Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesVietUniĐăng kýĐăng Nhập
Bài viết mới
Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 18:23

Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Fri 26 Apr 2024, 16:41

Thi tập "Chỉ là...Tình thơ" by Tú_Yên tv Thu 25 Apr 2024, 12:56

Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Thu 25 Apr 2024, 12:51

Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Thu 25 Apr 2024, 12:46

LỀU THƠ NHẠC by Thiên Hùng Wed 24 Apr 2024, 11:55

Quán Tạp Kỹ - Đồng Bằng Nam Bộ by Thiên Hùng Wed 24 Apr 2024, 11:48

Trụ vững duyên thầy by Trà Mi Tue 23 Apr 2024, 07:34

Mái Nhà Chung by Trà Mi Tue 23 Apr 2024, 07:33

THIỀN TUỆ (diệt trừ đau khổ) by mytutru Tue 23 Apr 2024, 00:07

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 09:57

Nhận dạng phụ nữ giàu có by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 08:36

Bức tranh gia đình by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 08:09

Mẹo kho thịt by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 07:29

SẦU LY BIỆT by Phương Nguyên Sun 21 Apr 2024, 23:01

Trang Họa thơ Phương Nguyên 2 by Phương Nguyên Sun 21 Apr 2024, 22:56

Trang viết cuối đời by buixuanphuong09 Sun 21 Apr 2024, 06:38

Mức thù lao không ai dám nghĩ đến by Trà Mi Wed 17 Apr 2024, 11:28

KHÔNG ĐỀ by Phương Nguyên Wed 17 Apr 2024, 11:00

Cách xem tướng mạo phụ nữ ngoại tình, không chung thủy by mytutru Tue 16 Apr 2024, 11:59

Ở NHÀ MỘT MÌNH by Phương Nguyên Tue 16 Apr 2024, 09:59

HÁ MIỆNG CHỜ SUNG by Phương Nguyên Sun 14 Apr 2024, 13:29

Trang thơ vui Phạm Bá Chiểu by phambachieu Fri 12 Apr 2024, 15:48

Những Đoá Từ Tâm by Việt Đường Fri 12 Apr 2024, 15:32

Chết rồi! by Phương Nguyên Fri 12 Apr 2024, 13:57

ĐÔI BÀN TAY NGHỆ NHÂN by mytutru Thu 11 Apr 2024, 17:43

THẬN TRỌNG SIÊU LỪA by mytutru Wed 10 Apr 2024, 20:33

Không đánh, không mắng, không phạt, không có học sinh ưu tú by Trà Mi Wed 10 Apr 2024, 11:45

KHÓ NGỦ by Phương Nguyên Wed 10 Apr 2024, 01:46

MỘT CHÚT BUỒN by Phương Nguyên Tue 09 Apr 2024, 15:33

Tự điển
* Tự Điển Hồ Ngọc Đức



* Tự Điển Hán Việt
Hán Việt
Thư viện nhạc phổ
Tân nhạc ♫
Nghe Nhạc
Cải lương, Hài kịch
Truyện Audio
Âm Dương Lịch
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
Đăng Nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập: 
:: Quên mật khẩu

Share | 
 

 Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Chuyển đến trang : Previous  1 ... 6 ... 8, 9, 10 ... 14  Next
Tác giảThông điệp
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7112
Registration date : 01/04/2011

Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn - Page 9 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn   Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn - Page 9 I_icon13Tue 11 Aug 2020, 09:20

CHÂN DUNG HAY CHÂN TƯỚNG NHÀ VĂN
Nhật Tuấn

(Kỳ 47)


NHÀ VĂN NGUYỄN KHẢI (19)

(tiếp theo)

Chính vì cuốn sách vẫn được coi như thành tựu văn học hiện đại , vẫn được rao giảng trong nhà trường nên cần thiết phải đi cho hết nó.

Nhà văn cho ông cha trẻ nói năng “lập trường” vậy, đến ông cha già quản hạt lại còn ‘cách mạng” hơn. Cha ‘chỉnh” câu trả lời của cha Thư:

“Vâng lời chưa đủ, còn phải hiệp tác. Có hoan hỉ thật lòng thì mới hợp tác được.”

Vậy cha quản hạt muốn cha Thư phải ngoan ngoãn vâng lời nhà cầm quyền một cách tự nguyện chứ không phải miễn cưỡng, tức phải “ hoan hỉ mà vâng lời” kia. Bởi vậy sau khi gặp cha quản hạt trở về, cha Thư vui vẻ cho phép cậu giúp lễ tham gia vào…đội gặt của hợp tác xã. Khi cậu ta đi rồi, cha càng thấy chán đạo, càng cảm thấy nhà thờ ngày càng giống như nhà tù:

“Rồi trong cái nhà tù này chỉ còn có ta thôi, một ông cha xứ đã lẩn thẩn, và mấy người hầu việc đã quá già. Nhà tu, nhà nguyện, nhà dòng, nơi chỉ chăm lo có sự cứu rỗi thì bóng tối và cái chết là ơn ích của nó…”

Không hiểu ông nhà văn còn đòi hỏi nhà thờ những gì ngoài “chăm lo sự cứu rỗi”, không lẽ ông muốn biến nhà thờ thành hợp tác xã thủ công sản xuất quạt nan hoặc đậu phụ thì mới xua được “bóng tối và cái chết”? Nhìn nhận tôn giáo nông cạn thế mà ông muốn nhân danh “chủ nghĩa xã hội” để “triết luận” với thiên chúa giáo thì thật tức cười.

Cái nỗi buồn chán đạo đẩy ông cha trẻ đến chỗ muốn cởi bỏ cái áo chùng thâm:

“Còn luyến tiếc làm gì, còn tìm cách lại gần làm gì cái thế gian của những bổn phận, những mưu trá, những khổ đau. Những… ngay trong toà nhà của ông thánh Phêrô vẫn có đầy đủ mọi tấn bi kịch đã từng xảy ra ở ngoài đời.”

Nếu “ngoài đời “ cũng đầy rẫy những thối tha như trong “nhà thờ” thì đức cha cứ ở yên trong nhà Chúa tội gì về với đời? Tuy nhiên, ông cha trẻ còn cho rằng “nhà thờ” còn thua cả “ngoài đời” ở chỗ:

“Ngoài đời còn có sự sống và ánh sáng, chứ còn ở đây thì chỉ có mùi ẩm mốc và cái chết…”

Thật là một câu chửi đạo thiên chúa mang đầy tính khái quát.

Cha Thư đã chất chứa trong tâm can biết bao sự phiền muộn và khinh ghét giáo hội, lại thêm khi tới thăm gia đình ông chánh trương được bà vợ ông này “tố khổ” tội lỗi của các linh mục trước kia:

“Trình cha với cố, mấy năm Pháp nó đóng đồn ở đây, cha Hoàng Quỳnh từ Phát Diệm sang coi sóc xứ đạo này, chúng con đã tưởng tới ngày mạt thế. Cha đòi lại ruộng đất được chính phủ chia cho năm trước, rồi truy tô các chủ ruộng, thiếu một đồng cũng không được. Kẻ nào chậm chạp lập tức bị nhốt hầm ngay. Ông lão nhà con cũng bị nằm hầm cả mấy tháng. Kẻ có đạo chỉ biết kêu xin có Chúa, nhưng đấng thay mặt Chúa lại bịt chặt cả mọi đường. May mà anh em bộ đội về giải phóng sớm, chậm chút nữa không khéo các cụ ấy giết chết hết con chiên…”

Đến vợ ông chánh trương tức phu nhân của ông đứng đầu các con chiên mà còn thở ra những lời lẽ “căm thù” các đấng chăn chiên như thế, thử hỏi cái xứ đạo này có đáng “giải tán” không? Ông cha trẻ nghe chuyện không tin, hỏi lại:

“Trong nhà xứ có hầm nhốt người à ?’

Ông chánh trương xác nhận:

“Thưa, nó vốn là cái hầm chứa đồ thánh, cha Quỳnh về mới cho xây rộng ra để nhốt người… Năm anh em bộ đội về đánh bốt chúng con cho xây bịt lại luôn…”


Chỉ tưởng tượng thêm chút nữa, ông nhà văn sẽ biến nhà thờ thành bốt Tây có súng lớn, có bãi mìn chống lại cách mạng. Bà vợ ông chánh trương lại tố cáo tội ác của các cha:

“Trình cha con cứ nghĩ cái năm thằng cháu trai đậy chiếu nằm đấy mà không có tiền mua áo. Chồng chạy vào cha Hiển, vợ chạy sang ông bà Tư van vỉ khóc lóc cả buổi, rút lại vợ về tay không, chồng cũng về tay không. Mà là chánh trương với cha xứ cả đấy. Vậy là phải bó cháu bằng bao tải, bằng chiếu, chồng gánh một đầu. Vợ gánh một đầu, trời lại mưa tầm tã…”

Rõ ra là một màn con chiên đấu tố “linh mục”, tự nguyện đấu tố chứ chẳng phải do Đảng “phóng tay phát động”. Bà vợ ông chánh trương khóc sụt sùi:

“Một đời người ngoảnh đi ngoảnh lại chỉ những khổ là khổ. Kêu Chúa, Chúa cao xa quá nên nghe không thấu, đến với cha, cha xua tay bảo:” Vậy cái khó của tôi thì tôi kêu ai? Gắng mà chịu chứ!”

Những lời “tố đạo” của con chiên làm ông linh mục trẻ như bừng tỉnh. Ông ngộ ra rằng:

”Nếu các đấng bậc ấy tin là có một Thiên Chúa thật, có hoả ngục và thiên đàng thật, có sự xét xử tối hậu thật, lẽ đâu họ dám hành động càn rỡ đến thế? Hình như họ đã không còn tin ở những điều thiêng liêng đó nữa…”

Thế là ông linh mục xét lại “đức tin’ của các cha. Ông cho rằng ‘đức tin’ ấy là không có thực, là vờ vịt, giả vờ để các cha “hành nghề” linh mục:

“Với họ đi tu là một nghề nghiệp, Hội Thánh là một tổ chức xã hội, danh vị và tiền bạc vẫn có sức mạnh vạn năng, mọi tội lỗi và đam mê chỉ khác đi là đã được thánh hoá… Các đấng bậc tự cho phép thoả mãn mọi dục vọng, còn giáo hữu thì è vai gánh vác mọi khó khăn thì vừa cuồng ngạo vừa ngu ngốc, bọn áo chùng chúng ta ở giáo phận này là sứ thần của quỷ chứ đâu phải của Chúa?”

Than ôi, một khi linh mục Thư đã báng bổ đạo của chính ông như thế, đã vứt bỏ đức tin như vậy, con đường tất yếu dẫn ông tới là “bỏ đạo” về với “chính quyền”. Quả nhiên một tối cha Thư mặc ra ngoài chiếc áo chùng thâm một cái áo dài trắng – biểu tượng của sự từ chối chức linh mục và cho mời ông chủ tịch mặt trận và ông chánh trương xứ tới trịnh trọng đề nghị:

“Thưa hai cụ, hai cụ là đại diện có thẩm quyền của giáo dân xứ nhà… tôi cúi mình cầu xin hai cụ hãy rửa tội cho tôi lần nữa... vì từ nay tôi là tôi tớ trung thành của các người…”

Như vậy ông cha Thư không còn là “con cái Chúa“ nữa mà là tôi tớ của giáo dân trong mặt trận Tổ Quốc của Đảng, tức ‘đầy tớ của nhân dân” như cán bộ Đảng. Thế là ông Chủ tịch mặt trận làm lễ “rửa tội” cho ông linh mục theo kiểu chính quyền:

“ Ông vục nước đổ lên đầu cha xứ lần nữa, miệng đọc to:

“Tao rửa mày nhân danh Cha và Con và Giáo hữu xứ Nhất…”


Như vậy, lẽ ra “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”, ông nhà văn đã cho ông Chủ tịch mặt trận sửa “thánh thần” thành “giáo hữu” – tức là từ nay, ông linh mục sẽ từ bỏ “thánh thần” mà trở về với “nhân dân”.

Thật là một hư cấu vừa lố bịch vừa ấu trĩ tới mức dở hơi trong “triết luận về chủ nghĩa xã hội và thiên chúa giáo” như phê bình gia Vương Trí Nhàn tôn vinh nhà văn Nguyễn Khải .

(còn tiếp)
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7112
Registration date : 01/04/2011

Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn - Page 9 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn   Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn - Page 9 I_icon13Wed 12 Aug 2020, 07:45

CHÂN DUNG HAY CHÂN TƯỚNG NHÀ VĂN
Nhật Tuấn

(Kỳ 48)


NHÀ VĂN NGUYỄN KHẢI (20)

(tiếp theo)

Sau tháng 4 năm 1975, Nguyễn Khải cho ra lò “Gặp gỡ cuối năm” viết về trí thức ở lại Sàigòn. Khoảng năm 1980, nhà viết kịch Hồng Phi (anh ruột nhà văn Chu Lai) ghé tôi kể: “Họp trao đổi về “Gặp gỡ cuối năm” tớ phát biểu : “Anh Khải ơi, thằng Nhật Tuấn nó bảo anh đánh người ngã ngựa , không quân tử”. Tôi bảo đây là ý kiến riêng, nói ra làm gì ?

Xin nhắc lại câu chuyện tôi đã viết trong phần đầu loạt bài chân dung này. Năm 1978-79, NXB Văn Học thực hiện biên soạn Tổng tập văn học Việt Nam. Tôi được giao gặp từng nhà văn để hỏi tác giả muốn chọn những tác phẩm nào. Một buổi sáng tôi tới nhà Nguyễn Khải ở bãi Phúc Xá. Lúc đó ông đang ngồi bàn viết, trước mặt là tranh vẽ bìa cuốn “Cha và con và…” sắp in. Nguyễn Khải chọn đi chọn lại trong kho chữ của mình rồi bất chợt kêu lên :’Tung tóe mẹ nó hết rồi Tuấn ơi…”. Ông nhìn tôi thất thần rồi cười khảy: ”Nhưng không sao, tao sẽ vót nhọn gươm đâm một cú cuối cùng”. 15 năm sau , Nguyễn Khải tưởng đã quên chuyện đó. Tuy nhiên, chuyển vào định cư ở Sàigòn, tư tưởng ông dần dà đã thay đổi. Vào khoảng đầu năm 1990, vào dịp đại hội nhà văn TP Hồ Chí Minh, ngoài hành lang vào giờ nghỉ, tôi gặp Nguyễn Khải hỏi thân mật: ”Anh Khải ơi, thanh gươm của anh sao rồi ?“. Nhà văn Nguyễn Khải cười bẽn lẽn: ”Tớ thương Đảng lắm. Tớ chưa có ý định ấy…”.

Tuy nhiên, năm 2000 trong “Nghĩ muộn” , ông đã dám viết:

“Tôi là người viết báo, chính những đối tượng mà tôi tìm hiểu để viết bài cũng băn khoăn như thế, cũng có người nói thẳng việc này việc kia đã làm mất lòng người. Nhưng tôi đâu dám viết, nói cũng không dám, thành ra nói dối, viết dối và sống cũng dối. Căn bệnh nói dối bắt đầu từ lý thuyết Cách mạng dần dần tách khỏi thực tiễn Cách mạng, nhưng chỉ có một lựa chọn, hãy bênh vực đến cùng sự đúng đắn của lý thuyết đã trở thành bảo bối hộ thân của người cầm quyền.“

Ông đã nhận ra:

“Nhà chính trị, nhà văn, nhà khoa học, những người hoạt động trong lĩnh vực trí tuệ điều cốt tử nhất là phải giữ được sự độc lập trong quan sát, suy nghĩ, tổng kết, không bị bó trong cái vòng kim cô nào cả, không là tín đồ trung thành của một học thuyết nào cả để có thể phát huy hết tiềm lực trí tuệ của riêng mình dấn bước vào những cuộc dò tìm mới.“

Không đầy 6 năm sau, tháng 5 năm 2006, Nguyễn Khải đã viết xong tuỳ bút chính trị “Đi tìm cái tôi đã mất” như một bản tổng kết đời mình trong văn học. Và cũng không đầy 2 năm sau, bản “sám hối” này đã lan truyền khắp trên mạng trong nước và ngoài nước và nghe nói, vào dịp Ban chấp hành TƯ ĐCS VN họp Hội nghị 7, Giáo sư Chu Hảo đã chuyển bản “Đi tìm cái tôi đã mất” của Nguyễn Khải tới các quý vị trong Ban Bí thư Trung ương Đảng coi như tài liệu tham khảo cho Hội nghị dự định bàn về trí thức.

Đã muộn, vào tuổi “xưa nay hiếm”, Nguyễn Khải mới đặt bút viết.

Vậy là khi ở đời chẳng còn chút lạc thú gì, nhà văn mới bắt đầu…chán, chán cả công danh , sự nghiệp:

“Cũng năm ấy tôi được trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 2. Mừng thì rất mừng nhưng tôi đã nhận ra ngay đây là tấm bia mộ sang trọng cắm lên một đời văn đã tới hồi phải kết thúc. Thế là lại buồn, ra vào ngẩn ngơ cả tháng.“

Giải thưởng Hồ Chí Minh là tột đỉnh vinh quang của nhà văn cách mạng mà lại coi như “tấm bia sang trọng cắm lên một đời văn” thì quả thực nỗi chết đã ám ảnh Nguyễn Khải không rời ra rồi.

Thế rồi như phản kháng chiều hướng ngưng trệ của cơ thể, Nguyễn Khải làm một cuộc xê dịch nữa ra Bắc , trở về quê, nơi nhà văn đã lớn lên và đã trưởng thành. Thế nhưng cái mảnh đất đầy kỷ niệm đó nay cũng đã trở thành một nỗi dửng dưng:

“cái mảnh đất thân thuộc đã hoá ra xa lạ. Đạp xe cả ngày chả gặp người quen nào, hoặc có gặp nhưng đã là hai ông già ở tuổi bảy mươi làm sao nhớ lại gương mặt của nhau cái thời mới mười tám đôi mươi. …Đường phố không quen, mặt người không quen, còn lại một ông bạn thân tối ngày đi họp, đủ các thứ hội hè để ông đến họp, vẫn là cái khát khao của người đã già, đã nghỉ hưu có dịp gặp lại bạn cũ, trò chuyện là chính, nhắc lại chuyện ngày xưa là chính, rồi than thở, đủ thứ than thở, chuyện nhà chuyện nước. Cũng buồn nhỉ ? Chuyện người già có vui bao giờ, người đã xong một việc có làm gì cũng không thể vui.”

Rõ ra là một cảm giác rã rời, không còn tha thiết, gắn bó , không còn bồi hồi kỷ niệm, không còn nghĩ ngợi lo toan trách nhiệm với quê nhà. Nếu như ngày xưa, trong tiểu thuyết “Chủ tịch huyện” chân dung những cán bộ xã, huyện , tỉnh được vẽ vời thành những “con người thời đại” đầy năng lượng, xốc vác, năng nổ vì dân vì nước thì bây giờ, dưới mắt nhà văn chỉ còn lại là các “quan tham” mặt mũi đầy…”thịt”:

“Vì tôi là người có gốc địa phương nên tỉnh uỷ có gặp và mời ăn một lần cho phải phép. Nhưng nhìn những gương mặt quan chức của tỉnh hôm nay mà kinh ngạc. Mặt người nào cũng đầy những múi thịt, sần sùi, nói nhiều, cười to, lời lẽ nhạt nhẽo, dung tục, và không bao giờ nhìn thẳng vào mặt mình để nói, cứ như là đang nói với một ai khác ngồi cạnh mình hoặc ngồi sau mình.“

Dường như Nguyễn Khải đã hết e dè, hết giữ gìn, hết sợ ngay cả quan đầu tỉnh ông cũng hết nể vì như ngày xưa:

“Bữa sắp về Hà Nội, bí thư tỉnh uỷ lại mời gặp, không phải là gặp chính thức mà là cùng ngồi ăn sáng với ông vì ông cũng đang bận. Buổi gặp vừa hình thức vừa khó chịu vì chỉ có người lãnh đạo của tỉnh nói, nói như người rao hàng, mắt nhìn đâu đâu, bụng nghĩ đâu đâu. Tôi chỉ còn nhớ một chuyện, có một ông tướng, là danh tướng, người địa phương, có đem một giống hoa lạ từ Hà Nội về, tự tay ông trồng ở vườn hoa của tỉnh uỷ vì phải chọn đúng ngày, đúng giờ, cả đúng hướng nữa mới đem lại thịnh vượng, hạnh phúc cho dân trong tỉnh. Thật vậy sao ?“

Khác hẳn ngày xưa, nhà văn Nguyễn Khải đi đến đâu cán bộ Đảng, chính quyền cũng xúm lại hỏi han, mừng rỡ, bây giờ hầu như chẳng mấy ai quan tâm tới nhà văn:

“Tôi về một xã, xã cho tôi ở nhà một anh bưu tá, lúc rảnh rỗi hỏi chuyện gì anh cũng bảo không biết. Ở xã ba ngày, đảng uỷ, uỷ ban không ai tiếp cả.“

Và thật bất ngờ, cái anh Chủ tịch xã có tới nhưng nom anh thật chẳng khác gì một anh lái heo:

“Có một buổi tối có một anh chàng to béo đến chơi với gia đình, cả vợ lẫn chồng nhà chủ ăn nói thưa gửi, bộ điệu khúm núm. Anh ta ngồi ưỡn người trên ghế tựa, hai chân xoạc rộng, hai bàn tay đặt lên bụng, nói hỏi trống không, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn tôi nhưng không hỏi gì, chào cũng không, mắt nhìn cứ lừ lừ, mà hắn chỉ đáng tuổi con tuổi cháu. Tôi cứ nghĩ tay này hẳn là dân buôn bán ở tỉnh có họ hàng gì với anh chủ nhà, tạt qua chốc lát rồi đi. Nhưng anh bưu tá lại bảo đó là ông chủ tịch xã. Lại một ngạc nhiên nữa !“

Vậy là trở lại quê cũ, con người cảnh vật đã đổi thay, khác trước hoàn toàn và ông nhà văn có cái nhìn “tổng kết”:

“Trong mấy ngày xuống xã vừa vui vừa buồn. Ai cũng giàu có hơn trước, nấu cơm bằng nồi cơm điện, tối xem tivi mầu, giờ rảnh thì xem phim bộ. Mỗi xóm đều có cửa hàng cho thuê băng vidéo, có gái điếm cho ngủ chịu đến mùa trả bằng thóc, có cờ bạc, có hút thuốc phiện và chích heroin, thành phố có gì ở làng quê đều có, cả hay lẫn dở, dở nhiều hơn hay.“

Chuyến đi đó càng làm Nguyễn Khải nhận rõ gánh nặng của tuổi già đã chất lên vai ông và từ nay mọi chuyện đã khác:

“Sang tuổi 70, mọi hoạt động của con người đều chậm, đều kém, riêng cái chuyện viết lách của tôi vẫn giữ được phong độ gần như xưa, vẫn viết rất nhanh, riêng cái nhìn thì trào lộng nhiều hơn, ngậm ngùi nhiều hơn. Nó là thứ hương vị thơm ngát chắt ra từ hơn bảy mươi năm được làm người.“

Tuổi 70 như Nguyễn Khải vừa diễn tả dường như đã trở thành một cái mốc, từ đó ông có những nghĩ ngợi vượt lên trên khỏi những chuyện “xã hội” – chuyện hàng xã, hàng huyện, ông nghĩ tới những chuyện cao xa hơn. Ông nghĩ về các thứ chủ thuyết, chủ nghĩa và phải chăng những suy nghĩ sau đây là nhắm vào học thuyết Mác Lê:

“Học thuyết là do con người làm ra, một trí tuệ sáng láng nhất vẫn cứ bị ràng buộc bởi nhiều vòng tự giác và không tự giác của thời thế, của cuộc đời. Bởi vì họ không thể là Thượng Đế để biết hết vô vàn nguyên nhân những tác động qua lại, uốn éo, bất ngờ của nó đưa đẩy mọi sự vật tới những thay đổi rất nhỏ, không mấy ai chú ý, cuối cùng là những biến thiên cực lớn. Chả có học thuyết nào dự đoán đúng những gì sẽ xảy ra trong tương lai và cũng chẳng thể dự đoán được cái kết cuộc của nhiều sự việc đang xảy ra trong hiện tại. Mọi lời tiên tri đều có tính mê sảng, đồng cốt. Dành cả một thời thanh xuân để tin vào những lời tiên tri ấy, về già nhìn lại cái tài sản tinh thần thâu góp một đời chỉ là một cái kho chứa đủ tạp nham chẳng có một chút giá trị gì.”

Có nhiều cơ sở kết luận Nguyễn Khải nhắm vào cái chủ nghĩa bắt ông đội lên đầu cái vòng kim cô suốt một đời cho tới tận lúc chết vẫn chưa được tháo ra – chủ nghĩa Mác-Lênin . Cho đến tuổi 70 ông mới nhận ra đã dành cả một thời thanh xuân để tin vào chủ thuyết đó mà thực ra nó chỉ là một cái “kho tạp nham” chẳng có chút giá trị gì. Sám hối của “con chiên” Nguyễn Khải trước các Giáo chủ về mặt tư tưởng như vậy là đã không còn nhân nhượng, không còn nể nang mà đã quyết liệt sổ toẹt đi hết.

(còn tiếp)
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7112
Registration date : 01/04/2011

Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn - Page 9 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn   Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn - Page 9 I_icon13Fri 14 Aug 2020, 10:17

CHÂN DUNG HAY CHÂN TƯỚNG NHÀ VĂN
Nhật Tuấn

(Kỳ 49)


NHÀ VĂN NGUYỄN KHẢI (21)

(tiếp theo)


Chắc chắn phải sinh ra, lớn lên, bú mớm “sữa” của chủ nghĩa Mác-Lênin mới có nhận xét “gan ruột” như Nguyễn Khải khi ông hạ bút:

“Tính hài hước là cái thứ mà người cộng sản ghét nhất vì nó có thể biến mọi chuyện thiêng liêng thành trò cười.” 

Bởi vậy mọi chuyện tiếu lâm, chuyện cười trước khi Đảng ra đời thì được coi là “vốn quý dân tộc” còn ra đời sau khi “đời ta có Đảng” thì bị cấm đoán, rượt đuổi có khi tù tội như nhà thơ Tuân Nguyễn với hai câu thơ:

“ Tiến lên ta quyết tiến lên
Tiến lên ta gọi cấp trên bằng…thằng”.


Để nói rõ hơn việc “biến mọi chuyện thiêng liêng thành trò cười.”, ông giải thích:

“Học thuyết xã hội đã phải đội lốt tôn giáo để tồn tại thì mọi thứ thuộc về nó đều là thiêng liêng. Lãnh tụ thành thần thánh, lời nói bài viết của họ thành kinh bổn, cuộc sống cá nhân và xã hội của họ đầy ắp những chuyện phi thường. Hình ảnh của Lenin và Stalin, của Mao Trạch Đông và Kim Nhật Thành và lời nói của các vị ấy bao trùm lên toàn bộ cuộc sống tinh thần của các quốc gia họ cầm quyền, làm gì, nói gì, nghĩ gì đều không thoát ra khỏi cái bóng che ấy.. “

Vậy một cách không trực tiếp, Nguyễn Khải nói chủ nghĩa cộng sản chẳng qua cũng là một thứ tôn giáo vì những lãnh tụ của nó đều đã thành “thần thánh” như Lênin, Staline, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành… tất nhiên ông không dám nói tới Hồ Chí Minh. Và một khi “chủ nghĩa cộng sản” đã trở thành tôn giáo thì tội ác của nó ghê gớm hơn tôn giáo nhiều:

“Vì tôn giáo là niềm tin, là thói quen, là tập quán, là vâng phục, là ở thế giới này chỉ có một chân lý, ngờ vực nó, đặt quá nhiều câu hỏi về nó chỉ là kẻ phản đồ, phải bị trục xuất khỏi cộng đồng, phải bị cách ly, bị ngồi tù để tránh mọi sự truyền nhiễm có thể.”

Tức là dưới cái bóng của lãnh tụ, con người đã bị tan biến thành những giun dế thấp nhỏ và run sợ:

“Bài hát về lãnh tụ trang nghiêm như thánh ca, người hát có dáng điệu sùng bái như tín đồ. Cái thế giới cá nhân của các công dân đã bị đốt cháy, đã thành tro bụi và tan biến trong hương khói của đền đài…”

Trong cái đám quần chúng giun dế ấy, tội nghiệp nhất là những người trí thức, họ biết trốn vào đâu trong cái biển mê cuồng và tăm tối đó:

“Trong không khí ngùn ngụt lửa cháy cùng với tiếng sóng hoan hô khi gần khi xa không lúc nào dứt, vậy những người làm việc bằng trí tuệ sẽ tìm đâu ra một khoảng trời yên tĩnh và tự do để suy nghĩ về những công trình một đời của riêng mình..”

Ngay cả khi vạch trần thân phận trí thức dưới chế độ cộng sản, nhà văn Nguyễn Khải vẫn còn len lét sợ không dám gọi trực tiếp tên “trí thức” mà phải nhái thành “ những người làm việc bằng trí tuệ” đủ biết nỗi sợ trong ông vẫn còn dai dẳng biết chừng nào. Cái yêu cầu phải “nghĩ trong những điều Đảng nghĩ” đối với ông thật nực cười khi ông dám huỵch toẹt Đảng còn lâu mới hiểu nổi trí thức:

“Người cộng sản sẽ không bao giờ hiểu được cách làm việc cá nhân, đơn độc, xa rời quần chúng, xa rời các phong trào cách mạng có tính địa phương của các nhà trí thức thấm đẫm “tư tưởng tư sản” ấy. Phải cải tạo họ bằng các chuyến đi thực tế, bằng các lớp học chính trị ngắn hoặc dài ngày, và bằng cả những lần được gặp gỡ thân mật với lãnh tụ để có thêm lòng tin vào những lý do phải tự phủ định, để khẳng định sự nghiệp vĩ đại của quần chúng. “

Chính vì không hiểu nổi hoặc cố tình không hiểu, Đảng đã đề ra những yêu cầu thật quái gở đối với trí thức:

“Phải bỏ hẳn những tư tưởng triết học và thế giới quan phù hợp với cách nghĩ, cách nhìn, cách đánh giá của riêng mình, đã được chứng minh qua những trải nghiệm của bản thân để nhập vào dòng tư tưởng chính thống, cái triết học chính thống, cách nhìn nhận và đánh giá chính thống, xét cho cùng chả liên quan bao nhiêu tới cái tâm sự đang ấp ủ, tới những điều cần phải viết, và trên hết, máu thịt hơn hết là những phát hiện độc đáo của riêng mình trong lịch sử, trong văn hoá, trong nhân sinh.”

Vậy tất cả những gì “khác biệt” với tư tưởng của Đảng đều phải bị triệt bỏ. Toàn bộ xã hội chỉ duy nhất được phép có một dòng “tư tưởng chính thống, cái triết học chính thống, cách nhìn nhận và đánh giá chính thống “mà hồi đương chức ông Bộ trưởng VHTT Lê Doãn Hợp gọi nó là “lề đường bên phải”. Vậy nhưng nếu chiều theo Đảng thì trí thức – ông nhà văn đâu còn là mình ? Nhà văn Nguyễn Khải không dám “chống lại” mà chỉ dám “than vãn”:

“Mất những cái đó thì còn sống tiếp làm gì, còn viết tiếp làm gì nên một số đã phải đổi nghề, bỏ nghề sáng tạo sang nghề cạo giấy, làm một anh công chức hiền lành, mẫu mực, vừa có quyền vừa có lợi. Cái danh cái lợi cũng có sức quyến rũ người ta lắm, qua nhiều năm tháng nó đã trở thành ý nghĩa quan trọng nhất để sống, sống với vợ con, với bạn bè, với xóm làng, với xã hội.“

Đó là một lời than “nhói lòng” một lời cảnh báo cho an nguy dân tộc khi kẻ sĩ tự chối bỏ vai trò của mình nhưng lại là một “tiếng đàn gẩy tai trâu“ bên những ông quan văn hoá văn nghệ của Đảng vừa dốt nát lại vừa vô cảm.

Tuy nhiên không phải văn nghệ sĩ nào cũng đổi nghề thành “cán bộ cạo giấy”, còn những người không chịu buông bút vì không thể kiếm sống bằng nghề khác đành cam chịu uốn ngòi bút theo yêu cầu của Đảng và lắm khi cũng bị đòn vọt trong những vụ án văn chương vì dám “buông thả mình theo cảm xúc tự nhiên “mà đi trệch khỏi lề đường bên phải nên bị trừng phạt khiến tài năng bị thui chột:

“Còn một số nhỏ vì không làm nghề gì khác ngoài cái nghề văn chương nên đã đầu quân về các nhà xuất bản, tuần báo, tạp chí tiếp tục làm nghề nhưng phải viết trong khuôn phép đã quy định, cũng có đôi lúc đã tự buông thả theo những cảm xúc tự nhiên hoặc bất chợt bị mê hoặc bởi những hình tượng nghệ thuật quá đẹp đã trở thành những nạn nhân oan uổng của nhiều vụ án văn tự, nghĩ lại mà tiếc cho nhiều người, mộng mơ nhiều thì tài năng cũng nhiều đều bị thui chột ngay từ những năm còn trẻ.”

Vậy là mấy chục năm qua, mấy chục triệu con người Việt Nam phải sống theo một dòng tư tưởng, đi theo một lề đường bên phải, tuân theo một cách đánh giá và nhìn nhận và theo nhà văn Nguyễn Khải đó là “một tai hoạ khôn lường”:

“Trong suốt ba chục năm chiến tranh, mỗi người Việt Nam đã quên hẳn những nhu cầu vật chất và tinh thần của riêng mình để được cùng sống như mọi người, cùng cảm nghĩ như mọi người, sống cùng sống chết cùng chết. Học thuyết Mác và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản được tôn vinh đến tuyệt đối. Vì số phận cá nhân gắn liền với tập thể với dân tộc, trùng hợp khít khao với các mục tiêu chính trị của đảng cầm quyền và những tham vọng của người lãnh đạo. Nhưng cả mấy thế hệ cùng tham gia chiến tranh, sống trong một môi trường xã hội, chính trị của một đất nước đang có chiến tranh cũng là một tai hoạ khôn lường.“

Cái tai hoạ khôn lường đó đã tác hại tới toàn thể dân tộc ra sao. Ta hãy coi nhà văn Nguyễn Khải phân tích về sự xoá bỏ “cá nhân” trong thời kỳ chiến tranh:

“Trong chiến tranh tập thể gạt phắt cá thể sang một bên, có thể giẫm đạp lên nó cũng chả mất mát gì, vì chiến tranh đòi hỏi sự nhất trí, cần sự ra lệnh đúng lúc của một cái đầu chứ không có thời gian bàn luận, sai đúng có sự tham gia của nhiều cái đầu. Vả lại nếu người lãnh đạo tính toán sai lập tức sẽ bị đối phương trừng phạt ngay, không sớm tỉnh ngộ thì cả sự nghiệp có thể bị đổ vỡ.“

Nhưng khi chiến tranh kết thúc rồi cái “cá nhân” vẫn bị xoá nhoà trong đám đông “quần chúng nhân dân” – tất nhiên là “quần chúng cách mạng” của Đảng:

 ”Đến thời hoà bình thì chỉ còn dân chúng đối mặt với chính quyền, quyền lợi khác nhau, nguyện vọng khác nhau, có trăm ngàn thứ khác nhau trong một cộng đồng: dân tộc, tôn giáo, văn hoá, điều kiện sống… trong một thời gian dài tạm quên đi, tạm gác lại để lo việc lớn, lúc này nhất loạt trỗi dậy, đòi hỏi và mỗi cá nhân đều thấy cái mình đòi là quan trọng nhất, bức thiết nhất. Độc lập có rồi, tự do có rồi, vậy cái hạnh phúc của mỗi chúng tôi nhà nước định quên sao?

Nhưng để đòi hỏi cái quyền sống cho cá nhân đó, toàn xã hội đã bị bịt miệng:

“Nhưng người dân phải tìm ra cơ hội nào để nói, đến chỗ nào để nói, dùng phương tiện gì để nói. Nói với tổ chức, với các đoàn thể mình là một hội viên, không ai nghe cả. Nói trên báo chí không báo nào dám đăng. Viết kế sách, thỉnh nguyện gửi lên các cấp có thẩm quyền thì chả bao giờ nhận được trả lời. Vậy phải làm gì nhỉ? Làm loạn không dám, biểu tình đúng pháp luật cũng chưa có tiền lệ. Người đứng đắn bộc lộ sự không bằng lòng của mình tại các cuộc họp lập tức bị những kẻ cơ hội trấn áp tức thì, bị cơ quan an ninh ghi vào sổ đen, thăng chức nên lương từ nay không thể, chỉ còn đợi ngày về hưu thôi.”

Vậy thì lương tri của dân tộc sẽ được cất lên từ diễn đàn nào?

(còn tiếp)
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7112
Registration date : 01/04/2011

Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn - Page 9 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn   Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn - Page 9 I_icon13Mon 17 Aug 2020, 08:15

CHÂN DUNG HAY CHÂN TƯỚNG NHÀ VĂN
Nhật Tuấn

(Kỳ 50)


NHÀ VĂN NGUYỄN KHẢI (22)

(tiếp theo)

Một khi các cơ quan truyền thông đều nằm trong tay Đảng, một khi 700 tờ báo trong cả nước chỉ có một ông Tổng biên tập – đó lại là một ông “cảnh sát văn nghệ” đầu óc vừa hũ nút , vừa ngạo mạn lúc nào cũng lăm lăm cái còi thổi bắt cả 85 triệu con người đi vào một “lề đường” quy định là…”lề bên phải”, vậy thì tiếng nói của sự bất bình, tiếng nói của sự phản kháng trước mọi cái ác, cái bất lương, cái ngu dốt của Nhà nước này sẽ được cất lên từ “cái lề” nào?

May thay dân tộc Việt Nam còn có truyền thống sáng tác…chuyện tiếu lâm. Nếu như ngày xưa “chuyện tiếu lâm” là vũ khí đánh vào cái thối nát, hủ lậu của chế độ quan lại phong kiến thì bây giờ nó nhằm vào các tầng lớp cán bộ từ sơ cấp đến trung cao cấp, và cao hơn nữa chuyện tiếu lâm ngày nay không chỉ nhằm vào các “thói hư tật xấu”, nó đã được dân chúng “nâng cấp lên” thành một thứ tiếu lâm…chính trị:

“Nhưng dân chúng vẫn có cách xả nỗi bất bình của họ bằng cách sáng tạo ra nhiều chuyện tiếu lâm chính trị. Trong cả nước không đâu có nhiều chuyện tiếu lâm bằng Hà Nội vì nó là thủ đô hành chính, mọi chuyện cung đình vừa thật vừa giả tràn gập các quán cà phê mỗi ngày. Không ra được báo viết thì làm báo mồm vậy, lời nói bay đi lấy đâu làm bằng, tưởng như vô hại mà hại vô kể. Vì nó sẽ thành dư luận, không ai bắt giam được dư luận, giết được dư luận, cái dư luận hỗn tạp, vô sở cứ mở rộng mãi ra, bao trùm mọi việc mọi người trở thành mặt bằng mới để đặt ra các tiêu chuẩn sống cho một thời.”

Tiêu biểu cho cái loại “tiếu lâm chính trị” này là truyện ba đồng chí “Ba Đồng Chinh“ đi máy bay. Truyện rằng trong một chuyến bay chuyên cơ , đồng chí Ba (tức Ba Duẩn – Lê Duẩn), đồng chí Đồng (Phạm Văn Đồng), đồng chí Chinh (tức Trường Chinh) bàn nhau làm sao cho dân sướng? Đồng chí Ba nói giờ tôi có một bao tải tiền vứt xuống hẳn dân sẽ sướng lắm. Ba đồng chí còn đang bàn nhau nên vứt xuống cái gì thì anh lái máy bay quay xuống xin thưa rằng:

”Báo cáo, bây giờ tốt nhất là vứt cả ba đồng chí xuống thì là dân sướng nhất đấy ạ…”

Chính sống trong một xã hội mọi kỷ cương phép nước đều trong tay cán bộ Đảng, ngay cả hiến pháp cũng như pháp luật đều do Đảng nắm giữ, cá nhân không được phép tham dự, bàn thảo gì dẫu là đóng góp cho lợi ích xã hội nếu không nằm trong sự kiểm soát của Đảng thì cũng là…”thế lực phản động”. Bởi vậy đã nảy sinh ra bệnh “thờ ơ”, mặc- kệ – nó phá huỷ ý thức công dân, tinh thần trách nhiệm với cộng đồng:

“Cái tiêu chuẩn mới có tên gọi là “mặc kệ nó”. Nó là người khác, là nhà nước, là bất cứ ai, bất cứ việc gì không có quan hệ trực tiếp tới các lợi ích cá nhân mình. Cái cá thể sau một thời gian dài nhập vào cái tập thể đã tự tách ra khỏi nó để tìm lại mình. Nhưng cách tìm lại ấy thường thuộc về phía tiêu cực của con người, lấy lợi ích bản thân làm mục tiêu nên không tạo ra được sự thăng hoa, sự tự do chân chính, là môi trường cho mọi sáng tạo độc đáo, vừa thấm đẫm tính cá nhân vừa thấm đẫm tính thời đại ở yếu tố tiền phong của nó.”
Cái con người “mặc kệ nó” đó chính là dòng dõi chân truyền của “con người mới xã hội chủ nghĩa”, bởi lẽ chỉ có trong một xã hội không có “tính công dân” như xã hội xã hội chủ nghĩa mới sản sinh ra thứ người “mặc kệ nó” như vậy.

Mặc dầu ở Việt Nam còn chưa biết bao giờ mới có tự do nhưng quan sát sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa và sự hồi sinh sau đó, Nguyễn Khải phân biệt hai loại tự do: tự do trong các nước đã từ lâu có chế độ dân chủ và tự do tại các nước mới thoát khỏi chế độ cộng sản:

“Ở đây tôi muốn nói thêm, tự do được nuôi dưỡng tự nhiên trong môi trường dân chủ là tự do của cống hiến, còn tự do vừa thoát ách chuyên chế thường có tính phá hoại, trả thù, để bù lại những năm tháng bị tước đoạt. Cứ so sánh về tự do của một xã hội dân chủ nhiều trăm năm như Hoa Kỳ và tự do vừa giành được của nước Nga Xô Viết là đủ rõ. Vì nó không được chuẩn bị, không được giáo dục, mọi bản năng của con người được xổng ra nhất loạt sẽ gây hỗn loạn cho cộng đồng, nhiều hơn là xây dựng. Dân chủ và tự do phải có thời gian để làm quen, để học cách sử dụng và bảo vệ, phân được ranh giới giữa cá nhân và cộng đồng, thành pháp luật, thành tập quán mới có thể đơm hoa kết trái được.”

Phải chăng cái thứ “tự do” có “tính phá hoại, trả thù, bù lại những năm tháng bị tước đoạt” phần nào đang hoành hành trong cái đám con ông cháu cha dùng tiền tham nhũng của bố ra sức ăn chơi đập phá, mặc sức hưởng thụ, bất chấp đạo lý xã hội.

Nguyễn Khải phê phán cách nhìn nhận xã hội tư bản theo hệ tư tưởng “chính thống của Đảng”:

“Ở xã hội tư bản mà chúng ta vốn có thành kiến là rất xấu xa lại thường hay cho những tiếng kêu cứu, bảo vệ những giá trị truyền thống của cá nhân, vì đồng tiền đang làm mất phẩm giá của con người, phá vỡ nền tảng đạo đức, làm rối loạn các mối quan hệ xã hội. Con người được sống no đủ, trong tiện nghi mà vẫn đối địch với nó, muốn thoát ly khỏi nó vì không được thoả mãn những nhu cầu về tinh thần. Ta hay lấy những chuyện đó để làm chứng một cách hả hê cho sự tha hoá của con người sống dưới chế độ tư bản.”

Thực ra “Những cái giá trị cá nhân chỉ được nhìn nhận, được tôn vinh ở những xã hội tương đối tự do, các mối quan hệ giữa người với người tương đối tốt đẹp” và xã hội đó không ở đâu khác chính là xã hội tư bản.

Thế còn xã hội cộng sản thì sao?

Đáng sợ nhất là con người lúc nào cũng bị rình rập, bị sẵn sàng kiểm điểm phê bình, giáo dục chính trị tư tưởng:

“Vậy các công dân của chế độ xã hội chủ nghĩa thì sao?”

“Cuộc sống tập thể đã nhấn chìm cuộc sống cá nhân, cuộc sống trong chiến tranh đã xoá nhoà mọi thói quen của cuộc sống thời bình. Lúc nào cũng có kẻ thù rình rập đâu đó để tìm cớ lật đổ chế độ bằng vũ trang, hay bằng diễn biến hoà bình. Lúc nào cũng được đồng chí trong chi bộ, bàn bè cơ quan giám sát mọi tư tưởng và hành vi để ngăn chặn mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân của mỗi thành viên.”


Cái điều kinh khủng nhất là Đảng luôn luôn gieo giắc sự nghi kỵ trong toàn dân để rồi người với người luôn luôn phải dè chừng, đối phó nhau cho dù phương châm cao nhất về quan hệ xã hội lúc nào cũng đề cao “ người với người là bạn“(!):
“Lúc nào cũng phải đề phòng, phải đề cao cảnh giác cách mạng, không tin cậy bất cứ ai, kể cả bạn bè.”

Ngẫm nghĩ thân phận mình, thân phận của những đồng nghiệp cầm bút, Nguyễn Khải phải kêu lên : “Chỉ có một điều lạ, là trong hoàn cảnh sống không có một tí tự do nào cho cá nhân mà chúng tôi vẫn sống được, lại còn viết văn làm thơ được!”

Ông nhà văn quên béng một điều: đúng là “không có tý tự do nào mà chúng tôi vẫn viết văn làm thơ được ” nhưng mà là thứ văn thơ xu thời, thứ văn thơ phục vụ chính trị, thứ văn thơ dối trá kích động con người thực hiện những mục tiêu đầy tham vọng coi rẻ tính mạng con người của Đảng, thứ văn chương “minh hoạ” mà nhà văn Nguyễn Minh Châu đã “đọc lời ai điếu cho nó”.

Mặc dầu bộ máy tuyên truyền của Đảng ra sức bôi xấu “80 năm thuộc địa của Pháp” nhưng Nguyễn Khải lại nhìn nhận đó mới chính là giai đoạn chói sáng của văn học nghệ thuật:

«Suốt 80 năm sống dưới ách đô hộ của Pháp, chúng ta vẫn đặt được những viên gạch đầu tiên cho nền văn xuôi Việt Nam. Những truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng sự, tuỳ bút của thời ấy được in trên các tuần báo hoặc xuất bản thành sách nay đọc lại vẫn thích thú, vẫn làm ta cảm động. Nhiều truyện được đọc từ tuổi niên thiếu vẫn ám ảnh ta tới tận lúc tuổi già, và một loạt các nhà thơ, nhà phê bình văn học của cái thời gọi là thuộc địa đã trở thành những tên tuổi lớn tồn tại mãi mãi trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc. Làm thân nô lệ mà vẫn trỗi lên thành những tài năng lớn là sao? Không chỉ trong văn chương mà còn cả trong mỹ thuật, trong kịch nghệ. Không chỉ trong văn nghệ mà trong cả khoa học, giáo dục, trong kinh doanh theo kiểu tư bản và trong nhiều nghề truyền thống. Tất cả đều được bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ, được phát sáng, được bộc lộ mạnh mẽ các tài năng cá nhân và họ đã trở thành người khai sáng, người mở đường, thành tổ nghề, không chỉ có tài lớn mà còn có đức lớn, là những nhân cách kiểu mẫu cho con cháu, cho giống nòi, đều là chuyện có thật cả, không thể bóp méo hoặc bác bỏ.»

Và ông nhà văn phải đau đớn thốt lên câu hỏi không chỉ dành riêng cho Đảng mà cho cả giới văn nghệ sĩ:

«Làm thân nô lệ (thời pháp thuộc) mà vẫn trỗi lên thành những tài năng lớn là sao?»

Và đến khi chuyển sang «đời ta có Đảng» thì các «tài năng lớn» đều bị thui chột. Vậy là sao?

(còn tiếp)
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7112
Registration date : 01/04/2011

Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn - Page 9 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn   Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn - Page 9 I_icon13Tue 01 Sep 2020, 09:49

CHÂN DUNG HAY CHÂN TƯỚNG NHÀ VĂN
Nhật Tuấn

(Kỳ 51)


NHÀ VĂN NGUYỄN KHẢI (23)

(tiếp theo)

Đó chính vì khi « đời ta có Đảng » xã hội chuyển sang thời kỳ tăm tối còn hơn cả phong kiến:

«Còn thời bây giờ là một xã hội mạnh ai nấy lo, người người lấn chen nhau, tranh cướp nhau vì những tham vọng không được kìm nén, kỷ cương cũ bị xoá bỏ, kỷ cương mới chưa kịp hình thành, mọi sự đều phải làm lại từ đầu từ quốc kỳ, quốc ca, quân kỳ… Nhưng xem ra chả có mấy ai than thở về hiện trạng hỗn loại, họ cảm thấy thoải mái, bằng lòng với cuộc sống đầy bất trắc của hiện tại vì lần đầu tiên họ được lựa chọn cách sống của mình, thắng thua tự mình gánh chịu, cũng là lần đầu họ biết nhận ra cái “bản lai diện mục” của chính họ.»

Nhà văn Nguyễn Khải cả gan ca ngợi xã hội tư bản là mảnh đất ươm những tài năng:

«Cách tổ chức xã hội của giai cấp tư sản dẫu có xấu xa tới tận đâu cũng vẫn tạo được những môi trường tự do và dân chủ hơn, mở ra những cơ hội mới cho sự phát triển tài năng của mọi cá nhân và của cả cộng động.»

Còn xã hội «xã hội chủ nghĩa», chẳng hạn như Liên xô, lại là mảnh đất chết tiêu diệt tài năng vì tính chất «trại tập trung» của nó:

«Lại lấy thêm một ví dụ về nước Nga trong non một thế kỷ qua. Dưới chế độ Xô Viết, người dân Nga được nhà nước chăm lo hoàn toàn từ khi sinh đến khi chết, nhưng họ vẫn không thích, vẫn thấy ngột ngạt vì đó là cuộc sống không phải lo nghĩ của một trại tập trung, con người bị đánh số, bị xếp theo khuôn, theo hàng, chỉ nhìn thấy đám đông chứ không thể nhìn ra từng con người riêng biệt, kể cả trong triết học và văn chương.»

Đó là một bước tiến lớn trong hành trình tư tưởng của Nguyễn Khải. Ông đã nhìn ra được cái cốt lõi của chủ nghĩa cộng sản: «đánh đồng mọi giá trị», trộn lẫn cái cao thượng với cái ti tiện, đồng mẫu số chung toàn bộ xã hội khiến cái «cá nhân» bị tiêu diệt chỉ còn lại bản mặt của đám đông.

Trong một xã hội như thế chẳng riêng gì văn chương mà các ngành nghệ thuật, khoa học khác cũng đều ngắc ngoải hoặc biến thành dị dạng. Từ đó ông công nhận những mặt sáng của chế độ thực dân:

«Chế độ thực dân tuy tàn bạo nhưng nó là sản phẩm của thời đại này nên nó vẫn có khả năng ươm cấy nhiều nhân tố tích cực, có giá trị bền vững cho những xứ sở nó đô hộ.»


Những nhân tố tích cực, những «giá trị bền vững» đó chính là những thành tựu văn hoá nghệ thuật và khoa học kỹ thuật đã được «ươm cấy» trong lòng xã hội thực dân.

Tiếp tục nhận diện cái xã hội «xã hội chủ nghĩa» nơi ông lớn lên và đang sống, Nguyễn Khải vạch ra cái bản chất «toàn trị», «chuyên chế» của nó:

«Bất cứ nhà nước nào lấy học thuyết xã hội hoặc tôn giáo thay cho hiến pháp thì trước sau sẽ chuyển đổi thành nhà nước chuyên chế.»

Tại sao như vậy? Chính là vì trong toàn xã hội không phải ai cũng đồng thuận với cái «học thuyết» đó. Và ý chí phản kháng, tất nhiên bị đàn áp – đó là bi kịch trước hết của trí thức:

«Vì trong hàng triệu công dân sẽ có nhiều nhóm người không cùng lòng tin, không cùng tín ngưỡng với nhà cầm quyền. Họ trở thành những cộng đồng đáng ngờ, sẽ bị phân biệt đối xử, trước hết là mất quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do xuất bản. Đó là nói về tầng lớp trí thức.»

Thế còn thường dân? Họ cũng bị tước đoạt «kiểu sống» của họ để nhét chung vào một rọ «cách sống kiểu mẫu chung của xã hội»:

«Còn những người làm các nghề khác, chả dính dáng gì đến sách vở cũng sẽ cảm thấy bị tước đoạt nhiều quyền tự do, như quyền tự do lựa chọn cách sống của riêng mình chẳng hạn. Đã độc quyền về tư tưởng tất nhiên sẽ độc quyền cả về cách sống, vì mỗi học thuyết đều có phần đạo lý của nó, nó cần tiêu chuẩn làm người đã được lý tưởng hoá của nó để làm khuôn mẫu cho tu sĩ và tín đồ.»

Đó là tình trạng hiện nay của xã hội Việt Nam khi «toàn Đảng toàn dân» được phát động học tập theo «gương đạo đức của bác Hồ», còn trước đây là «sống học tập theo hình mẫu con người mới xã hội chủ nghĩa».

Trí thức và thường dân đã vậy, thế còn các nhà văn – tín đồ trung thành của Đảng, họ sống và viết ra sao trong xã hội «chuyên chế» đó:

«Lại nói về những tín đồ trung thành của chủ nghĩa Mác, những chiến sĩ theo cách mạng từ thuở mới lập nước là đám văn nghệ sĩ chúng tôi cũng “sống không dễ” trong sự viết lách. Viết đúng luật lệ thì chỉ có hai chủ đề: căm thù và hy sinh. Cũng chỉ có ba loại người được tôn vinh: công, nông, binh. Cái thế giới mênh mông, nhiều màu sắc ngày một thu hẹp và chỉ có hai màu: đỏ là quân ta, đen là quân địch.»

Cái bi kịch lớn nhất của người cầm bút là sự thắt buộc, xét nét trong sáng tác, giản lược hoá đời sống thành những sơ đồ cứng nhắc và đơn điệu:

«Văn chương cách mạng thoạt đầu cũng lạ so với văn chương thời trước nên được bạn đọc trẻ hoan nghênh. Nhưng cứ phải đọc mãi một vài đề tài quen thuộc, một vài loại người quen thuộc và những tâm trạng rất quen thuộc ngay những bạn đọc trung thành cũng phải chán. Chính chúng tôi cũng tự chán mình. Tài đã kém lại bị bó chặt từ đầu tới chân, xoay tới xoay lui cũng chỉ có một vòng quay, ú ớ một cách nói, càng viết càng nhảm cũng là phải.»

«Xoay tới xoay lui cũng chỉ một vòng quay, ú ớ một cách nói» – nhà văn khác nào nghệ sĩ múa ballet bị đẩy ra sân khấu mà lại bị buộc hai chân với nhau chỉ bằng một đoạn giây. Vậy sao mà nhảy?

Trong giới cầm bút, chắc không ai thấm thía cho bằng Nguyễn Khải cái ê chề, nhục nhã của một nhà văn bị buộc phải viết theo «yêu cầu chính trị»:

«Một nền văn nghệ phải phục vụ chính trị (mà chính trị thì sớm nắng chiều mưa) là đã mất một nửa tự do rồi, lại phải phục chính trị theo nghĩa các chủ trương, chính sách của từng thời kỳ thì còn gì là tự do nữa. Ấy là chưa nói mỗi cấp cầm quyền lại có những yêu cầu riêng, những cách đối xử riêng, lúc nhu lúc cương, cái thằng nghệ sĩ chả còn biết lối nào mà lần.»

Tất nhiên chạy theo những yêu cầu nhất thời của chính trị, văn chương làm sao có được nhưng tác phẩm để đời. Chính vì vậy Nguyễn Khải riễu cợt các thứ giải thưởng văn chương trong chế độ cộng sản:

«Văn chương đã đến nông nỗi ấy mà vẫn có giải thưởng quốc gia, nhưng những tác phẩm được giải thưởng Lenin, Stalin liệu có còn cuốn nào được người Nga hôm nay muốn đọc lại. Tôi cũng được giải thưởng văn chương cao nhất cấp quốc gia, nhưng tôi biết chỉ mươi năm nữa, thời thế đổi thay chắc chả còn ai nhớ tới mình nữa.»

Hơn ai hết, Nguyễn Khải tự biết tác phẩm «phục vụ chính trị của ông» rồi đây sẽ «tung toé» hết và ông chỉ là nhà văn của một thời:

«Tôi là nhà văn của một thời, thời hết thì văn phải chết, tuyển tập, toàn tập thành giấy lộn cho con cháu bán cân. Buồn nhỉ? Nghĩ lại cũng chả có gì phải buồn, con người vốn sống trong những chiều kích hữu hạn lại mơ tưởng những gì do con người làm ra sẽ thuộc về vĩnh viễn, có hoạ rồ! Tất nhiên vẫn có nhiều công trình của trí tuệ thuộc về cõi bất tử nhưng là của các thiên tài. Với bộ não con sâu cái kiến, ngước nhìn những cái đầu khổng lồ ấy làm gì cho thêm buồn ra. Hãy viết những gì trong cái tầm nhìn tầm nghĩ của con sâu cái kiến vậy. Một cách nghĩ thiếu “tự hào dân tộc” nhưng chắc chắn là một cách nghĩ đúng. Đã từng có những quốc gia từng nghĩ từng viết rất tự hào, rất kiêu hãnh rằng dân tộc họ đã sải bước trước nhân loại cả trăm năm, sắp chạm tay vào cánh cửa thiên đàng rồi! Mà rồi sao nhỉ? Là như mỗi chúng ta đều đã được chứng kiến trong suốt mấy chục năm nay đấy!»

Đúng là nỗi buồn đến ê chề của một nhà văn biết rằng mình trắng tay đi sang thế giới bên kia sau cả một đời cầm bút tận tụy phục vụ Đảng.

(còn tiếp)
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7112
Registration date : 01/04/2011

Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn - Page 9 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn   Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn - Page 9 I_icon13Wed 09 Sep 2020, 07:17

CHÂN DUNG HAY CHÂN TƯỚNG NHÀ VĂN
Nhật Tuấn

(Kỳ 52)


NHÀ VĂN NGUYỄN KHẢI (24)

(tiếp theo)

Khi Nguyễn Khải viết «đã từng có những quốc gia từng nghĩ từng viết rất tự hào, rất kiêu hãnh rằng dân tộc họ đã sải bước trước nhân loại cả trăm năm, sắp chạm tay vào cánh cửa thiên đàng rồi!»  thì tức là ông nhắm tới Liên xô và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa mà máu «thỏ đế» vẫn còn cho tới nhắm mắt xuôi tay nên không dám nói toạc ra.

Liên xô và phe XHCN xưa nay vẫn là mẫu mực trương lên trước mũi dân tộc như một tương lai xán lạn Đảng dẫn dắt toàn dân đạt tới, là  thành trì vững chãi làm chỗ dựa cho lý thuyết xây dựng chủ nghĩa xã hội. 

Than ôi, như sét đánh giữa trời quang, can qua nổi lên chỉ ngày trước ngày sau cả Liên xô lẫn thành trì phe xã hội chủ nghĩa sụp đổ tan tành. Biến cố huy hoàng và vĩ đại từ độ ấy mà mãi nhắm mắt, Nguyễn Khải mới dám nhìn nhận nó:

«Trong những năm 90 của thế kỷ 20 nhiều vị lão thành cách mạng Việt Nam lấy làm kinh ngạc và đau đớn trước sự tiêu vong quá nhanh của một siêu cường mà chân móng của nó đã ăn sâu trong mảnh đất Nga non một thế kỷ.»

Và lần đầu tiên ông nhà văn dám đặt bút lý giải sự sụp đổ có tính cách biểu tượng của chủ nghĩa cộng sản đó:

«Thật ra toà lâu đài kiểu mẫu của tương lai ấy không hề có chân móng. Nó được xây trên cát. »

Hoá ra vậy, hoá ra lâu nay «Liên xô thành trì vĩ đại» lại là công trình xây trên cát. Đó là sai lầm chết người của hệ thống. Liên xô đã vậy, còn giấc mơ cộng sản của Việt nam được xây trên cái gì? Ông nhà văn tuy có gan lý giải  nhưng chưa dám đi sâu vào cốt lõi:

«Mọi thay đổi lớn đều dựa vào phong trào quần chúng được hình thành, được vận động chỉ bằng có tuyên truyền chứ không từ nguồn lực tự thân. Tất cả đều phải ép buộc, đều phải dàn dựng, và phải có các diễn viên chuyên nghiệp trình diễn theo một kịch bản độc nhất. Có hai nhà văn lớn của Châu Âu đều được mời xem màn diễn về một xã hội lý tưởng do người cộng sản lãnh đạo. Ông Romain Rolland thì khen không hết lời, còn ông André Gide thì chê từ đầu đến cuối. Vì một ông chỉ nhìn có cái mặt tiền, cái tổng thể, đến đâu cũng thấy dân chúng ca hát, nhảy múa và vẫy cờ, vẫy hoa. Còn một ông lại chỉ quan sát cái sân sau của chế độ và thân phận của nhiều cá nhân ông có dịp tiếp xúc. Đám đông thường cho ta cái cảm giác sai vì họ không thể giữ được tính độc lập trong tình cảm và phán xét. Còn cá nhân thì cái thân phận riêng tư của họ bao giờ cũng thuộc về nhân loại hôm nay và mai sau.»

Ông cho rằng sai lầm của mấy ông lãnh tụ cộng sản là chỉ biết tuyên truyền, tuyên truyền chứ không phải nguồn lực tự thân. Thực ra, sức mạnh của chế độ cộng sản không chỉ là tuyên truyền, sức mạnh của nó nằm trong nền «chuyên chính vô sản». Nếu không có kìm kẹp, không có đàn áp, không có tù đầy, bắn giết thì «sự tuyên truyền» cũng chẳng có tác dụng gì nhiều. Chính cái nền chuyên chính đó đã tước đi của người công dân những quyền sống cơ bản:

«Một xã hội mà công dân không được quyền sống thật, nói thật, nhà văn cũng không được quyền bộc bạch tâm sự riêng tư của mình trên trang giấy là một xã hội không có chân móng.» 

Khi Liên bang xô viết tan vỡ, người ta mới thấy sự liên kết giữa các nước trong khối liên bang là một cuộc hôn phối áp đặt chứ chẳng phải dựa trên «tình hữu nghị giữa các dân tộc» và lúc này sự tranh chấp mới nổ ra:

«Các quốc gia cùng sống với nhau trong một liên bang, gọi nhau là anh em là đồng chí, nhìn ngoài thấy họ sống cũng yên ấm vui vẻ. Vậy mà khi họ chia tay nhau cũng dửng dưng. Và ngay lập tức họ nhận ra nhiều mối lợi trên đất nước mình đã bị người anh em ruột thịt chia sẻ trong một cuộc đổi chác không công bằng. Thế là bắt đầu những cuộc tranh chấp các đường biên giới, đã có lúc phải dùng đến xe tăng, đại bác để nói chuyện.[/i]» 

Rồi quan hệ giữa các nước ngày xưa trong liên bang với «phe đế quốc» xem ra lại mặn mà hơn với «các đồng chí trong liên bang cũ»:

«Khi Mỹ và NATO muốn đặt căn cứ quân sự trên đất nước họ, nhân danh chống khủng bố họ gật đầu liền đâu biết Mỹ là đối thủ của nước Nga anh em. Yêu Mỹ là tất nhiên vì Mỹ sẽ rót tiền vào những cái két rỗng của họ. Ghét Nga cũng là lẽ đương nhiên vì xưa kia anh bắt nạt tôi, lấn át tôi, xem tôi như chư hầu, như thuộc địa, bây giờ chính là lúc tôi có quyền trả thù.»

Tuy nhiên ông nhà văn Nguyễn Khải lại tỏ ra rất ngây thơ và nông cạn khi nghĩ rằng các nước SNG  trong Liên bang xô viết cũ mặc dầu đã «chia tay hoàng hôn» nhưng vẫn còn «tình đồng chí» cũ:

«Lúc giận nhau thì nghĩ nông cạn thế, còn bình tĩnh lại thì giữa các nước cộng hoà trong liên bang Xô Viết (cũ) vẫn có sự ràng buộc tự nhiên và máu thịt trong lịch sử vì họ đã là người một nhà non một thế kỷ, đã cùng nhau sống chết chống hiểm hoạ phát xít để bảo vệ sự tồn tại của Liên bang cũng như của các nước cộng hoà. Lại đã cùng nhau sinh con đẻ cái, đã pha trộn ngôn ngữ, văn hoá và kỷ niệm. Bây giờ mỗi quốc gia vừa được trở lại là chính mình, vừa có phần đóng góp thêm của các nền văn hoá lân cận, bạn bè, giàu có hơn trước, văn minh hơn trước. Rồi họ cũng sẽ sống với nhau như một cộng đồng của khu vực, nhưng lần này là tự nguyện, là do họ tự chọn một hình thức liên minh bình đẳng, dân chủ và hoàn toàn tự do. Bất cứ một thiết chế xã hội nào nhắm tới dân chủ và tự do, xây một xã hội mở, một liên minh mở sẽ có may mắn tồn tại được lâu dài với sự đồng thuận của mọi người và sự hài lòng của mỗi cá nhân».

Nếu như ông Nguyễn Khải sống đến tận bây giờ để chứng khiến hai người anh em cũ là Nga và Gruzia mang xe tăng đại bác choảng nhau do tranh chấp vùng Nam Ossettia thì hẳn ông không còn có nhận định như trên nữa.

Nguyễn Khải cho rằng chỉ cần sống tới 90 tuổi thì sẽ «rất minh mẫn trong cách đối nhân xử thế,  vẫn giữ được tính cách riêng mà không làm mất lòng một ai, từ con cháu trong nhà đến các mối quan hệ ngoài xã hội» sẽ «biết mọi bí mật của then máy tạo hoá» để «sẵn sàng tiếp nhận mọi sự khác lạ như bây giờ, kể cả sự phủ định chính mình… »

Thực ra chẳng chờ tới năm 90 tuổi, ngay từ năm 70 Nguyễn Khải đã nhận ra bao [i]«sự khác lạ»
về chủ nghĩa cộng sản, về lý tưởng của chiếc thẻ Đảng mà ông vẫn cất giữ để mà « phủ định chính mình».

Một điều « khác lạ » mà Nguyễn Khải nhận ra là «quan hệ giữa quần chúng và lãnh tụ». Trước hết ông «hiểu ra mọi sự rút gọn ở đời đều trái tự nhiên, đều dẫn đến thất bại» để đi đến kết luận mà vào thời Lê Duẩn, Lê Đức Thọ ắt hẳn ông đã bị bỏ tù:

«Mọi phong trào thi đua chả có ích lợi gì trong những việc cần nhiều chăm sóc nhẫn nại, bền bỉ, bắt đầu từ các cá nhân chứ không phải từ các đám đông với những khẩu hiệu, cờ quạt, kèn trống, diễn văn và đáp từ, vỗ tay và tặng hoa. Đám đông không thể đứng mãi dưới nắng để nghe lãnh tụ diễn thuyết. Họ luôn mong đợi được giải tán để về nhà. Con người ở nhà vẫn cũ kỹ nhưng là người thật chứ không phải là sự nhập đồng chốc lát khi đứng trong đám đông. Tôi thật lòng yêu mến, ngưỡng mộ Fidel, một nhà yêu nước kiên cường, một nhân vật đã thuộc về lịch sử của Cuba. Ông là một trí thức lớn, bạn tâm giao của Marquez, nghe nói trong túi lúc nào cũng có một cuốn tiểu thuyết đang đọc dở. Bởi vậy tôi mới lấy làm lạ khi ông buộc dân chúng phải đứng hàng nửa ngày dưới nắng để nghe ông cao đàm khoát luận về đủ mọi vấn đề. Lúc cách mạng mới thành công nói dài thế vì người dân còn đang háo hức với cuộc sống mới và các ngôn từ cách mạng cũng rất mới. Như một cặp tình nhân đang yêu nhau, đang cần nhau, nói với nhau đủ thứ chuyện vớ vẩn nhưng chả ai thấy thời gian là dài. Còn đã thành vợ thành chồng thì chỉ cần nói ít thôi, chỉ nói những việc cần làm thôi, chứ cần gì những thuyết lý dông dài. Mao Trạch Đông cũng thế, ông là một nhà chính trị thông kim bác cổ, quanh nơi ông làm việc và cả nơi ông nghỉ ngơi sách đang đọc xếp từng chồng, nhưng xem ra cũng chả hiểu đồng bào ông bao nhiêu.» 

Dám nói lãnh tụ là chẳng hiểu gì dân chúng thì quả liều mạng.

(còn tiếp)
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7112
Registration date : 01/04/2011

Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn - Page 9 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn   Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn - Page 9 I_icon13Thu 17 Sep 2020, 10:24

CHÂN DUNG HAY CHÂN TƯỚNG NHÀ VĂN
Nhật Tuấn

(Kỳ 53)


NHÀ VĂN NGUYỄN KHẢI (25)

(tiếp theo)



Đó là viết về lãnh tụ, thế còn «quần chúng nhân dân».
Xã hội miền Bắc vào những thập kỷ 60 luôn luôn náo động bởi những đợt «học tập chính trị». Nào «chỉnh huấn mùa xuân mùa thu…» nào «tình hình nhiệm vụ mới» trong đó Đảng luôn luôn không để cho dân chúng được yên mà thông qua những đợt "vận động" đó để kiểm soát, rèn giũa tư tưởng sao cho toàn xã hội không còn le lói một tia sáng «phản loạn». Nhận định về thời kỳ đó, Nguyễn Khải viết:

«Người dân ở đâu cũng thế, đều muốn có một cuộc sống bình yên, được tính việc cá nhân và gia đình trong một khoảng thời gian dài, một trăm năm chẳng hạn, không có những thay đổi lớn trong lối sống, trong công ăn việc làm, trong các giá trị, đặt biệt là giá trị của đồng tiền. Chứ cứ phải sống mãi từ năm này qua năm khác trong các phong trào cách mạng, lúc chống tả lúc chống hữu, những hội nghị toàn quốc và địa phương nối nhau không dứt, những hô hào la hét từ trong nhà ra ngoài đường như một lũ hóa rồ, các quan hệ xã hội và các giá trị thay đổi soành soạch thì còn biết đằng nào mà sống...».

Những «phong trào cách mạng», «những hội nghị toàn quốc», «những hô hào la hét... như một lũ hóa rồ»… chính là những «liệu pháp» kích động cơn lên đồng tập thể của quần chúng để tập trung vào những mục tiêu mà Đảng dẫn dắt toàn xã hội phải chú ý tới. Chính vì vậy không còn «khoảng trời riêng» cho cá nhân, không còn «giây phút tĩnh lặng» để ngắm một bức tranh tĩnh vật. Dường như «âm thanh và cuồng nộ» là đặc trưng cơ bản nhất của một xã hội cộng sản nhất vào thời chiến tranh mà chiến tranh thì kéo dài liên miên khiến trong vòng nửa thế kỷ nó trở thành «vật bất ly thân» của xã hội đó.

Trong suốt cuộc đời Nguyễn Khải, dường như ông viết văn dưới sự cưỡng ép của những quan điểm văn học của Đảng, về cuối đời chưa giải thoát được nó trong sáng tác, thì ông rũ bỏ nó bằng tuyên ngôn. Trước hết ông vạch trần sai lầm của lý thuyết mác xít ảo tưởng "cải tạo con người":

«Do không hiểu con người cá nhân, hoặc chỉ hiểu theo những phân tích máy móc, nông cạn của chủ nghĩa duy vật cơ giới của thế kỷ 19, nên các nước xã hội chủ nghĩa mới dám đặt ra những mục tiêu huênh hoang nhằm cải tạo con người trong vài thập kỷ nếu môi trường xã hội thay đổi».

Theo Nguyễn Khải, tất cả những thứ «cải tạo» đó là vô bổ, bởi lẽ:

«Về cái thế giới tinh thần của mỗi cá nhân hãy để cho mỗi cá nhân tự lo liệu lấy, nó không thích người khác can thiệp bằng bất cứ cách nào". 

Chính vì quan niệm cần và có thể cải tạo được con người  Đảng đã chất lên vai nhà văn cái danh hiệu «kỹ sư tâm hồn», coi nhà văn như nhà giáo:

«Nên mới gọi nhà văn là “kỹ sư tâm hồn”… Cái mục đích “tải đạo”, “giáo dục” của văn chương không bao giờ lộ liễu, lộ liễu là văn chương tồi".

Nguyễn Khải cãi lại Đảng bằng những lời thật hào sảng:

«Vả lại chính người viết cũng không có ý định ấy, họ viết bằng tâm sự thành thật của mình, những trải nghiệm đau đớn của mình, họ viết cho họ trước rồi cho độc giả sau, có khi họ cũng chả nghĩ đến những người sẽ đọc họ, viết mà chơi thôi, viết để giải sầu rồi tự mình ngậm ngùi với mình, ứa lệ với riêng mình. Chả trách ai cả, chả giận ai cả, cũng chả lên án một ai. Vì không có vật cản nào nảy sinh trong ta khi đọc nên chữ nghĩa của tác phẩm cứ mặc nhiên trôi vào tận những kẽ ngách trong cái tâm sự u uẩn, những khát vọng thầm kín của riêng ta, đọng lại trong ấy, rồi cứ thẩm thấu dần dần vào cái thế giới tinh thần của ta một cách vô thức, giúp ta nhận ra một vùng sáng mới lạ nào đó, gột rửa một vài thành kiến, thay đổi một vài quan niệm, và ta vẫn nghĩ một cách khoan khoái là chính tự ta đã chủ động thay đổi, tuyệt nhiên không theo lời chỉ bảo của một ai cả, của một học thuyết nào cả, hoặc nhập vào một cách bất chợt một phong trào thời thượng nào cả. Bất cứ cái gì xa lạ với bản tính của mình, với thói quen của mình, nói một câu, với những gì làm nên lai lịch của mình, chả sớm thì muộn đều bị đào thải để mình lại được trở về với cái nguyên gốc...".

Than ôi, lẽ ra trong sáng tác, Nguyễn Khải «tuyệt nhiên không theo lời chỉ bảo của một ai cả, của một học thuyết nào cả, hoặc nhập vào một cách bất chợt một phong trào thời thượng nào cả» như ông đang tuyên ngôn tiếc thay mọi việc đã diễn ra theo chiều ngược lại, ông đã tự cầm tù trong dòng «văn chương phải đạo», viết ra hàng loạt, hàng loạt những tiểu thuyết truyện ngắn mà bây giờ chế độ cộng sản tuy còn đó mà văn chương xu phụ nó đã bị quăng vào sọt rác của lịch sử. Lẽ ra bằng tài năng, ông có thể viết ra một thứ văn chương để đời:

«Văn chương do con người làm ra để trao tặng cho con người một cách tự do nhất, ít bị ép buộc nhất. Chỉ có văn chương mới tôn trọng mọi giá trị của cá nhân, tôn trọng mọi lựa chọn của cá nhân kể cả những thành kiến phi lý của họ. Họ có quyền yêu mình hoặc ghét mình, tôn vinh mình hoặc nguyền rủa mình, chả sao cả. Người viết cứ viết người ghét cứ ghét kể cả cái quyền ném sách vào lửa".

Đó là thứ văn chương «tôn trọng mọi giá trị của cá nhân» chứ không phải thứ văn chương «phục vụ chính trị», «phục vụ kịp thời» như Nguyễn Khải đã để lại cho người đời sau. Và cuối đời nhìn lại, so sánh với các nhà văn trong «thế giới tự do», Nguyễn Khải đã thấy xót xa trong lòng:

«Năm đất nước mới thống nhất vào Sài Gòn được gặp gỡ các nhà văn nhà báo, các nghệ sĩ của chế độ cũ mà thèm. Họ sống thoải mái quá, nói năng hoạt bát, cử chỉ khoáng đạt, như chưa từng biết sợ ai. Còn mình thì đủ thứ sợ, sợ gặp người thân vì chưa rõ họ có liên quan gì với Mỹ Ngụy? Nói cũng sợ vì nói thế là đúng hay sai? Đến vẻ mặt của mình cũng phải canh chừng, vui quá sợ mất cảnh giác, khen quá có thể đã ăn phải bả của nền kinh tế tư bản. Người lúc nào cũng căng cứng, nói năng gióng một nên bị bà con trong này chê là quê, nhà văn nhà báo gì mà “quê một cục” (…). Tôi còn sợ rồi sẽ có ngày lịch sử sẽ trừng phạt mình vì cái tội muốn khôn hơn lịch sử, muốn đánh lừa lịch sử!».

Tiếc thay, lời «phản tỉnh» này được nói ra ngay tại Sài Gòn vào tháng 4 năm 1975 thì sự hòa hợp giữa các nhà văn của hai miền đã thành tựu được một bước khá dài. Cái thân phận «nhà văn cách mạng» được Nguyễn Khải nhớ lại nghĩ thật là thảm:

"Trong nửa thế kỷ sống dưới sự lãnh đạo của một Đảng theo học thuyết Mác Lê, tôi luôn luôn được nhắc nhở phải tôn trọng quần chúng, sức mạnh của quần chúng có thể thay đổi dòng chảy của lịch sử và số phận của nhiều cá nhân (…). Một xã hội có hàng triệu cá nhân không được đếm xỉa, không được tôn trọng nhưng một nhúm cá nhân lại được tôn vinh hết mức và được được hoàn toàn thỏa mãn trong mọi nhu cầu là cái xã hội gì đây, là xã hội kiểu mẫu cho nhân loài tương lai ư?! Nói miệng mấy chuyện kỳ cục này đã khó nghe, lại còn viết thành văn mà các nhà văn không thấy ngượng sao? Ngượng thì vẫn ngượng nhưng chả lẽ lại gác bút, gác bút thì nuôi vợ con bằng gì? Nghĩ tới miếng ăn lại phải quên hết để sự bán mình cho quyền lực được hoàn toàn". 

Nhưng «bút ký chính trị» của Nguyễn Khải còn đi xa hơn chuyện văn chương.

(còn tiếp)[/i]
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7112
Registration date : 01/04/2011

Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn - Page 9 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn   Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn - Page 9 I_icon13Fri 18 Sep 2020, 10:59

CHÂN DUNG HAY CHÂN TƯỚNG NHÀ VĂN
Nhật Tuấn

(Kỳ 54)


NHÀ VĂN NGUYỄN KHẢI (26)

(tiếp theo)



Có thể nói không ngoa Nguyễn Khải là nhà văn Việt Nam đầu tiên lôi chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam ra pháp trường lần lượt nhằm bắn vào những yếu huyệt. Một mặt cái chủ nghĩa này chủ trương «đấu tranh giữa các mặt đối lập là động cơ của tiến hóa» mặt khác trong «nội bộ Đảng» họ lại hạ xuống một cấp, không còn là «đấu tranh giữa các mặt đối lập nữa» mà chỉ còn là… «phê bình và tự phê bình».

Nguyễn Khải thẳng thắn vạch ra cái trò «phê và tự phê» đó là giả dối, vô tích sự:

«Các đảng cộng sản đều coi phê bình và tự phê bình là cách giải quyết mâu thuẫn nội bộ hữu hiệu nhất. Sự vật vận động sẽ sinh mâu thuẫn, giải quyết được mâu thuẫn sự vật mới có cơ hội phát triển, tiến lên. Phủ định và phủ định của phủ định, nghe vừa khoa học vừa huyền bí, như câu thần chú: “Vừng ơi, mở cửa ra!”, cứ đọc to lên là cánh cửa vào tương lai sẽ mở toang (…). Nếu tin vào câu thần chú ấy thì Mao Trạch Đông đã không bày ra tấn tuồng “cách mạng văn hóa” để tiêu diệt mọi kẻ dám can ngăn những chủ trương đầy tính phiêu lưu của ông. Ấy là nói về những người nắm quyền lực cao nhất, còn những người nắm những cơ quan quyền lực thấp hơn cũng chả bao giờ họ tin vào cái phương pháp lãng mạn đó cả. Trong các cấp ủy họ vẫn tự phê bình và phê bình nhau một cách sốt sắng giả dối…».

Chính vì toàn thể cán bộ đảng viên cho tới nay vẫn đồng lòng và được phép diễn cái trò dối trá này nên cái xấu không hề bị tiêu diệt và cái ác ngày càng nảy sinh:

«Và ai nấy đều tự bằng lòng hơn sau những lễ xưng tội giải tội hết sức vui vẻ này. Và mọi thói xấu, kể cả tội ác nữa, vẫn nghiễm nhiên tồn tại như trước đây, vẫn là những vùng cấm chỉ những kẻ quá chán đời mới dám đơn độc xông vào (…). Đó là một màn diễn khổng lồ, rất tốn kém, chả đem lại bất cứ kết quả nào. Vì chỉ là diễn thôi, người cũ kẻ mới đều vào vai rất thành thạo. Rút cuộc kẻ có tội vẫn ngày càng hung hãn, càng tự tin, còn người vố tội càng lúc càng dè dặt, hãi sợ. Kỳ quái nhỉ?».

Bởi lẽ định nghĩa con người là «tổng hòa các mối quan hệ xã hội» nên những người cộng sản bỏ qua cái phần sâu thẳm, cái phần mù mờ, «những tiếng thì thầm rất nhỏ mỗi đêm trong chính mình»:

«Con người có 2 mắt đều hướng ra cái thế giới vật chất bên ngoài, không có con mắt nào hướng vào trong để ngắm nghía, kiểm soát cái thế giới tinh thần của nó nên nó bị mù một nửa, cũng như nó không có cái tai bên trong nên không thể nghe được những tiếng thì thầm rất nhỏ mỗi đêm trong chính mình. Hai cái khuyết tật bẩm sinh ấy đã làm con người thiếu hoàn chỉnh, là nguyên do mọi đổ vỡ của nhiều danh nhân dũng tướng vào những năm cuối đời. Nhưng cũng có một số ít người có khả năng nhìn được sự vận động cả trong lẫn ngoài, nghe được những tiếng động rất nhỏ cả ngoài lẫn trong. Họ không có cấu tạo vật chất đặc biệt nào mà chỉ bằng cái năng lực tinh thần rất mạnh đã bù đắp được những khiếm khuyết bẩm sinh». 

Mất cái khả năng «lắng nghe chính mình» hoặc không được phép thăm dò vào những vùng cấm đó, ngay đến các lãnh tụ cộng sản khi viết hồi ký cũng chỉ toàn một màu anh hùng:

«Nhiều tập hồi ký của các danh nhân cả chính trị lẫn văn hóa đều thiếu cái phần còn nhày nhụa của họ, cái phần thú vật của con người nơi sản sinh ra những tội ác chưa hình thành, cái què quặt, cái buồn cười đã được kiềm chế đúng lúc, đã được giấu nhẹm, cái phần họ muốn quên đi và rất dễ trở thành lang sói với đồng loại nếu trong đồng chí, đồng nghiệp còn có người biết đến và nhớ tới. Cuộc chiến đấu lớn, có tính bi kịch giữa mình với mình bao giờ cũng hoành tráng, cũng đẹp, rực rỡ những màu sắc đối nghịch vì nó đã bộc lộ đầy đủ nhất cái phẩm chất LÀM NGƯỜI trong mỗi CON NGƯỜI. Không phải bất cứ ai cũng tạo ra được trận chiến thần thánh ấy, vì chiến trường ở ngay trong lòng mình, mình vừa là kẻ thách đấu vừa là kẻ dám nhận đấu, dẫu thua cũng là cái thua của thần thánh. Một công việc trang trọng đến thế, hùng tráng đến thế mà lại dám nghĩ là công việc của số đông, của những người chưa hề chuẩn bị một cái nhìn bên trong, một cái nghe bên trong cho riêng mình, cả đời họ sống trong tự mãn, trong u mê, bất thần mời gọi hãy nhìn lại mình, hãy nhìn lại người để có được những phán xét và điều chỉnh chuẩn xác! (…)».

Mất cải khả năng «tự vấn», mất  cái khả năng «tự nhận thức», «tự tra vấn mình», các lãnh tụ cộng sản chỉ còn tìm tới những cái gây thích thú ở nơi đám đông. Đó là những cái mà Nguyễn Khải vạch ra sơ sơ đã thấy hãi hùng:

«Không có mùi vị của thuốc súng, của máu người và những tiếng la hét cuồng nộ của đám đông thì người cầm quyền biết thở bằng gì?».

Vậy chẳng hóa ra những người cầm quyền là những con thú say máu hít thở bằng tiếng «cuồng nộ của đám quần chúng» và bằng máu người. Nguyễn Khải quả thực đã rất «nhà văn» khi đi tới cùng việc vạch trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa của những người thành thạo thích kích động quần chúng để được nghe tiếng la hét cuồng nộ của đám đông.

 Thoát khỏi vòng kim cô của Đảng bắt ne bắt nét nhà văn phải viết thế này phải viết thế kia, Nguyễn Khải định vị lại cho chỗ đứng và bản chất của văn chương: 

«Tập thể không làm ra văn chương vì nó không có cảm nghĩ riêng, tâm sự riêng, tính cách riêng. Nó là vô danh. Một tâm sự mãn nguyện, những tiếng cười hoan lạc, một kiếp người quá đầy đủ cũng không thể có chỗ đứng trong văn chương. Vì văn chương bao giờ cũng thuộc về những tiếng kêu của con người để đòi lại những gì còn thiếu: thiếu tự do, thiếu công bằng, thiếu hạnh phúc…».

Vậy là văn chương tuyệt nhiên không thể là tiếng kèn xung trận các nhà văn thổi lên thật to để giúp Đảng đốc thúc, cưỡng ép hàng triệu, hàng triệu con người đi vào chiến tranh giành giật quyền thống trị trên cả nước. Ngược lại, văn chương phải là «những tiếng kêu than của con người».

Thực sự, Nguyễn Khải đã điểm đúng huyệt:

«Đời người là bể khổ, những khao khát về tinh thần của con người là vô cùng nên mới cần có văn chương và nghệ thuật để bù lại. Còn mọi thứ đều được biết, đều đầy đủ, đều mãn nguyện thì tôn giáo không còn, triết học không còn, và tất nhiên văn chương cũng không thể còn. Nó sẽ chết vì bị ngạt, vì không còn những khoảng trống huyền bí để suy nghĩ, để mơ mộng và để thở. Những gì mà chủ nghĩa cộng sản hứa sẽ thành hiện thực trong tương lai thì cái hiện thực ấy sẽ giết chết cả loài người. Vì thượng đế đâu cần những con dòi béo quay lúc nhúc dưới chân Ngài». 

Khi hứa hẹn một xã hội «làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu», một xã hội «thiên đàng» thì họ đâu có biết họ đã giết chết con người.

«Cũng may đó chỉ là những lời nói dối, tự dối mình và dối người của những con người đã phải sống nhiều trăm năm trong cùng khổ, trong tuyệt vọng. Còn hướng tới thiên đàng ư? Là thiên đàng trần gian hay thiên đàng thượng giới cũng không một ai có thể sống nổi. Sống không lo nghĩ, không mong muốn, không đấu tranh là kiếp sống con dòi rồi. Chả lẽ những con dòi cũng có thể cất cao những cái đầu múp míp của chúng để làm ra triết học và thơ ca!».

Vậy thì cái «thiên đàng vẫy gọi » kia chỉ đáng giành cho đám giòi bọ. Một sự « ỉnh thức vĩ đại  của Nguyễn Khải không chỉ bằng sách vở, tư biện mà chính là ông đã «nghiệm sinh» trong đời sống:

«Những điều viết trên đây không do tôi tưởng tượng ra mà do những trải nghiệm bản thân mà có. Những năm còn trẻ cả vợ lẫn chồng đều ăn lương quân đội, lại phải nuôi dưỡng những bốn đứa con, nhà ở ven bãi sông năm nào cũng phải chạy lụt, lại quá chật có 15 mét vuông. Ăn thì mì hai phần gạo một phần, gạo phải nhặt sạn cả buổi mới dám nấu thành cơm.

Còn thức ăn ư? Chả nói nữa ai cũng ăn như thế, ăn dưa ăn mắm suốt mấy chục năm đã hóa quen. Cả nhà chỉ có hai cái giường, một cái bàn, hai cái ghế, tiếp khách ở đấy, mời cơm khách ở đấy, con học bài cũng ở đấy, và ông bố viết văn cũng chỉ có cái bàn ấy. Đêm đêm nằm cạnh hai thằng con trai lớn đạp ngang, quẫy dọc, rắm đánh thối um, vừa quạt cho hai thằng con ngủ tôi vừa mơ mộng đến một ngày nào đó, các con đã trưởng thành, tôi có được một phòng riêng để viết và tiếp bạn, mỗi bữa cơm đều có cá hoặc thịt, có cả chút rượu nữa càng hay.

Tôi không phải lo nuôi con, không phải lo cả trăm thứ vặt vãnh để tồn tại, chỉ có đọc sách, ngẫm nghĩ, đi chơi đây đó với bạn bè và viết, ắt hẳn tôi sẽ viết được một hai cuốn sách để đời. Bây giờ tôi đã ngoài bảy chục tuổi, đã có đầy đủ những gì tôi khao khát, có thể nói còn hơn cả khao khát. Tôi đã sống đầy đủ, sang trọng nữa, hơn nhiều nhà văn tôi được biết ở các nước Đông Âu. Và tôi đã nghĩ nếu chủ nghĩa cộng sản thành công ở Việt Nam thì cũng chỉ cho được tôi đến thế. Khốn nỗi, lúc này tôi đâu còn năng lực làm việc bằng trí tuệ nữa mà cũng chả có nhu cầu nào phải đòi hỏi. Cuộc sống được vỗ béo của một kẻ ăn không ngồi rồi đã giết chết mọi tư tưởng ở trong tôi, rồi giết luôn đến đội quân chữ nghĩa, chúng đã hóa ra rỗng tuếch, vô hồn. Nhà văn mà hết chữ thì chỉ là cái xác chết. Xác chết con người với xác chết con dòi có gì là khác mà phải phân biệt!».

Đó thực sự là những sám hối chân thực, dũng cảm và đanh thép.

(còn tiếp)
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7112
Registration date : 01/04/2011

Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn - Page 9 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn   Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn - Page 9 I_icon13Mon 28 Sep 2020, 09:00

CHÂN DUNG HAY CHÂN TƯỚNG NHÀ VĂN
Nhật Tuấn

(Kỳ 55)


NHÀ VĂN NGUYỄN KHẢI (27)

(tiếp theo và hết)


Sau khi sổ toẹt bằng hết những luận điểm cơ bản của Mác- Lênin, Nguyễn Khải nhìn thẳng vào nhưng vấn đề cốt lõi, những vấn nạn hàng đâu của xã hội Việt Nam. Ngòi bút của ông như lưỡi dao sắc bén mổ phanh những ung nhọt mà cả bộ máy tuyên truyền của đảng ra sức bưng bít.

Đại thắng mùa Xuân được ra rả tụng ca trong suốt 30 năm bằng những ngôn từ sáo rỗng được Nguyễn Khải đặt câu hỏi sinh tử : bằng những hy sinh mất mát của cả triệu con người , nó mang gì tới cho dân tộc . Và ông huỵch toẹt :

“Một nửa nước đã được độc lập nhưng lòng người tan nát vì tài sản một đời chắt chiu của họ đã bị nhà nước tịch thu hoặc trưng thu khiến họ trở thành những người vô sản bất đắc dĩ. “

Lòng người tan nát không chỉ vì tài sản một đời đã bị tịch thu mà còn vì những chịu đựng mất mát khác khó nói cho hết thành lời. Riêng với giới trí thức thì :

“Tầng lớp trí thức chả có tài sản gì ngoài cái đầu được tư duy tự do, thì cái đầu cũng bị nhà nước trưng thu luôn, vì từ nay họ chỉ được nghĩ được viết theo sự chỉ dẫn của một học thuyết, của một đường lối nếu họ không muốn giẫm vào vết chân của nhóm “Nhân Văn Giai Phẩm”.

Nhìn lại tình cảnh dân tộc sau ngày thống nhất hai miền Nam Bắc, ông nhà văn
thẳng thừng :

“Một dân tộc đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ mà mặt người dân nám đen, mắt nhìn ngơ ngác, đi đứng long rom như một kẻ bại trận. Quả thật dân tộc Việt [/size][/i]Nam[i][size=18] đã thắng lớn trong phong trào chiến tranh giải nhưng lại thua đậm trong công cuộc xây dựng một xã hội tự do và dân chủ…”

Vì sao, vì sao dân tộc lại đâm đầu vào thảm trạng đó, Nguyễn Khải đã phải kêu lên đau đớn :

“Thoát ách nô lệ của thực dân lại tự nguyện tròng vào cổ cái ách của một học thuyết đã mất hết sức sống. Dân mình sao lại phải chịu một số phận nghiệt ngã đến vậy!”

Tuy nhiên, vì sao “cái ách của một học thuyết đã mất hết sức sống” tròng vào cổ dân ta lâu đến như vậy, lâu cho tới tận bây giờ và chưa biết bao giờ mới chấm dứt và trách nhiệm về những ai thì Nguyễn Khải chưa trả lời được, ông chỉ nhắc nhở giới nhà văn :

“Một xã hội tan nát, lòng người chĩu nặng những phiền muộn ưu tư, mà là những người đã hết lòng hết sức với kháng chiến bằng cách này hay cách khác. Vậy nhà văn phải viết như thế nào, phải viết cái gì để tạo được một hiện thực tràn đầy hy vọng như các nhà lãnh đạo cách mạng yêu cầu.”

Đó là một công việc bất khả, nếu nhà văn không thét lên được những âm thanh cuồng nộ thì dù có thốt lên những tụng ca trơ trẽn, vô liêm sỉ như lãnh đạo yêu cầu, thì chúng cũng bị mau chóng sổ toẹt bằng sự thờ ơ của công chúng.

Về trách nhiệm nhà văn, Nguyễn Khải đau đớn sám hối

“Về già tôi mới nhận ra nhà văn phải nghe theo tiếng gọi của tình cảm, của trái tim, của cái phần thiện lương trong con người mình. Nó đã bảo sai là sai, không có thứ lý luận nào chống đỡ nổi. Vả lại văn chương bao giờ cũng đồng cảm với nỗi đau của con người, những bất hạnh của con người. Chưa bao giờ vì sự mãn nguyện, sự thành công của con người mà cất lên tiếng hát ca ngợi cả. Ở các thể loại nghệ thuật ngôn từ con người phải chống chọi với mọi cảnh ngộ trái ngược chiếm gần hết các trang viết, các màn diễn, còn khi người nghèo đã thành giầu, người hèn được bước vào thế giới phú quý, trai gái phải chịu nhiều năm chia lìa tới lúc tái hợp là cuốn sách, vở diễn phải chấm hết ngay. Nó đã kết thúc cái phần nghệ thuật để bắt đầu sang phần tụng ca là cái thế giới của mãn nguyện của buồn chán, là cái phần phi nghệ thuật. “

Như vậy, văn chương chỉ có thể là tiếng nói khốn khó, uất hận trước mọi trà đạp lên con người, là những giọt nước mắt rơi trên những số phận bi thảm chứ không phải là sự reo vui, hồ hởi . Cố tình bỏ qua những đặc tính cốt lõi, những đặc điểm bản thể của văn chương, người cộng sản lại dùng nó như tiếng kèn thúc trận :

“Nhưng người lãnh đạo lại chỉ thích cái phần không phải là nghệ thuật, tặng giải thưởng, trao huân chương cho các tác giả chỉ để tưởng thưởng cái phần nhạt nhẽo vô vị ấy mà thôi. Cái cách cảm nhận hiện thực đầy tính lãng mạn ấy đã làm lệch lạc cách xem xét, cách ứng xử của nhiều thế hệ bạn đọc, nhất là bạn đọc ở tuổi mới trưởng thành, trước những biến hoá muôn mặt của cuộc sống. Họ chỉ có mỗi khả năng làm người phê bình văn học theo đường lối chính trị chính thống, tại sao cuộc sống đẹp như thế mà nhà văn lại miêu tả nó xấu đến thế. Làm sao dám cãi, hãy để cho những trải nghiệm của chính họ qua năm tháng sẽ âm thầm biện hộ giúp mình thôi.”

Nguyễn Khải phát hiện ra một kẻ phá hoại giấu mặt trong xã hội: ngôn từ:

“Một xã hội không tự hiểu mình, mỗi cá nhân cũng không tự hiểu mình, vàng thau, phải trái, cao quí ti tiện lẫn lộn, các giá trị lẫn lộn bắt đầu từ sự không chuẩn xác của ngôn từ. Câu mở đầu kinh thánh Cựu ước “ Thoạt Tiên Là Ngôn Ngữ…” (Au conmmencement était le Verbe).

Nhưng ngôn ngữ trong xã hội ta hiện nay thật đáng kinh hoàng , nó được dùng như phương tiện để che đậy, dối trá:

“Vậy mà ngôn từ lại là cái mặt yếu nhất trong các lãnh vực thuộc thượng tầng kiến trúc ở các nước xã hội chủ nghĩa. Công dân của các nước ấy dùng ngôn từ để che đậy chứ không nhằm giao tiếp, hoặc giao tiếp bằng cách che đậy, “ nói vậy mà không phải vậy”! Nó là cái vỏ cứng để bảo vệ mọi sự bất trắc, chống lại thói quen hay xét nét lời ăn tiếng nói của công dân của mọi chính quyền chuyên chế.“[

Cái bệnh “xảo ngôn”, tiếc thay lại rõ rệt nhất, nặng nề nhất ở cấp lãnh đạo:

“Cái cách tự bảo vệ ấy lại càng rõ rệt ở cấp lãnh đạo và các viên chức nhà nước làm việc ở các cơ quan quyền lực. Họ nói bằng thứ ngôn ngữ khô cứng đã mất hết sinh khí, một thứ ngôn ngữ chết, ngôn ngữ “gỗ”, nói cả buổi mà người nghe vẫn không thể nhặt ra một chút thông tin mới nào. Các buổi trả lời phỏng vấn báo chí, diễn văn tại các buổi lễ kỷ niệm, báo cáo của Đảng, của chính phủ, của quốc hội, tất cả đều dùng các từ rất mơ hồ, ít cá tính và ít trách nhiệm nhất. Người cầm quyền cấp cao nhất và cấp thấp nhất đều biết cách nói mơ hồ, càng nói mơ hồ càng được đánh giá là chín chắn. Và nói dối, nói dối hiển nhiên, không cần che đậy.”

Những kẻ nói dối không cần che đậy phần lớn lại là những kẻ dân gian đã tổng kết “trông mặt, tắt tivi”:

“Vẫn biết rằng nói dối như thế sẽ không thay đổi được gì vì không một ai tin nhưng vẫn cứ nói. Nói đủ thứ chuyện, nói về dân chủ và tự do, về tập trung và dân chủ, về nhân dân là người chủ của đất nước còn người cầm quyền chỉ là nô bộc của nhân dân. Rồi nói về cần, kiện liêm chính, về chí công vô tư, về lý tưởng và cả quyết tâm đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Nói dối lem lém, nói dối lì lợm, nói không biết xấu hổ, không biết run sợ vì người nghe không có thói quen hỏi lại, không có thói quen lưu giữ các lời giải thích và lời hứa để kiểm tra.“

Những kẻ nói dối biết là mình nói dối không hề thấy xấu hổi, bởi lẽ họ thừa biết:

“Hoặc giả hỏi lại và kiểm tra là không được phép, là tối kỵ, dễ gặp tai hoạ nên không hỏi gì cũng là một phép giữ mình. Người nói nói trong cái trống không, người nghe tuy có mặt đấy nhưng cũng chỉ nghe có những tiếng vang của cái trống không. Nói để giao tiếp đã trở thành nói để không giao tiếp gì hết, nói để mà nói, chả lẽ làm người lại không nói.“

Thật ra như trong cái trò “vua cởi truồng” , cả hoàng đế và dân đen đều hiểu cả nhưng dao kề cổ nên vẫn phải “diễn”:

“Thật ra nói thế mà vẫn hiểu nhau cả. Người cầm quyền thì biết là nhân dân đang rất bất bình về nhiều chuyện, nhân dân thì biết người cầm quyền đang nói dối, nhìn vào thực tiễn là biết ngay họ đang nói dối. Nhưng hãy mặc họ với những lời lẽ dối trá của họ, còn mình là dân chả nên hỏi lại [rằng] nói thế là thật hay không thật. Mình cứ làm theo ý mình và mình cũng sẽ nói dối, nói che đậy nếu như có dịp được người cầm quyền hỏi.”

Chính vì những nhu cầu chính trị của đảng, tài sản tinh thần của dân tộc cứ ngày càng mai một:

“Cái thời mở nước, giữ nước chỉ còn lưu lại những cột mốc của các chiến công, còn cuộc chiến thầm lặng đã làm tan nát nhiều con người để con người được là chính mình, được là một thực thể thiêng liêng, đền đài lưu giữ muôn thuở cái tài sản tinh thần của một dân tộc, một dòng họ mãi mãi được vun xới, được phát triển tương ứng với sự phát triển của dân tộc, của thời đại thì chưa được văn thơ nói đến, triết học nói đến, các ngành khoa học nhân văn nói đến.”

Tuy nhiên, Nguyễn Khải vẫn kỳ vọng:

“Dầu không nói đến, không được phép nói đến thì cái dòng chảy vĩnh cửu ấy vẫn được nhiều triệu người âm thầm khai thông, bồi đắp để các nhân tài Việt Nam không ngừng xuất hiện lúc ở lãnh vực này, lúc ở lãnh vực khác.”

Và ông cảnh báo:“Một đất nước không có những cá nhân kiệt xuất, tài ba làm chân dung đại diện trong cộng đồng nhân loại thì đó là một bất hạnh cho dân tộc, tạo ra một khoảng trống tiếp nối trong lịch sử sinh tồn của mỗi cá nhân. Rồi các thế hệ đến sau phải nối lại bằng cách nào vì vẫn phải bắt đầu từ môi trường chính trị, xã hội, từ một xã hội vừa truyền thống vừa văn minh, những mục tiêu nhắm tới vừa là phát triển cái riêng biệt, vừa là sự hòa nhập vào nền văn minh của khu vực và thế giới. “

Quả thực nhìn vào sự tiếp nối các thế hệ cầm bút, người ta không khỏi lo ngại về sự ngày càng khô kiệt những tài năng. Và Nguyễn Khải vạch mặt thủ phạm đích danh của bi kịch đó chính là: quyền lực toàn trị.

“Một nền văn minh riêng lẻ, với những mục tiêu hoang tưởng, một môi trường xã hội ngột ngạt vì cái bóng quyền lực phủ lên tất cả, quyết định tất cả thì số phận những cá nhân sẽ ra sao?

Kết thúc tùy bút chính trị “Đi tìm cái tôi đã mất”, Nguyễn Khải không đưa ra được tiên trị, dự báo nào về sự sụp đổ của quyền lực toàn trị, ông chỉ răn đe và cảnh báo:

“Một chế độ độc tài khi phải đối mặt với những biến động lớn thường rễ bị nứt rạn, từ nứt rạn đến tiêu vong, thời gian diễn ra rất nhanh vì nó chỉ có trụ đỡ là quyền lực của một phe đảng, không có trụ đỡ về tinh thần của cả dân tộc. Một chế độ chính trị tồn tại tới non một thế kỷ hay một nửa thế kỷ cũng là lâu lắm, đã tạo ra mấy thế hệ ăn chung ở chung với nó, sinh con đẻ cái với nó mà khi nó chết không ai nhỏ được một giọt nước mắt, có người còn nhẫn tâm đạp lên cái vừa chết đó rồi mới tiếp tục bước đi, đủ biết người ta đã xem nó như vật bất tường, là quái thai, là tai hoạ, thời thế đã bất thần xoá bỏ nó một cách êm dịu, không phải tốn đến máu cũng là một may mắn phi thường. Có thể kết luận, một chế độ chính trị được xem là văn minh hay lạc hậu, là sẽ tồn tại lâu dài hay chỉ có mặt trong khoảng khắc của lịch sử là tuỳ thuộc vào cương lĩnh chính trị của Đảng cầm quyền có thật sự tôn trọng những quyền của con người hay không, các cá nhân với những khác biệt, những phản ứng, những bất tuân của nó có được đặt ở vị trí trang trọng trong hiến pháp hay không?“

Với lời Nguyễn Khải đã hẹn tôi năm 1978 “tao sẽ vót nhọn gươm đâm một cú cuối cùng”, thì quả thực Nguyễn Khải đã vung một đường gươm xuất sắc. Tiếc thay ông thực hiện vào lúc...đã muộn. Vào năm 2006 khi ông viết xong tùy bút chính trị này, những vấn đề của chủ nghĩa Mác, những lý thuyết chủ nghĩa cộng sản đã không còn là những bức xúc xã hội nữa, ngoài một vài nhà hoạt động dân chủ còn bàn tới “dân chủ và tập trung”, tới “vô sản chuyên chính”, tới “đấu tranh giai cấp”, hầu như đại đa số bàn dân thiên hạ, kể cả giới trí thức chẳng còn tâm thế đâu đoái hoài tới nó. Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã sụp đổ từ lâu, chủ nghĩa cộng sản đã bị cộng đồng châu Âu đặt ra ngoài vòng pháp luật, những lý thuyết của nó hiển nhiên đã bị lãng quên. Bởi vậy khi xuất hiện, bút ký của Nguyễn khải cũng chỉ được một bộ phận trí thức tìm đọc, cũng chỉ gây nên một luồng dư luận thoáng chốc rồi tan nhanh trong những vấn đề nóng bỏng khác của dân tộc và đất nước.

Lời than vãn của Nguyễn Khải có tính cách tiên tri: ”Thôi chết, tung tóe mẹ nó hết rồi Tuấn ạ…”, ngày nay những truyện ngắn, ký sự, tiểu thuyết của ông chỉ còn lại trong thư viện và trong các giáo trình của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Vậy nhưng Nguyễn Khải vẫn là nhà văn được yêu mến trong lòng bạn đọc. Bằng lương tri nhà văn, lương tâm người cầm bút, cuối đời ông đã nhận ra bi kịch của đời ông và đã viết một tác phẩm cuối cùng, chỉ tiếc nó không phải là sáng tác văn học mà là tùy bút, một tùy bút chính trị…
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7112
Registration date : 01/04/2011

Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn - Page 9 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn   Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn - Page 9 I_icon13Mon 05 Oct 2020, 09:50

CHÂN DUNG HAY CHÂN TƯỚNG NHÀ VĂN


Nhật Tuấn

(Kỳ 56)


Hai ta từng là ...con cái Chúa

(Nhân bài viết của nhà thơ Trần Mạnh Hảo)

Chẳng biết mai sau, khi dắt tay nhau vào cõi vô cùng, hai ông có  hoan hỉ :” Hai ta từng là ...con cái Chúa “ ? Chứ bây giờ, ông nhà thơ Trần Mạnh Hảo vẽ chân dung ông nhà văn Nguyễn Khải trong bài “ Mùa Xuân thăm nhà văn Nguyễn Khải” như tranh biếm họa bất chấp hai ông cùng xuất thân na ná nhau. 

Một ông thủa bé “chăn trâu cắt cỏ”, tối tối vào nhà thờ nghe giảng kinh, một ông lớn lên trong gia đình quan lại, trí thức Thiên chúa giáo, hai ông chỉ giống nhau một điều là khi cách mạng về,  cùng... bán Chúa theo đảng. Và quả thực cái sự bán chác này đã đem lại lời vô kể. Chưa kể mỗi ông có cái nhà to vật ngay giữa Sàigòn, cả hai đều có cái danh rất oách. Một ông là nhà văn cách mạng được Nhà nước gắn huân chương, một ông là nhà thơ nổi đình nổi đám và cả hai đều chễm chệ chiếu trên trong làng.

        Mở đầu bài viết, mới tới cổng nhà bác NK, thi sĩ TMH đã tả hai cây cau như hai anh lính gác cổng:

       “được trồng trong một chỗ chính ra để còi đi, lùn xuống, trồng trong chỗ kẹt, chỗ ép, chỗ tù túng sát sàn sạt bức tường, như được dính vào gạch, phải toát mồ hôi mọc cật lực trên nền xi măng...”

       Viết vậy thì đúng với… cả hai bác chứ chẳng riêng gì bác NK. Tài năng văn chương của hai bác, mấy chục năm qua chẳng được trồng vào chỗ kẹt, chỗ ép, chỗ tù túng mà hai bác phải “toát mồ hôi, cật lực” mới mọc được trên “nền ximăng” đó ư ? Rồi chẳng ai khảo mà xưng, bác nhà văn thú  nhận:

     “...nói giấu gì ông em, nó chẳng đực cũng chẳng cái, chẳng phải ta mà cũng chẳng phải tây; nó là cau hoàn cảnh, cau chơi, cau mẽ đã kế hoạch hoá gia đình từ kiếp trước. Tôi vô ý buột miệng may quá, nó không có quả, nên giời không ban cho nó giầu, với lại "được mùa cau đau mùa lúa". Nhỡ hốt nhiên nó tức khí ra quả ồ ạt, e  ảnh hưởng ít nhiều đến những mùa bội thu lúa má văn chương của chủ nhân chăng?“

Nếu phải dựng chân dung văn thi sĩ thời nay quả thực khó kiếm hình ảnh nào hay hơn thế. Chẳng đực cũng chẳng cái, chẳng phải ta cũng chẳng phải tây, nó là thứ ...văn chơi, văn cảnh, văn mẽ  đã được ...kế hoạch hoá gia đình. Thảo nào vào thời được “cởi trói”, một ông nhà văn đã la lên rằng “nền văn học của chúng ta là một nền văn học bị... thiến”. Ôi chao ôi, chẳng đực cũng chẳng cái nên mới đẻ ra cái thứ văn chơi, văn mẽ như thế đó. TMH lại viết tiếp:

            “Gớm, ngồi một tẹo, anh em mới trà thuốc tí ta tí tách bác bác, chú chú, lúc lại ông ông, tôi tôi chưa ngấm câu chuyện, mà hai anh lính cau ngoài cửa cứ quạt phành phạch, sốt cả ruột; giời mới thương khuất nẻo cho tí gió máy đã cuống cả lên, đã sướng run lên cầm cập, rối rít đập vầng lá xanh um vào tường như cũng muốn đòi vào nhà hóng hớt chuyện văn chương.”

             Viết như thế khác nào TMH xỏ “cả làng văn chương” mỗi khi được Đảng cho  chút bổng lộc -  nào phân nhà, đi nước ngoài, tài trợ sáng tác... là anh nào anh nấy đã sướng run cầm cập, hoa bút múa giấy, rối rít ca ngợi công ơn. Vậy rồi cũng chưa hết cái thân phận “anh cau”, TMH còn nhấn thêm:

          “Cái giống cau trông vậy mà tham, ưa bất tử để đời, chết xuống rồi, tàu cau rụng cái ạch xuống đất rồi vẫn cứ cố sống lại cho kỳ được, sống làm cái thân quạt mo, làm dâu trăm họ, rơi vào tay anh Bờm mà bỡn cợt phú ông. Bác Khải lại cả cười, ấy vậy nó mới là cau cảnh, người cảnh, văn cảnh.”

          Chẳng phải tưởng tượng nhiều ta cũng thấy vào một buổi sáng ở nhà bác NK,  ngoài cổng có hai cây cau, trong nhà có hai nhà  văn “nhớn” hí hửng tự nhận cái “phận cau” , cam chịu làm cái thân quạt mo cho... Đảng  mà bỡn cợt cái tụi... tư bản, nhà giàu. Và rồi  hai bác còn hả hê “ấy vậy mới là người cảnh, văn cảnh”. Thật không có lời sám hối nào thành thật hơn thế nữa. Chính vì “cảnh” vậy, TMH mới nhận xét:

         “Bản thảo của bác Khải với lối chữ đi ra đi vào la đà con cà con kê, túc tắc như thím gà mái kiếm mồi, dòng chữ cao to mà ẻo lả, lênh láng mà thẳng thớm, kiểu chữ thời ba mươi bốn lăm xưa lắm.”

      về văn chương của NK thì:

        “Văn ông nhìn chung là thứ văn hoạt, thông minh, ranh mãnh, sắc như nước, lại dây dưa thừng chão, có mỏ có ngạnh mà cũng có vây có cánh, có gai có góc mà cũng chồng nụ chồng hoa, có nghịch phá dung dăng dung dẻ mà cũng cứ  nền nã, con nhà, vẫn gia phong, gia giảm, gia công, gia dụng, gia năng, gia giáo... Văn ông vượng về khí, ăn về hơi, giỏi về chữ, mạnh về hoành mà hãm về tung, hút bởi tán mà hụt hẫng khi tụ, mặn việc đạo nhưng nhãng sự đời, đi đường triết nhân hơn đường văn nhân.“

         Tưởng là khen đấy mà hoá ra xỏ đấy, “mạnh về hoành mà hãm về tung” chẳng qua là bốc phét một tấc đến giời, thùng gỗ kêu to chứ còn cái chiều “tung” – cái chiều “sự thực ở đời” , cái thế sự  ngổn ngang “khổ dân, sướng quan” thì  bác NK lờ tịt, tức cái sự “nói thực” trong văn chương thì còn... ”hãm” lắm. Làm thân quạt mo phẩy mát cho Đảng lại còn muốn lưu tiếng thơm muôn thủa thì văn chương cần phải “hoạt, thông minh, sắc như nước”, tưởng là “nghịch phá dung dăng dung dẻ” mà thực ra “nền nã, gia giảm, gia công, gia dụng, gia năng, gia giáo” là đúng quá rồi. Đây chính là “cẩm nang sáng tác” chẳng riêng gì của nhà văn NK mà phàm là hội viên Hội nhà văn muốn in bài trên báo Văn Nghệ thì đều phải thuộc nằm lòng. Nếu không thì:

    “muốn biểu tượng hai mặt à, mượn cau kiếc nói cạnh khoé nhà văn chúng anh  à ?...Không sợ  có ai rách việc mới hắng giọng ho lên, doạ rằng anh biểu tượng hai mặt đấy là co vòi, co rút bút lên với nhau, ngồi run như giẽ cả một lượt, thật chả còn ra làm sao....”

    Đúng như thế, nhà văn ta thật “chẳng còn ra làm sao”, Đảng mới hắng giọng ho lên một tiếng đã “co vòi, rút bút, ngồi run như giẽ cả một lượt...”. Hết nhận mình là “cau” , rồi lại là “giẽ”, cái phần tự bạch của hai nhà văn lớn quả thực không thua gì các bản “phản tỉnh” của các nhà văn Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng ... hồi học tập “Đề cương văn học Diên An” của đồng chí Chủ tịch Mao Trạch Đông kính mến. Thế rồi sau khi tâng bốc NK lên mây xanh:

      “Ông là nhà văn lớn thời nay, một trong những con chim đầu đàn của nền văn nghệ cách mạng và kháng chiến.”

     ông bạn vàng TMH lại giở giọng xỏ xiên:

      “Nguyễn Khải họp chợ trong tiểu thuyết chỉ có một mình, hàng trăm nhân vật nhưng hầu như chỉ có độc một mình ông tự thân chia ra mấy mươi phần trăm đối tác mà khóc cười rôm rả. Ông lặn xuống bề sâu từng nhân vật mà hoá thân chúng vào mình, thành ra tưởng đông lắm, nghìn nghịt lắm, tập thể lắm mà hoára vắng hoe như chùa Bà Đanh, chỉ một cá thể, một mình ông sắm đủ các vai tuồng trên sân khấu chữ nghĩa.”

     hoá ra bao nhiêu nhân vật trong văn chương  NK đều là “tào lao’, vẽ vời, ba xạo ...chỉ còn lại duy nhất một  người cầm bút:

      “lượn lờ đi lại, nói năng, giận hờn, buồn vui, ngơ ngác, vờ vịt, chân thành, khiếp sợ, dũng mãnh, cuồng si... mà hơn nửa thế kỷ chữ nghĩa văn chương cứ rào rào như tằm ăn rỗi, cứ cuồn cuộn hàng mấy chục đầu sách làm ồn ào lênh láng cả văn đàn,”

      Cái mẹo vừa đấm vừa xoa, vừa khen vừa chửi...vốn là “nghề của chàng” , vừa chửi “vờ vịt”, tiếp ngay đó lại khen “chân thành”,  vừa chê “ khiếp sợ” lại bốc ngay “dũng mãnh” rồi sau cùng mới huỵch toẹt:

       “Nguyễn Khải cứ ngồi một chỗ ru rú trong xó nhà mà nhặt được toàn bộ rác rưởi đời sống. Ông có biệt tài lượm ve chai trên ti-vi..., trên báo, lượm phế thải nơi những tâm hồn ủ ê néo hánh ù lì thấp thoáng quanh đời ông.”

        Nhận định này trùng với nhà thơ Xuân Sách làm thơ chân dung Nguyễn Khải:

           “Cồn Cỏ nào ở đâu xa
           Cồn Cỏ là ở ...ngay nhà đó em...”.


      Và sau cùng cái “triết lý con lươn” mà NK vẫn hãnh diện khoe khoang với bạn bè – cái triết lý khi bị Đảng bắt giò, phải tiết ngay “chất nhờn” mà lủi đi, cũng được TMH khẳng định trong câu:

        “May mà ông còn một con cáy trong người để bảo hiểm cho văn mình...”

      Và cũng còn may, trong con người TMH cũng còn “một con cáy”, chứ không thì… chưa biết sẽ đi về đâu?

         Nghe nói đọc xong bài viết của TMH, Nguyễn Khải chỉ cười nhạt. Tuy nhiên, cầm chắc một điều, mai sau có về nước Chúa, dứt khoát hai ông không dắt tay nhau mà rằng: “hai ta đã từng là con cái Chúa”.
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content




Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn - Page 9 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn   Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn - Page 9 I_icon13

Về Đầu Trang Go down
 
Chân dung hay chân tướng nhà văn - Nhật Tuấn
Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Similar topics
-
» Chân dung nhà văn - Xuân Sách
» Chân dung Hồ Xuân Hương
» Sau 50 Năm Đọc Lại Quốc Văn Giáo Khoa Thư (GS Trần Văn Chi)
» Hoa văn là gì và ý nghiã của hoa văn trên mộ đá công giáo
» Cảm hoài - Đặng Dung
Trang 9 trong tổng số 14 trangChuyển đến trang : Previous  1 ... 6 ... 8, 9, 10 ... 14  Next

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
daovien.net :: VƯỜN VĂN :: BIÊN KHẢO, BÌNH LUẬN THƠ VĂN-