn] dăm bài tuyệt cú

Cán bút đương ngậm ngùi
Tưởng tuyết rơi tơi bời!
Ai ngờ trời nắng gắt,
Chẩy mồ hôi!

Lại toan tả đàn nhạn,
Trong sương bay tán loạn
Sẩy nghe tiếng còi tầu,
Nguồn thơ cạn!

Nhạn tuyết không có rồi,
May còn lá ngô rơi,
Ai ngờ ngoài đường cái,
Cây xanh tươi!

Muốn cảm thu một chút,
Hay đâu hứng đã cụt
Nghĩ mãi không ra văn,
Đành dừng bút!

– Nhất Linh


Bán Than cũng phụ họa Nhất Linh, với bài Cảm thu, dưới đây:

Ô kià đã quá nửa thu rồi
Cảm tác nay xin có mấy lời
Một rặng cây xanh hun gió nóng
Hai bàn tay trắng đổ mồ hôi
Nào đâu mặt tuyết ngô đồng rụng
Chỉ thấy bên đường đám cỏ tươi
Trai gái quanh hồ cười khúc khích
Sầu riêng thi sĩ lệ đầy vơi.

– Bán Than


Cả hai bài đều nhại tuyệt tác Cảm thu của Tản Đà mà chúng ta đều thuộc lòng:

Từ vào thu đến nay,
gió thu hiu hắt,
sương thu lạnh,
trăng thu bạch,
khói thu xây thành,
lá thu rơi rụng đầu ghềnh,
sông thu đưa nhánh bao ngành biệt ly,
nhạn về én lại bay đi,
đêm thì vượn hót, ngày thì ve ngâm,
lá sen tàn tạ trong đầm,
nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa…


Nhưng ta thấy: Khái Hưng vẫn ký Bán Than, bút hiệu dùng trong mục Giòng nước ngược với Tú Mỡ, bởi vì Khái Hưng, tuy kém Tản Đà 7 tuổi, nhưng là bạn của Tản Đà từ nhiều năm trước, không cần giữ lễ.

Nhất Linh, kém Tản Đà 17 tuổi, cho nên tuy chế nhạo Tản Đà, nhưng vẫn kính nể bậc đàn anh, ông đã ký cái tên đẹp nhất: Nhất Linh, lần đầu trình làng dưới bài thơ mới đầu tiên của ông, một cách gián tiếp tôn vinh Tản Đà: Sự tế nhị và nhã độ của Nhất Linh nằm ở chỗ đó.

Tứ Ly cũng vậy, tuy chế giễu Tản Đà, nhưng vẫn sợ ổng (chơi khăm). Tứ Ly coi Tản Đà là Lý Bạch thời nay: còn có danh hiệu nào cao quý hơn!

Cho nên dù bị chế giễu bao nhiêu, Tản Đà không bao giờ giận Tự Lực Văn Đoàn.

Khi Tản Đà túng thiếu, Khái Hưng Nhất Linh đã mời ông cộng tác, dịch thơ Đường và khi Tản Đà mất ngày 7-6-1939, Ngày Nay số 165 (10-6-1939) thông tin: Tản Đà tạ thế. Mở sổ quyên giúp gia đình thi sĩ. Ngày Nay số 166 (17-6-1939) số báo tiễn biệt Tản Đà, Khái Hưng viết bài Cái duyên của Tản Đà, một trong những bài tiễn đưa hay nhất, của một người bạn gần 20 năm quen biết, gần gũi, hiểu và yêu thi sĩ, với những lời lẽ hết sức chân thành cảm động.

Rất nhiều người không hiểu ý nghĩa cái cười trên Phong Hóa Ngày Nay, nên có những lời buộc tội phiến diện, đôi khi khiếm nhã, như trường hợp Thanh Lãng, chúng tôi sẽ nói tới sau.

Phan Khôi là người đầu tiên viết bài bênh vực tiếng cười, trên Phong Hóa, trong mục Văn học, trong bài Cái địa vị khôi hài trên văn đàn, ông viết:

Người mình hình như chưa hiểu đến cái hay của sự khôi hài là dường nào, cũng chưa hiểu đến cái ích lợi của văn khôi hài và người có tài khôi hài ra sao. (…) Nhưng phải biết rằng ai có tài thông minh tuyệt thế thì mới nói được câu chuyện diễu có duyên hay là làm được bài văn bông lơn có duyên, chớ phải dễ dầu gì đâu mà khinh thị.(…) Văn khôi hài nó thường làm cho cảm động người ta một cách rất mạnh mà người ta không biết. Giả như ông mỗ có cái tật xấu gì đó, có kẻ làm bài hài văn, ám chỉ mà công kích cái tật xấu ấy của ông, trong lúc ông mỗ đọc đến, ông phải tức cười nôn ruột mà không giận được, rồi có lẽ lần lần tự nhiên ông mỗ bỏ cái tật xấu ấy đi bao giờ mà ông không hay. Đó mới thật là một bài hài văn hay đó, và cái công dụng của nó là như thế.” (Phong Hoá số 26, 16-12-1932)

Phan Khôi đã nói rõ công dụng của tiếng cười và giá trị “giáo dục” của tiếng cười.

Ta nên phân biệt tính cách trào phúng trên Phong Hóa làm hai loại, với hai đối tượng khác nhau: trào phúng phỉ báng sự nô lệ Pháp, chế giễu các quan trường bồi Tây, tố cáo sự đán áp của chính quyền thực dân: đó là trào phúng cách mạng.

Còn sự chọc cười những cố tật của các nhà văn nhà báo “cổ” như cụ Hoàng Tăng Bí, Tản Đà, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Tố… hay chế giễu sự gàn, bướng trong “lý luận Phan Khôi” của Tứ Ly, là lối khôi hài Phan Khôi vừa kể ở trên, không thể coi là phạm thượng. Đó là trào phúng sửa sai.

Chúng ta cũng đừng quên: Khái Hưng là bạn thân của Phan Khôi, gặp nhau ở nhiều điểm, nhất là ở chủ trương chống nho giáo, đổi mới ngôn ngữ và giải phóng phụ nữ. Khái Hưng là người đã giới thiệu Phan Khôi và thơ mới sớm nhất trên Phong Hóa. Đến những ngày thật căng thẳng trong tháng 7 năm 1946, Phan Khôi ra Hà Nội, không ở nhà con, mà bị Việt Minh bắt tại 80 Quan Thánh, nhà Khái Hưng.

(Còn tiếp)

Thụy Khuê


[1] 0p03 là 0 piastre 03, hay 0 đồng 03, tức 3 xu.

[2] In ở nhà in Lê Cường do Nguyễn Tường Tam quản lý. Tên nhà in Lê Cường chỉ xuất hiện một lần duy nhất, từ số 15, lại trở về với tên nhà in Moderne.

[3] Le Rire (Tiếng Cười) (1894-1971) là báo trào phúng ra hàng tuần, biếm họa những nhân vật trong chính trường, những giai nhân tài tử nổi tiếng và in tác phẩm của các nhà văn trẻ.

[4] Mục Thực hay hư ký tên Nghịch Nhĩ Đào Đình Dù từ số 3 đến số 6; số 7 ký Sào Phủ; số 8 và số 9 ký Hứa Do; số 10 ký Nghịch Nhĩ; số 11, ký Hứa Do; số 12 ký Tô Tô Phôn, số 13, ký Nghịch Nhĩ; những bút hệu này đều có giọng văn, lối viết và tư tưởng của Khái Hưng.

[5] AS Le Mur (Artist Student Le Mur) là dịch tên Tường sang tiếng Pháp và đề thêm AS là sinh viên mỹ thuật.

[6] Thời đó muốn thi vào trường Mỹ Thuật Đông Dương, thường phải học một năm dự bị, và phải qua kỳ thi tuyển. Theo Đặng Hữu Thụ, trường Mỹ thuật Đông Dương có hai ban: Kiến trúc và Hội họa. Muốn thi vào ban Kiến trúc, thí sinh phải có bằng Cao đẳng tiểu học Pháp Việt (tức là bằng Thành chung hay bằng Trung học), còn thí sinh thi vào ban Hội họa, không bắt buộc phải có văn bằng gì. (Đặng Hữu Thụ, Làng Hành Thiện thời Tây học cho đến năm 1954, Quyển Thượng, tác giả tự xuất bản, Melun, Pháp, 1999, trang 146 và 151).

[7] Trong mục Từ cao đến thấp, trên báo PH số 18 (20-10-1932).
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng   Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 I_icon13Wed 16 Jun 2021, 12:54

TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG

Thuỵ Khuê

Sự tiếp nhận Tự Lực Văn Đoàn


Trương Chính
là nhà phê bình đầu tiên có những nhận định sâu sắc, đầy chất sáng tạo về Tự Lực Văn Đoàn. Tác phẩm Dưới mắt tôi (1939), phần viết về Khái Hưng, Nhất Linh cũng đầy đủ và chân xác hơn nhiều người viết sau. Ông đã đánh giá Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Gánh hàng hoa, Đời mưa gió, Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Trống mái, Gia đình, bằng cái nhìn của một nhà phê bình hiện đại. Những bài viết của ông đến nay vẫn không bị lỗi thời.

Trong thời kỳ miền Bắc triệt hạ Quốc Dân Đảng vì lý do chính trị và bản Đề cương văn hóa của Trường Chinh đã khóa trái văn học trong bốn bức tường hiện thực xã hội chủ nghĩa, loại bỏ những tác phẩm lớn của nền văn học thời kỳ 1932-1945, trong đó có những tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn: Trương Chính vẫn đứng vững như cây tùng. Những bài viết của ông về Khái Hưng, Nhất Linh vẫn được in lại trong Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam (Nxb Xây Dựng, 1957) và Tổng tập văn học Việt Nam (Nxb Khoa Học Xã Hội, 1997).

***

Trương Tửu
cùng thời với Phong Hóa. Ông ở trong nhóm Nguyễn Vỹ và thơ Bạch Nga, đối lập với Tự Lực Văn Đoàn. Nhưng Trương Tửu có tính bốc đồng, khi khen Đoạn tuyệt thì hết lời mà khi chê Lạnh lùng, Đời mưa gió cũng thái quá. Điểm này chứng tỏ ông là một người cổ hủ (muốn đàn bà phải giữ đạo tiết hạnh, không chịu được Khái Hưng, Nhất Linh bênh vực một cô gái điếm) và ông cũng không tinh tế lắm vì không nhận ra được giá trị vượt trội của Lạnh lùng bên cạnh Đoạn tuyệt, mặc dù ông được coi là nhà phê bình “mới nhất” vì là người đầu tiên đưa phê bình Mác-xít vào Việt Nam. Sau này, ông là lý thuyết gia của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, viết những bài lý luận nẩy lửa đòi hỏi tự do dân chủ và dìu dắt sinh viên đại học, đó chính là vết son ông để lại cho đời sau.

***

Vũ Ngọc Phan: Bộ Nhà văn hiện đại, 5 tập (1941-1942) của Vũ Ngọc Phan có giá trị dẫn đường trong một thời gian dài. Tuy còn nhiều điểm ông đưa ra cần phải bàn lại hoặc đã lỗi thời, nhưng nhìn chung, bộ sách này là tác phẩm phê bình lớn nhất của Việt Nam trong thế kỷ XX. Vũ Ngọc Phan đã vẽ được bộ mặt trung thực của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ. Ông giữ được lòng trung thực khi phê bình, không bè phái, không thiên vị bạn bè, không xu nịnh. Khi miền Bắc “đánh” Nhân Văn, ông im lặng, không về hùa. Ông lui về nghiên cứu ca dao. Đó là một nhân cách.

Điểm đáng tránh: vì người ta coi ông là thầy, nên cứ chép nguyên những gì ông viết, thí dụ Vũ Ngọc Phan bảo Khái Hưng là nhà văn lý tưởng, nhà văn phong tục (có lẽ vì ông biết Khái Hưng đặt tên cho tờ Phong Hóa), Nhất Linh là tiểu thuyết gia luận đề, mọi người cũng cứ chép lại như thế, cả đến Nhất Linh cũng tin mình viết tiểu thuyết luận đề là dở!

Tuy nhiên công của Vũ Ngọc Phan không nhỏ: nếu bộ Nhà văn hiện đại bị cấm ở Bắc, thì ở trong Nam, học sinh trung học vẫn được đọc và học bộ sách này; sau có thêm bộ Việt Nam văn học sử giản ước tân biên của Phạm Thế Ngũ.

***

Dương Quảng Hàm soạn Việt Nam văn học sử yếu năm 1941, là một trong những cuốn văn học sử đầu tiên của ta, Tự Lực Văn Đoàn được đưa vào chương bẩy, tức là chương chót. Là sách yếu lược, tóm tắt những gì chính yếu cho lịch sử văn học gần ngàn năm, nên chỗ đứng của văn học quốc ngữ chỉ chiếm vài trang. Tuy nhiên giáo sư Dương Quảng Hàm đã có những lựa chọn và phân chia chính đáng: ông chia văn học nửa đầu thế kỷ XX làm hai phái tân cựu và nói rõ đặc tính của mỗi phái, nêu tên những nhà văn tiêu biểu. Thí dụ khi viết về Thơ mới, ông chọn ba nhà thơ tiêu biểu: Hàn Mặc Tử, Thế Lữ và Xuân Diệu, là một lựa chọn tinh tường. Phần về Tự Lực Văn Đoàn, từ trang 453 dến trang 456, sau khi nó rõ tôn chỉ và đường hướng văn chương của họ, ông giới thiệu mấy tác phẩm chính của Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ, rồi xác định công việc của Tự Lực Văn Đoàn đã làm. Tuy sơ lược, nhưng những ý kiến của giáo sư Dương Quảng Hàm có giá trị đến ngày nay. Sách viết và in dưới thời Pháp thuộc, nên ông không thể nhắc đến tinh thần chống Pháp của Tự Lực Văn Đoàn. Nhưng ông không nhắc đến Hoàng Đạo, Thạch Lam, là một thiếu sót.

***

Phạm Thế Ngũ viết bộ Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, một công trình đồ sộ, ba cuốn, in từ 1961 đến 1965 tại Sài Gòn. Đây là bộ văn học sử đầy đủ và đúng đắn hơn cả. Cuốn ba, dành cho văn học hiện đại 1862-1945, ông đã nghiên cứu khá kỹ hai trào lưu tân cựu lớn nhất của văn học quốc ngữ: nhóm Đông Dương-Nam Phong (Nguyễn Văn Vĩnh-Phạm Quỳnh) và nhóm Phong Hóa-Ngày Nay (Tự Lực Văn Đoàn). Về nhóm Tự Lực, ông nghiên cứu các tác phẩm tiêu biểu của Nhất Linh, Khái Hưng, và Thạch Lam. Ông có nhắc đến tính cách trào phúng của Phong Hóa nói chung, nhưng ông không nhận ra giá trị văn trào phúng của Hoàng Đạo. Nhất Linh cho biết: những đoạn Vũ Ngọc Phan viết về Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Đôi bạn, Bướm trắng đã bị kiểm duyệt của Pháp hồi đó (1942) xoá bỏ[1]. Vì vậy, chúng ta có thể hiểu tại sao những nhà nghiên cứu thập niên 40, như Dương Quảng Hàm, Vũ Ngọc Phan, không hoặc không dám nhắc nhở đến tính cách phản kháng chính trị của Tự Lực Văn Đoàn; nhưng tại sao, những nhà nghiên cứu sau này như Phạm Thế Ngũ, Thanh Lãng cũng bỏ qua?

Ngoài ra, Phạm Thế Ngũ phạm một số sai lầm:

1- Phần về Tự Lực Văn Đoàn, được mở đầu bằng câu: “Nói đến Tự Lực Văn Đoàn, người ta không thể không trước hết nói đến Nguyễn Tường Tam người đã hầu như một mình đứng ra sáng lập ra nó”[2]. Một người nghiên cứu thận trọng không thể viết như thế, bởi vì cả phần Tự Lực Văn Đoàn sau đó, không thấy chỗ nào ông chứng minh được rằng: Nguyễn Tường Tam một mình đứng ra sáng lập Tự Lực Văn Đoàn cả. Nhưng câu này đã được người ta chép lại rất nhiều, từ đó nẩy sinh sự độc tôn vai trò của Nhất Linh trong Tự Lực, bởi vì người ta tưởng Nhất Linh làm tất cả. Thậm chí Vu Gia còn viết: “Lúc đầu, Khái Hưng vẫn tiếp tục viết những bài nghị luận, vì ông cho đó là sở trường của ông. Nhưng ông Nhất Linh khuyên ông nên viết truyện ngắn, truyện dài có tính cách văn nghệ thì hơn. Mãi ông mới chịu thí nghiệm loại này, và sự thành công của ông mỗi ngày một rõ rệt“[3] Câu này tiêu biểu cho cách viết suy diễn từ một ý của người đi trước. Nghe người ta kể, hay chính Tú Mỡ, Thế Lữ kể rằng Nhất Linh “bảo” Tú Mỡ làm thơ trào phúng, Nhất Linh “bảo” Thế Lữ viết truyện trinh thám… thì có thể được, nhưng suy ra rằng: Nhất Linh cũng “bảo” Khái Hưng viết truyện ngắn, truyện dài, thì không được nữa rồi. Sai một ly đi một dậm. Nhất là khi những người viết sau, chỉ dựa vào những điều người đi trước đã viết hoặc chỉ dựa trên những giai thoại do vài người ở gần hay ở trong Tự Lực Văn Đoàn kể lại (có khi hoàn toàn bịa đặt) thì nhất định đưa đến sai lầm.

2- Ông lại viết: “Trong tập Những ngày vui viết về sau, Khái Hưng có cho biết họ có ý định khi đó lập một thứ “pléiade” với “bẩy vì sao”. Đó là Nhất Linh tức Nguyễn Tường Tam (cũng ký các biệt hiệu khác Nhị Linh, Bảo Sơn, Đông Sơn), Khái Hưng tức Trần Khánh Dư, Tú Mỡ tức Hồ Trọng Hiếu…” (trang 433-434). Tôi đã dò cả bản trên báo lẫn bản in sách Những ngày vui, không thấy chỗ nào Khái Hưng nhắc đến hai chữ Thất tinh. Việc này tôi sẽ viết rõ hơn trong chương Chúc thư văn học của Nhất Linh, ở đây chỉ đưa ra nhận xét: Phạm Thế Ngũ không đọc Những ngày vui của Khái Hưng. Rồi ông lại tưởng Nhị Linh là bút hiệu của Nhất Linh, thực ra Nhị Linh là Khái Hưng. Sự nhầm lẫn này khiến tất cả những bài viết của Khái Hưng ký Nhị Linh, nhiều lắm, đều được đưa vào “sổ” Nhất Linh. Mà không chỉ mình Phạm Thế Ngũ, nhiều người cũng tưởng như thế, có lẽ họ chép lại cái sai của ông.

3- Ông viết: “Có điều phải ghi nhận là trong tất cả các nhà văn Tự Lực, Thế Lữ có lẽ là người có câu văn tinh vi, rèn giũa hơn cả. Đọc ông, người ta có cái cảm tưởng thấy cái khó tính của người chuyên “đãi hạt sạn” trên Phong Hóa Ngày Nay, và không muốn chấp nhận nơi mình một sự dễ dàng lỏng lẻo nào cả.” (trang 486-487)

Ông lại tưởng ngòi bút chuyên “đãi hạt sạn” trên Phong Hóa Ngày Nay là Thế Lữ, cho nên ông xác định trong tất cả các nhà văn Tự Lực, Thế Lữ có lẽ là người có câu văn tinh vi, rèn giũa hơn cả, bởi vì ông cũng lại không biết, người đãi sạn trên Phong Hóa có bút hiệu Nhát Dao Cạo và Hàn Đãi Đậu là Khái Hưng, một thứ ngự sử văn đàn ở Bắc, giống như Phan Khôi ở trong Nam.

Những sai lầm này khiến ông không nhìn nhận đúng mức vai trò của các nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn. Ông cũng không nhắc đến Hoàng Đạo vì ông không nhìn thấy giá trị văn chương hài hước của Hoàng Đạo, sau Hoàng Tích Chu, là người đã khai phá lối viết hoạt kê châm biếm trong văn học Việt Nam và là lý thuyết gia của Tự Lực Văn Đoàn, người đầu tiên viết những bài lý luận nghiên cứu chặt chẽ và sâu sắc về quyền công dân, luật lao động, về xã hội dân sự, đòi hỏi tự do dân chủ và quyền làm người.

(còn tiếp)
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng   Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 I_icon13Tue 22 Jun 2021, 10:12

TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG

Thuỵ Khuê

Nhật Thịnh và cuốn Chân dung Nhất Linh

Cuốn Chân dung Nhất Linh của Nhật Thịnh gần như là tác phầm duy nhất viết về Nhất Linh (còn một cuốn nữa của Lê Hữu Mục, tôi chưa được đọc), do Văn xuất bản tại Sài Gòn, 1966, bản Đại Nam chụp lại ở hải ngoại không đề năm. Nhật Thịnh có công đọc và giới thiệu khá đầy đủ tác phẩm và tìm hiểu cuộc đời, cái chết của Nhất Linh. Ông cũng đã gặp Nguyễn Tường Thiết, con út Nhất Linh để hỏi những thông tin và xin tài liệu hình ảnh khi soạn sách. Ông lại thuộc lớp người có thể tiếp xúc với Nhất Linh lúc sinh thời, nên cuốn sách được nhiều người tin cậy, nhiều nơi trích dẫn và được coi là cuốn sách đầy đủ nhất về Nhất Linh.

Nhưng Nhật Thịnh không quen việc viết biên khảo, nên ông mắc những lỗi lầm quan trọng mà giới chuyên môn không làm:

1- Ông không để ý đến nguồn dẫn chứng, rất ít khi ông viết rõ, trích ở sách nào. Vì vậy, những tài liệu ông đưa ra, nhất là về đoạn cuối đời Nhất Linh, đôi khi rất quý, nhưng lại không có số hiệu tham chiếu (note de référence), nên không tiện dụng.

2- Ông hay chép lại cái sai của người khác mà không kiểm chứng, ngay câu mở đầu: “Nhất Linh (Nhị Linh hay Bách Linh) là bút hiệu của Nguyễn Tường Tam” là đã thấy sai rồi: Không! Nhị Linh là bút hiệu của Khái Hưng. Cái sai này ông chép lại Phạm Thế Ngũ và còn thêm vào hai chữ Bách Linh nữa! Bách Linh là tên Thạch Lam (ít khi ký). Lê Ta (Thế Lữ) trong bài Lê Ta làm báo (PH số 104, 29-6-34) kể lại câu chuyện: Ông ở trọ Bạch Mai, đang đói, được Bách Linh gọi về ở chung nhà Hàng Bông, làm báo một tuần bốn ngày, lương 30 đồng một tháng, v.v…

3- Nhật Thịnh hay thêm thắt, để đề cao sự khám phá của mình về cái tên Nhất Linh, ông viết: “Để đả phá cái quan niệm sai lầm đó [tin rằng mọi việc đều linh thiêng, thần thánh] ông tự cho ông cũng là một cái gì linh thiêng và tự nhận là Nhất Linh, Nhị Linh. Khái Hưng bắt chước ông ký tên Nhất Linh, Nhị Linh hay Tam Linh, Bách Linh.” (trang 19, bản Đại Nam). Vẫn trong “tinh thần” cho rằng Khái Hưng là “đồ đệ” của Nhất Linh, ông bảo Khái Hưng bắt chước Nhất Linh, ký cả bốn tên: Nhất Linh, Nhị Linh, Tam Linh, Bách Linh. Sao tham lam quá vậy? Tam Linh là bút hiệu của Nhất Linh, còn Bách Linh tôi đã nói ở trên rồi. Đó là nhưng sai lầm vì không biết. Nhưng cái sai lầm chính trong cuốn Chân dung Nhất Linh là về phương pháp:

4- Nhật Thịnh viết biên khảo như viết tiểu thuyết vậy, đó là phương pháp biên khảo hư cấu.

Thí dụ trong chương VI tựa đề Nhóm Tự Lực Văn Đoàn, ông viết như sau:

“Hồi Nhất Linh còn dạy ở trường Thăng Long, ông để ý tới một bài khảo luận ngắn trên báo Văn Học, ký tên Bán Than. Chắc anh chàng này có họ với ông Trần Khánh Dư đời Trần, tác giả bài:

Một gánh kiền khôn ruổi xuống ngàn,
Hỏi chi bán đấy? Gửi rằng than

Đột nhiên ông nhớ tới giáo sư Trần Khánh Giư, một người kín đáo, dễ thương, từ đó hai người biết nhau. Nhất Linh thấy Khái Hưng có khả năng hiếm có về văn chương (…) Họ cùng một tinh thần chống Pháp, thấy cần phải sát cánh nhau hơn. Họ thảo luận để thành lập một ban biên tập gồm những người cầm bút có tinh thần hoạt kê và triệt để chống hủ tục, dị đoan”
(trang 128).

Về Hoàng Đạo, ông cũng viết như thế:

“ Hoàng Đạo lấy tên là Tứ Ly. Đó là tên một giờ xấu mọi người đều tránh nhưng ông không kiêng mà còn đặt cho mình cái tên xấu đó. Sau ông bị bọn mật thám Pháp theo dõi và làm khó dễ, bởi ông hay viết những bài công kích người Pháp ở Việt Nam. Để tránh những sự lôi thôi có hại cho tờ Phong Hóa, ông đổi tên là Hoàng Đạo (giờ Hoàng Đạo), trái với Tứ Ly để trêu người Pháp. Vì thế năm 1936, ông bị phát phối đi Đà Nẵng. Trường hợp ông giống như Cao Bá Quát”
(trang 128).

Ông tường thuật mọi chuyện một cách rất tự nhiên, như ông đã từng mục kích, ông biết cả Nhất Linh, Hoàng Đạo nghĩ gì, nói gì. Ông còn kể lời Trương Bảo Sơn thuật lại rằng:

“ Trong khi đi dạy học, anh [Nhất Linh] để dành tiền làm báo, anh kiếm người cộng sự làm báo, tất cả tâm chí anh chỉ để vào có một mục đích là làm báo. Đến khi anh gặp dịp ông Phạm Hữu Ninh nhường cho làm tờ Phong Hóa, anh em không ai ngạc nhiên thấy anh bỏ cái nghề hàng tháng (nghề dậy học) đương cung cấp cho anh ba trăm đồng bạc lương để làm một nghề chỉ đem lại cho anh có 30 đồng bạc, nghiã là 1/10 số lương cũ” (trang 34).

Những lời kể trên đây- dù ghi là của Trương Bảo Sơn–cũng không tin được, bởi vì Nhất Linh làm báo từ năm 1932, nhưng ông vẫn dạy học (theo bảng quảng cáo tên các giáo sư trường Thăng Long in trên Phong Hóa). Ông chỉ ngừng dạy trong hai niên khóa 1935-1936 và 1936-1937, rồi ông trở lại dạy niên khóa 1937-1938 (vẫn theo quảng cáo trên Phong Hóa). Hơn nữa Trương Bảo Sơn chỉ gặp Nhất Linh lần đầu ở chiến khu Vĩnh Yên: “Lần đầu tiên tôi được gặp ông [Nguyễn Tường Tam], tiếp xúc với ông là ở Chiến khu của Việt Nam Quốc Dân Đảng trong tỉnh Vĩnh Yên, sau khi ông từ chức Bộ trưởng ngoại giao trong chính phủ Liên Hiệp kháng chiến, trên đường ông đi sang Trung Hoa”[4].

Vậy thì làm sao Trương Bảo Sơn có thể biết được những việc xẩy ra khoảng 1930-1932? Mà lại sai như thế thì chắc chắn không do Nhất Linh kể lại cho ông Sơn nghe trong thời kỳ sống chung với nhau ở Hương Cảng rồi.

Cũng vẫn theo cách đó, Nhật Thịnh viết về tuổi thơ của Nhất Linh, đi học như thế nào, ở trường làm gì, bạn bè đối đãi ra sao, hệt như Nhất Linh kể lại. Đặc biệt là đoạn Nhất Linh “theo cách mạng” như sau:

“Ông hưởng ứng lời kêu gọi của Nguyễn Thái Học, lãnh tụ Việt nam Quốc dân đảng, xin gia nhập đảng và tìm đường vào Nam hoạt động. Ngày 4-3-1926 ông tiếp xúc với Vũ Đình Di và Trần Huy Liệu…” (trang 29), nghĩa là cứ như thật, còn ghi rõ cả ngày tháng gặp gỡ nữa. Mặc dù không thấy tài liệu nào nói Nguyễn Tường Tam xin gia nhập đảng của Nguyễn Thái Học cả. (Nếu có thật thì Hoàng Văn Đào đã viết lại rồi).

Ông còn ngây thơ nữa, ví dụ truyện Đi Tây Nhất Linh viết ký tên Lãng Du, có nhiều chỗ ông bịa, nhất là việc ông xin đi Pháp, gửi đến 10 lá đơn mà không được trả lời, phải nhờ cô nhân tình… thế này thế kia, mà Nhật Thịnh tin là thật, trích lại. Sự thật Nhất Linh xin được học bổng của các quan ở Huế cấp cho đi du học.

Vì vậy, cuốn sách của Nhật Thịnh có những giới hạn, đọc như tiểu thuyết thì rất hấp dẫn nhưng khó dùng trong việc nghiên cứu.

Hiện nay có nhiều sinh viên ngoại quốc làm luận án văn chương Việt. Trong bản luận án về Nhất Linh của cô Maria Strakovova, một sinh viên Tiệp Khắc, thấy trích dẫn Nhật Thịnh khá nhiều. Sinh viên Nhật nghiên cứu Việt học cũng có, họ làm việc rất cẩn thận. Aki Tanaka nghiên cứu và làm luận án về Khái Hưng, đã sang Việt Nam ở nhiều năm học tiếng Việt và để thấm nhuần văn hóa Việt nữa. Cho nên chúng ta phải hết sức cẩn thận trong việc nghiên cứu, không họ cười cho.

(còn tiếp)
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content




Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng   Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 2 I_icon13

Về Đầu Trang Go down
 
Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng
Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Similar topics
-
» Văn Thanh Trắc Nguyễn Văn (toàn tập)
» Sau 50 Năm Đọc Lại Quốc Văn Giáo Khoa Thư (GS Trần Văn Chi)
» Hoa văn là gì và ý nghiã của hoa văn trên mộ đá công giáo
» Tiếng Đàn Văn Chức
» Lục bát Văn Thùy
Trang 2 trong tổng số 8 trangChuyển đến trang : Previous  1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8  Next

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
daovien.net :: VƯỜN VĂN :: BIÊN KHẢO, BÌNH LUẬN THƠ VĂN-