Bài viết mới | Điển tích truyện Kiều by Trà Mi Today at 08:14
Một cuộc di tản giáo dục lớn khỏi Việt Nam…! by Trà Mi Today at 07:49
Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 20:24
Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Yesterday at 06:57
Cột đồng chưa xanh (2) by Ai Hoa Fri 04 Oct 2024, 10:19
Lục bát by Tinh Hoa Fri 04 Oct 2024, 07:29
7 chữ by Tinh Hoa Wed 02 Oct 2024, 12:22
Một thoáng mây bay 14 by Ai Hoa Wed 02 Oct 2024, 08:55
Lịch Âm Dương by mytutru Tue 01 Oct 2024, 17:15
5 chữ by Tinh Hoa Tue 01 Oct 2024, 01:24
Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Sun 29 Sep 2024, 15:22
Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Sun 29 Sep 2024, 15:14
Chùm thơ "Có lẽ..." by Tú_Yên tv Sun 29 Sep 2024, 14:47
LỀU THƠ NHẠC by Thiên Hùng Sun 29 Sep 2024, 11:52
DỤNG PHÁP Ở ĐỜI by mytutru Sun 29 Sep 2024, 01:44
Chúc mừng sinh nhật Cẩn Vũ by Ai Hoa Fri 27 Sep 2024, 09:30
SƯ TOẠI KHANH (những bài giảng nên nghe) by mytutru Fri 27 Sep 2024, 09:27
Vinh Danh Trong Toàn Cầu Thập Bát Danh Nhân by Trà Mi Wed 25 Sep 2024, 12:15
Khoa Học Gia Dương Nguyệt Ánh by Trà Mi Wed 25 Sep 2024, 11:57
8 chữ by Tinh Hoa Tue 24 Sep 2024, 14:23
ĐƯỜNG THƠ MÁI ẤM ĐÀO VIÊN by mytutru Mon 23 Sep 2024, 22:39
Tin Thời Sự Và Những Bình Luận “Trái Chiều” by chuoigia Sun 22 Sep 2024, 01:08
Kỳ thi Tú tài IBM ở Sài Gòn năm 1974 by Trà Mi Fri 20 Sep 2024, 09:44
Thành Tâm Chú Nguyện by mytutru Thu 19 Sep 2024, 10:42
Bầu Cử Mỹ 2024 by chuoigia Wed 18 Sep 2024, 22:24
Vua Trời Hỏi Phật by mytutru Mon 16 Sep 2024, 22:10
BÀI GIẢNG RẤT HAY by mytutru Mon 16 Sep 2024, 20:09
Những bài học thuộc lòng by buixuanphuong09 Mon 16 Sep 2024, 06:46
Đường luật by Tinh Hoa Mon 16 Sep 2024, 06:08
TRANG ALBUM GIA ĐÌNH KỶ NIỆM CHUYỆN ĐỜI by mytutru Thu 12 Sep 2024, 07:44
|
Âm Dương Lịch |
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
|
| | |
Tác giả | Thông điệp |
---|
Lữ Hoài
Tổng số bài gửi : 749 Registration date : 15/04/2011
| Tiêu đề: Re: Ngộ Sun 29 Jan 2012, 01:29 | |
| An Tĩnh trước một cơn giận Trong chương Sakka của Tương Ưng Bộ kinh, Samyutta Nikaya (11.4), đức Phật có dạy bằng cách kể những dụ ngôn, như Ngài vẫn thường làm. Và lời dạy trong bài kinh này vẫn còn rất xác đáng và thích ứng với thế giới ngày nay, như đã từng có giá trị đối với hơn ngàn năm trước ở một Ấn Độ xa xưa. Dụ ngôn này đề cập đến vấn đề một người mạnh nên làm gì khi bị hạ nhục, tấn công hoặc khiêu khích bởi một người yếu kém hơn mình. Tôi nghĩ lời dạy này cũng có thể ứng dụng được trong những trường hợp khi một quốc gia hùng mạnh bị những quốc gia nhỏ bé hơn mình khiêu khích, hoặc khi ta đứng trước sự đe dọa của những kẻ bất lương.
Đức Phật đưa ra một dụ ngôn về một trận chiến giữa chư Thiên và các loài A-tu-la. Trận chiến này xảy ra rất khốc liệt. Cuối cùng, chư Thiên thắng trận và loài A-tu-la bị đánh bại. Vua của A-tu-la là Vepacitti bị bắt trói hai tay, hai chân và cổ, rồi dẫn đến trước vua của chư Thiên là Sakka. Trong kinh kể, Vepacitti đã “nhiếc mắng, mạ lị Thiên vương với những lời thô ác và độc ngữ.” Dù vậy, Thiên vương Sakka vẫn bình tĩnh và vẫn đối xử với tù nhân của mình bằng một tâm từ trong chánh niệm.
Khi ấy, người đánh xe của Sakka là Matali chứng kiến cảnh ấy, ông cảm thấy khó hiểu trước hành động của chủ mình, và một cuộc tranh luận đã diễn ra. Xin mời các bạn lắng nghe sự trao đổi này giữa hai người:
Matali:
Này Thiên chủ Sakka, Có phải là ông sợ, Hay vì ông yếu hèn, Nên mới phải kham nhẫn, Khi ông nghe ác ngữ, Từ Vepacitti?
Sakka:
Không phải vì sợ hãi, Không phải vì yếu hèn, Mà ta phải kham nhẫn, Với Vepacitti. Vì một kẻ trí như ta, Lại liên hệ với người ngu?
Matali:
Nếu không người đối trị, Kẻ ngu càng nổi điên, Kẻ trí trị người ngu. Phải biết dùng hình phạt,
Sakka:
Nhưng theo như ta nghĩ, Cách đối trị người ngu: Biết kẻ khác phẫn nộ, Ta niệm tâm an tịnh.
Matali:
Hỡi Thiên chủ Sakka, Sự kham nhẫn như vậy, Tôi thấy là sai lầm, Khi kẻ ngu nghĩ rằng: “Vì sợ ta, nó nhẫn” Kẻ ngu càng hăng tiết, Như bò thấy người chạy, Càng hung hăng đuổi dài.
Sakka:
Hãy để họ suy nghĩ, Như ý họ mong muốn, Nghĩ rằng, ta kham nhẫn, Vì ta sợ hãi họ. Trong tư lợi tối thượng, Không gì hơn kham nhẫn. Người đầy đủ sức mạnh, Chịu nhẫn người yếu kém, Nhẫn ấy gọi tối thượng, Thường nhẫn kẻ yếu hèn. Sức mạnh của kẻ ngu, Ðược xem là sức mạnh, Thời sức mạnh kẻ mạnh, Lại được gọi yếu hèn. Người mạnh hộ trì pháp, Không nói lời phản ứng.
Cuộc tranh luận ấy đã nêu rõ được hai khuôn mẫu trái nghịch của con người, và cũng là hai phương cách khác nhau để ứng phó với sự khiêu khích của kẻ khác. Đường lối của Matali là sử dụng sức mạnh và quyền năng của mình để kềm chế và trừng phạt kẻ khác. Làm khác hơn thế chỉ có nghĩa là dấu hiệu của sự sợ hãi và yếu hèn. Và Matali lý luận rằng, nếu như đối thủ của mình cảm nhận được điều ấy, nó chỉ làm cho họ trở nên hung dữ và gan lì hơn mà thôi.
Sakka thì có một cái nhìn rộng lớn hơn. Cái thấy của Ngài được đặt trên nền tảng của tuệ giác, kiên nhẫn và an tĩnh.Trong bài kệ đầu tiên, Sakka chỉ cho thấy rằng thái độ nhẫn nhịn của Ngài là sự biểu lộ của một cái biết. Biết rõ rằng nguyên nhân của lòng sân hận và thù ghét là có gốc rễ từ một cái thấy sai lầm, cũng như ý thức được ảnh hưởng tai hại của chúng trên tâm thức của mình khi để cho chúng tự do bộc lộ ra. Sakka đã nhìn thấy rõ được gốc rễ của cơn giận của Vepacitti và những hậu quả tai hại của nó. Và một khi đã hiểu rõ được điều này, liệu ta có thể để cho mình bị mất bình tĩnh và để lôi cuốn vào một cơn giận tương tự như vậy không? Một con bò khôn ngoan không bao giờ lại đuổi chạy theo mỗi khi có một chiếc khăn choàng đỏ nào đó phất vẫy.
Tự do có nghĩa là có khả năng chọn lựa phản ứng của ta trước một việc xảy ra. Khi tuệ giác của ta chưa được phát triển đúng mức, nó có thể dễ dàng bị làm lu mờ trước những khiêu khích của kẻ khác. Và trong những trường hợp ấy, thật ra ta cũng đâu có khác hơn gì với những loài thú hay một người máy đâu! Nếu như không có một khoảng cách không gian giữa lời sỉ nhục làm tác nhân và phản ứng tức thì có điều kiện của ta – nổi giận – thì thật sự là chúng ta đang nằm dưới sự kiểm soát của kẻ khác. Chánh niệm sẽ giúp cho ta có được cái khoảng cách không gian ấy, và khi tuệ giác có mặt nó sẽ mang lại cho ta một khả năng phản ứng bằng sự kham nhẫn và nhu hòa. Và vấn đề ở đây không phải là ta đè nén cơn giận của mình, vì thật ra cơn giận ấy không hề khởi lên bao giờ!
Trong bài kệ thứ hai, Sakka cũng chia sẻ thêm rằng khi ta tiếp nhận một cơn giận của người nào đó mà không chống đẩy ngược lại, thì cuối cùng cơn giận ấy sẽ suy yếu dần. Tôi nghĩ trong chúng ta ai cũng có một kinh nghiệm này, là sự đối chọi qua lại chỉ tiếp thêm nhiên liệu cho ngọn lửa sân hận được bùng cháy mạnh hơn, và làm tăng thêm sức tàn phá của nó mà thôi. Và việc này dễ dàng xảy ra khi ta có một ý niệm cố chấp về cái tôi, cái ngã của mình - khi ta cảm thấy có một người nào đó bị hạ nhục và tổn thương, hoặc có người nào đó cần phải phản ứng chống trả lại. Và lần nữa, Sakka nhắc nhở rằng, cách hay nhất là ta phải ý thức, “biết” được cơn giận của kẻ khác, chứ không phải xem thường hoặc làm ngơ nó đi. Nhưng cái biết ấy cần phải được đi kèm theo với hai yếu tố của chánh niệm (sati) và tĩnh lặng (upasama), vì chúng có khả năng làm vơi đi và tiêu tán năng lực của sân hận. Nếu như không có ai ở đó để tiếp nhận một cơn giận trao đến, như một người có được một tuệ giác về vô ngã, cơn giận ấy sẽ không có một nơi nào để nương tựa, nó sẽ không thể nào tìm được một chỗ đứng.
Trong bài kệ cuối Sakka nhắc lại thêm về sự quan trọng của đức kham nhẫn (khanti) và những giá trị lợi lạc của nó. Theo lời Phật dạy, mỗi chúng ta lúc nào cũng đang tự xây dựng cho mình một thế giới riêng gồm những kinh nghiệm cá nhân, trong mỗi giây mỗi phút, khi thân và tâm ta tiếp xúc và thâu nhận các dữ kiện qua những giác quan. Phẩm chất tác ý của ta biểu lộ trong lãnh vực kinh nghiệm này vô cùng quan trọng, vì nó xác định con người của ta ngay lúc này và định hướng cho con người của ta trong tương lai. Như đối với trường hợp của Sakka, những lời lẽ và quan điểm của Vepacitti không hề động chạm gì được đến Ngài. Hạnh phúc của Sakka được bảo vệ và nuôi dưỡng bằng sự kham nhẫn và an tịnh trong suốt thời gian Vepacitti phóng những lời thô độc và ác ngữ đến cho Ngài.
Và thái độ đáng phục đó cũng có gốc rễ từ tâm từ. Như trong bài kệ cuối đã nói lên điều này; an tĩnh trước một cơn giận của kẻ khác cũng được thúc đẩy bởi sự quan tâm của ta đối với hạnh phúc của người kia, cũng như cho chính mình. Sân hận là một độc tố rất nguy hiểm, khi ta giúp người kia buông bỏ được cơn giận bằng cách không phản ứng đối chọi lại, đó cũng là tâm từ muốn giúp chữa lành vết thương cho họ.
Và đối với chúng ta thì mình cần phải hành xử như thế nào trong đời sống hằng ngày, cá nhân hay cộng đồng, để có thể ứng dụng được tuệ giác về kham nhẫn này? Ta hãy lắng nghe những lời chia sẻ sau đây của Sakka:
Bị mắng nhiếc, mắng lại, Ác hại nặng nề hơn. Bị mắng, không mắng lại, Ðược chiến thắng hai lần. Sống lợi ích cả hai, Lợi mình và lợi người, Biết kẻ khác tức giận, Giữ niệm, tâm an tịnh, Y sĩ cho cả hai, Chữa mình và chữa người, Ai nghĩ họ là ngu, Là không hiểu Chánh pháp.NGuyễn Duy Nhiên |
| | | Lữ Hoài
Tổng số bài gửi : 749 Registration date : 15/04/2011
| Tiêu đề: Re: Ngộ Thu 02 Feb 2012, 23:20 | |
| Cành Mai trong Thơ Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian. Một ngọn lá rơi, một cành hoa hé nở đều được người xưa tận tình quan chiêm về lẽ biến dịch của trời đất, của nhân sinh và hoa trở thành người bạn tri kỷ của con người. Vì chọn hoa làm bạn đồng hành trên con đường nhân sinh vời vợi nên người ta vô tình đem hoa giam vào cái xã hội đầy tính phân biệt đẳng cấp.
Sự đặt định về địa vị của các loài hoa cũng tùy nghi theo sở thích và quan niệm riêng tư trong cung cách xử thế mà người ta xếp từng loài hoa vào một địa vị, nhưng tựu trung vẫn dựa vào truyền thống văn hóa của dân tộc và đặc tính riêng biệt của mỗi loài hoa.
Người Trung Hoa xưa đã dựa trên nền tảng triết lý của Khổng, Lão mà phân chia các loài hoa theo cấp bậc:
Hoa Lan: Vi vương giả chi hương.
Hoa Cúc: Đồng ẩn dật chi sĩ.
Hoa Mẫu Đơn: Quốc sắc thiên hương chi phú quý.
Hoa Mai: Băng cơ ngọc cốt ngạc chi thanh kỳ.
Lại có lắm người cho rằng: thanh cao, tinh khiết như Lan, Huệ. Không khuất phục trước cường quyền như Mẫu Đơn thì được gọi là loài hoa vương giả. Lộng lẫy như Hường, thanh kỳ như Mai, kín đáo như Cúc là các loài hoa thuộc hạng phú quý. Vạn thọ, Mồng Gà là loài hoa bình dân…
Từ sự gần gũi với hoa, con người đã nắm bắt được thời gian nở, tàn của hoa, nắm bắt được mối tương quan giữa hoa với sự biến dịch của thời tiết. Người xưa phân định rõ ràng cái “hiện tượng thời gian của hoa” theo nguyên từ “tiết”. Mỗi tiết, hoa kéo dài 15 ngày, mỗi tiết có một ngọn gió riêng tác động lên mỗi loài hoa để chúng nở rộ.
Đặc biệt, Mai là hình ảnh của mùa xuân, “Mai vàng đem đến tin xuân”. Vào khoảng đầu tháng chạp, người ta bắt đầu lặt lá Mai để hoa trổ đúng vào ngày xuân. Những ngọn gió xuân sẽ mơn trớn những nụ mai và chúng sẽ trổ đúng thời.
Mùa xuân là bắt đầu của năm mới, sức sống mới, đồng thời cũng là tiếng nói của thời gian; có lẽ vì thế mà Xuân Diệu đã viết:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già. (Vội vàng)
Mùa xuân là mùa của khí hậu ôn hòa ấm áp. Mỗi lần xuân về trên muôn cây cỏ đều khoác lên mình chiếc áo mới thật lỗng lẫy, nhưng chiếc áo ấy rồi cũng thay đổi khi mùa xuân qua đi. Đối với nhân sinh, xuân đến xuân đi tâm trạng thường lo mừng, nuối tiếc, nhưng với thiền sư Mãn Giác đã “ngộ” được lẽ huyền vi của tạo hóa từ sự biến dịch của loài hoa nên Cáo Tật Thị Chúng:
Xuân khứ bách hoa lạc Xuân đáo bách hoa khai Sự trục nhãn tiền quá Lão tòng đầu thượng lai Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Dịch: Xuân qua trăm hoa rụng Xuân đến trăm hoa nở Trước mắt việc đi mãi Trên đầu già đến rồi Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết Đêm qua sân trước một nhành mai. (Ngô Tất Tố dịch)
Cái nhìn của bậc đạt đạo về việc hoa nở, hoa tàn không như cái nhìn của thế nhân, cái nhìn ấy vượt ra ngoài sự còn mất, trói buộc, có không. Có lẽ mai là loài hoa có nhiều đặc tính như chịu đựng được giá rét buốt lạnh của mùa đông, nhưng khi nắng xuân về ấm áp thì mai lại đơm bông rực rỡ. Người biết yêu mai sẽ cảm nhận cái đẹp của mai. “Mai trắng tinh khiết thanh tao. Mai vàng nhớ nhung xao xuyến”. Mai đẹp ở sắc, đẹp cả cành. Hương mai kín đáo nhẹ nhàng; do đó, nhà thơ Nguyễn Du có câu:
Mai cốt cách tuyết tinh thần Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười. Mỗi nghệ nhân thi sĩ nhận xét về hoa mai theo từng khía cạnh khác nhau tùy theo quan điểm của mình nhưng tựu trung vẫn là ca ngợi nét đẹp thuần túy, thanh bạch, tinh khiết của hoa mai. Đời Tống có bài Mai Hoa rất hay. Hay nhất ở hai câu “Dao trì bất thị tuyết. Vị hiểu ám hương lai”. Ở xa, màu trắng của hoa không phải màu trắng tuyết, vì có hương thầm bay đến. Hương mai tuyệt lắm, không nồng nàn như bông sứ, bông sen. Hương mai thoảng nhẹ chừng như hòa tan trong gió… Mai lại có sức chịu đựng dữ dội, có lẽ vì thế mà các nhà thơ thường ví cây mai với sự cao cả, thanh khiết, tao nhã.
Nguyễn Trãi, nhà thơ, nhà văn hóa nổi tiếng, bậc anh hùng dân tộc, đã ca ngợi vẻ đẹp của mai:
Ái mai, ái tuyết, ái duyên hà? Ái duyên tuyết bạch mai thanh khiết. Dịch: Yêu mai, yêu tuyết bởi vì đâu? Tuyết trắng và mai thì thanh khiết.
Các nhà thơ còn xem mai là hoa đi đầu, là ‘chúa xuân’ báo hiệu niềm vui năm mới! “iên hướng bách hoa đầu thượng khai. (Trong trăm loài hoa, mai nở trước tiên) Nhà thơ Cao Bá Quát trong bài Tài Mai: Đầu xuân nắm hạt mai gieo Giống thanh gởi chốn núi đèo xanh tươi Nữa mai xuân điểm bầu trời Bức tranh tuyệt tác cho đời ngắm chung.
Điều này cho thấy, hoa mai có thể hiểu đồng nghĩa với cái đẹp, điều tốt lành mà ông một đời mong ước. Ông đã từng vượt qua số phận thăng trầm, dám ngẩng cao đầu sống giữa đất trời; người đã từng đứng lên khởi nghĩa chống chế độ phong kiến, như ông nói: “Bước tới đường danh chẳng cúi đầu”, nhưng với hoa mai, ông suốt đời “cúi đầu bái phục”:
Thập tải luân giao cầu cổ kiếm Nhất sinh đê thủ bái mai hoa.
Dịch: Mười năm bàn đạo giao du, khó như tìm gươm cổ Một đời chỉ biết cúi đầu bái phục hoa mai.
Nhà thơ Tản Đà, người đã phất cao ngọn cờ văn chương thời kỳ cận đại, thơ của ông khác nào một luồng gió mạnh ào ạt thổi vào lòng nhân gian đang ngái ngủ. Ông sống để cống hiến hết mình cho cộng đồng, nhưng ông cũng là khách đa tình, ông dùng hình ảnh mai để so sánh với người đẹp:
Xương mai một nắm hao gầy Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương. (Thề Non Nước)
Còn nhà thơ Chế Lan Viên gặp cành mai nở trong thời chiến tranh, ông gọi đó là “cành mai trận mạc”, vàng rực một màu thương nhớ. Ngắm nhìn hoa mai mà nỗi nhớ quê nhà dâng ngập tâm hồn khiến nhà thơ thổn thức:
…yêu cành mai yêu lắm …cành mai ấy sao khuây. (Đào và Mai)
Từ một nhành mai, các nhà thơ đã đưa cảm nhận của mình với mai vào thơ bằng nhiều hình ảnh rất đặc sắc. Cánh mai luôn là biểu tượng của niềm vui, của sự tốt đẹp, thanh khiết, tao nhã trong cuộc sống.
Tết đến, theo tập tục của người dân từ Trung bộ vào Nam, mỗi nhà thường trang trí một nhành mai vào bình sứ và gắn lên cành mai đầy những tấm thiệp chúc Xuân đủ màu càng tạo thêm vẻ quý phái của hoa mai. Hoa mai nở rộ, còn là biểu hiện của điềm tốt lành cho năm mới, tượng trưng cho sự đầy đủ, trọn vẹn của cuộc sống mà người chơi mai trong ngày xuân luôn ước nguyện mọi việc sẽ tốt lành.
Cành mai trong thơ, chính là chất liệu của nhân thế, là hơi thở, là tiếng lòng của các nhà thơ miêu tả cái vui mà các nhà thơ cảm nhận bằng hình ảnh cành mai mùa xuân. Còn với thiền sư Mãn Giác “cành mai” không tàn, không thể bảo rằng, “xuân tàn hoa rụng hết”. Vì Ngài đã thể nhập được chân lý của vũ trụ, bản thể của vạn vật trong cuộc đời, thấy được mặt thật của chính mình, nên Ngài không còn bị sắc hương lôi cuốn, tâm hồn Ngài lắng trong tự tại, lặng lẽ nhìn hoa “nở, rụng” một cách tự nhiên.
Chuyện hoa nở, hoa tàn không còn là hình ảnh khiến người tăng sĩ buồn vui. Dưới mắt người đạt đạo, có một điều thoát ra ngoài quy luật sanh diệt của thời gian, đó là “chân tâm bất diệt”. Dù thời gian có biến đổi, thân tứ đại có đổi thay, nhưng cái chân tâm không bao giờ mất, như cành mai vẫn còn đó mặc dù mùa Xuân đã đi qua. “Đêm qua sân trước một nhành mai”.
LAM YÊN |
| | | Lữ Hoài
Tổng số bài gửi : 749 Registration date : 15/04/2011
| | | | Lữ Hoài
Tổng số bài gửi : 749 Registration date : 15/04/2011
| Tiêu đề: Re: Ngộ Mon 06 Feb 2012, 00:56 | |
|
Hạnh ngộ ở Dharamsala
Từ thủ đô New Delhi, sau một đêm ngủ vờ vật và nôn mửa mấy bận, tôi đã đến Dharamsala. Trạm xe đỗ là một khoảnh đất rộng vài trăm thước vuông, trung tâm khu phố nhỏ McLeod Ganj. Tôi lật bản đồ ra xem, nhìn quanh quất. Đây rồi. Mấy con đường chính: Tipa roaddẫn đến Dharamkot - trung tâm thiền Vipassana; Temple road đến ngôi chùa Namgyal - nơi ngụ của Đức Dalai Lama;Bhagsunath road dẫn đến con thác nhỏ;Jogibara road, con đường có nhiều hàng quán, nhà trọ và những trung tâm giao lưu Anh ngữ - tôi quẩy ba lô xuôi theo con đường này. Cuối tháng Giêng, Dharamsala vẫn còn rất lạnh. Mấy chóp núi trên đỉnh Dhauladar đang đội những cái nón tuyết trắng tinh tươm. Nhưng McLeod Ganj thực ra đã khá ấm, cỏ cây xanh tốt và hoa dại ven đường đua nhau nở. Tôi rẽ xuống con đường của trường mẫu giáo Tây Tạng, vừa đi vừa đưa mắt tìm kiếm một căn nhà trọ khả dĩ để ở chừng đôi ba tháng. Lơ ngơ, tôi đá phải một bụi gai nhỏ. Cơn đau buốt nhói khiến tôi la oái như bị dăm bảy con ong cùng chích. Tội vội ngồi thụp xuống, nước mắt trào ra. Trời ơi, đau quá! - Don’t cry! If you cry, you are like children! (Đừng khóc! Nếu khóc, chị giống như trẻ con!) Tiếng một đứa bé ngượng nghịu ngay trước mặt. Tôi ngẩng đầu lên. Một bé gái Tây Tạng. Cái kiểu bé gái nói khiến tôi phải bật cười, dù vẫn còn nhức buốt. Cô bé khoảng chừng tám tuổi, có lẽ sinh ra ở McLeod Ganj - nơi được mệnh danh là tiểu Lhasa Ấn Độ - cái khu “hợp chủng quốc”, nên nói tiếng Anh khá rành rẽ. Cô bé bảo tôi chờ chút, rồi tìm quanh và hái một nhúm lá mềm, vò nát trong hai bàn tay bé nhỏ, chà vào vết gai chích. Trong một phút, tôi cảm thấy cơn đau dịu lại. Xem ra cô bé cũng có ít nhiều kinh nghiệm về phương thuốc dân gian đặc trị loại gai này. - Cảm ơn em. Tôi nói. Em tên gì? - Em tên Pema! Cô bé trả lời. Về sau, tôi biết Pema có nghĩa là hoa sen - một đóa sen nhỏ dễ thương. - Chị đi tìm nhà trọ à? Cô bé hỏi. - Sao em biết? - Thì bao nhiêu người đến đây cũng tìm nhà trọ mà. Gần nhà em còn một phòng trống đó, người ta mới đi. Tôi theo em đến một ngôi nhà nhỏ. Thoạt nhìn, tôi biết ngay đây là ngôi nhà của người Tây Tạng, một mảnh vải đỏ sẫm với nhiều hoa văn đẹp mắt làm bức rèm chắn ở cửa ra vào. - Đây là nhà em. Chị vào nghỉ chút! Em mời tôi ngồi xuống chiếc ghế nhỏ rồi tất tả vào trong pha một cốc trà bơ sữa, người Tạng gọi là pocha, béo và mằn mặn… hơi khó uống. Nhưng sự mến khách của Pema khiến tôi hết sức xúc động. Tôi nhớ một câu nói của người Tây Tạng, rằng: cho dù kẻ thù có ghé nhà bạn, thì bạn cũng không để họ ra đi khi chưa mời một tách trà! Đang trò chuyện với Pema, chợt tôi nghe sau lưng có tiếng người. Một chàng trai Tây Tạng đột ngột xuất hiện, đứng choáng ngay cửa vào. Tôi hơi sững sờ. Chàng trai này sao quen quá, nhưng chắc chắn là tôi chưa gặp bao giờ! Có lẽ tôi đã trông thấy một người giống như thế trên mạng chăng? Vào dịp Tết nguyên đán vừa rồi, do công việc của một năm không mấy trôi chảy và có nhiều phiền muộn, tôi đã cùng với nhỏ bạn đi hành hương thập tự ba đêm bốn ngày từ TP.HCM lên Đà Lạt. Hướng dẫn tâm linh cho đoàn là một vị Đại đức trẻ. Trong suốt hành trình, thầy đã hướng dẫn đoàn cách lễ Phật, hành thiền và kể nhiều câu chuyện thú vị. Nhưng chuyện tôi quan tâm nhất chính là việc thầy một mình quảy ba lô đến Ấn Độ, chiêm bái nhiều Phật tích và ở suốt bốn tháng tại Dharamsala. Mặc dù ở Ấn, nhưng hầu như thầy chỉ kết bạn với những người Tây Tạng, phần lớn trong số đó là những người rời khỏi quê hương họ để đến Dharamsala, nơi có cộng đồng Tây Tạng và đặc biệt là vị thầy tâm linh vĩ đại: Đức Dalai Lama. Thầy cũng say sưa kể về khóa thiền Vipassana mười ngày tại Dharamkot. Khóa thiền khá khắc nghiệt: tuyệt đối giữ yên lặng (trừ lúc trình pháp với thiền sư), không đọc sách, không viết, không trao đổi (dù là bằng mắt); mỗi ngày ngồi thiền 10 giờ và 2 giờ nghe giảng, từ 4 giờ sáng đến 9 giờ tối. Ăn thì gồm một bữa chính với 2 bữa nhẹ - nhưng toàn thức ăn Ấn Độ khó nuốt - khó nuốt nên dễ dàng nhận thấy nhu cầu và sự thèm khát ghê gớm của mình. Thầy nói, hơn 15 năm tu học, thầy chỉ nhận chân lờ mờ con đường giải thoát; nhưng chỉ sau 10 ngày thiền tập, thầy thấy rõ được con đường. “Vấn đề là mình có chịu đi hay không thôi”, thầy khôi hài bảo. Sau khi hướng dẫn chúng tôi thiền hơn 1 giờ, thầy dặn: “Đây chỉ là thiền gieo duyên thôi. Nếu ai muốn học thiền để thấy rõ được mình, tốt hơn hết là phải tham dự một khóa, ít nhất là 10 ngày”. Cũng chính vì câu nói đó mà tôi buông tất cả công việc để có mặt tại Dharamsala, dù tại Việt Nam hiện nay ó không ít những khóa thiền như thế. Đơn giản là vì tôi muốn được tận hưởng những cảm giác giống thầy nơi vùng đất thiêng liêng này. Sau chuyến hành hương, tôi lên mạng tìm hiểu tất cả những thông tin về Dharamsala, về cộng đồng lưu vong Tây Tạng và về những khóa thiền. Trong những lúc lang thang trên mạng đó, tôi đã tình cờ bắt gặp hình ảnh một chàng trai Tây Tạng đứng cô đơn giữa hoang thảo. Chàng trai đó, không hiểu sao, giống với chàng trai này quá thể! - Chào cô! Cô từ đâu đến? Chàng trai hỏi bằng một thứ tiếng Anh đậm chất Tây Tạng. Tôi đáp: - Tôi đến từ Việt Nam! - Vien-na à? - Ồ, không! Việt Nam. Tôi nói thêm: Việt Nam nằm cạnh Lào và Campuchia. - Có gần Thái Lan không? - Cũng gần. Nhưng gần Trung Quốc hơn. Việt Nam là láng giềng của Trung Quốc. Chàng trai gật đầu ra chiều hiểu biết, nhưng kỳ thực, đây là lần đầu tiên anh ta nghe đến cái tên Việt Nam. Tôi cũng lấy làm lạ và hơi sốc, nhưng sau này tôi biết rằng có khá nhiều người Tây Tạng chưa từng nghe hay biết gì về Việt Nam! Chàng trai mà tôi cảm thấy “quen biết” từ lâu ấy tên là Tenzin - một cái tên rất Phật giáo, có nghĩa là hộ trì chánh pháp. Ban đầu tôi tưởng Tenzin là anh trai của Pema, nhưng Pema bảo không phải, anh ấy chỉ là “một người hàng xóm tốt bụng”. Tenzin cũng rất vui khi biết tên tôi là Sa, vì tôi bảo Sa như trong chữ Lhasa. Lhasa là quê hương anh! Không hẹn mà gặp, tôi thuê được căn phòng ở cạnh phòng Tenzin. Hàng ngày Tenzin đi làm ở một quán bán đồ thờ cúng, lưu niệm - chủ yếu là tượng Phật, pháp khí, đặc biệt là tranh thangka. Nhờ sự giới thiệu của Tenzin, tôi xin được việc làm thiện nguyện tại LTWA - Library of Tibetan Works And Archives - thư khố của người Tây Tạng, nằm không xa khu phố McLeod Ganj. Tôi làm việc một tuần ba buổi, chủ yếu là lau dọn và sắp xếp sách báo, nhưng nhờ vậy mà tôi hiểu thêm được rất nhiều điều. Thời gian còn lại, tôi đến lớp đàm thoại Anh ngữ dành cho người Tây Tạng ở LHA, gần trạm xe bus. Thỉnh thoảng tôi cũng tham gia chương trình thu gom rác trên những con phố, phân thành hai loại: rác dễ tiêu hủy và rác khó tiêu hủy. Ở McLeod Ganj, người ta hầu như không sử dụng bao ny-lon mà thay vào đó là một loại bao giấy được làm từ những tờ báo cũ, nên mỗi khi đi mua thức ăn, tôi phải ôm hết vào người. Tôi hay đến tiệm bán hàng nơi Tenzin làm việc, đến độ có người xì xầm rằng tôi và Tenzin chính là một “cặp đôi hoàn hảo”. Nhưng tôi chỉ cười. Tôi tin Tenzin, cảm nhận nơi anh một sự bình an vững chãi, dù anh đã trải qua rất nhiều đau khổ, phải xa quê hương và sống một mình nơi mảnh đất này. Bàn chân phải của anh đã mất đi một ngón do bị hoại tử - hậu quả của cuộc hình trình trốn khỏi Tây Tạng để đến Nepal với một đôi dày vải suốt gần một tháng trời trên vùng tuyết lạnh. Anh đến Dharamsala được hai năm và đang trong diện chờ để được sang Úc định cư trong một chương trình tiếp nhận 1.000 người Tây Tạng của quốc gia này. Xong việc, Tenzin thường dẫn tôi đến chùa Namgyal lễ Phật. Mỗi chiều, anh lạy chừng 300 lạy - lạy nằm dài xuống đất, vừa lạy vừa niệm câu chú Om mani padme hum. Tôi cũng lạy theo anh, ban đầu rất mệt nhưng sau quen dần, cảm thấy khỏe khoắn và an lạc. Tenzin không thích lạy trên thềm chùa, mà giống như nhiều người Tây Tạng khác, anh trải tấm ván ngoài vườn và lạy vọng vào. Lạy như thế, tôi có cảm giác là mình đang lạy vị Phật bên trong mình hơn là lạy một vị Phật ở bên ngoài. Cảm giác đó rất hay. Một bữa, Tenzin nói với tôi: - Em có muốn tự tay nấu món thenthuk và làm bánh momo không? Dĩ nhiên là tôi gật đầu. Tenzin không đưa tôi về nhà mà dẫn tôi đến một nơi khác - một gian nhà nhỏ nằm tuốt trên đồi bên đường Bhagsunath. Trong gian nhà nhỏ có hai vị sư già đang ngồi trầm mặc. Anh bảo hai vị là đồng hương Lhasa với anh, thỉnh thoảng anh đến nấu ăn cúng dường cho hai vị. Bởi thường các vị chỉ ăn uống qua quýt, còn những bữa ăn chính thì được các gia chủ luân phiên thỉnh đến nhà cùng ăn. Ăn xong, họ tụng kinh và chúc phúc cho cả nhà. Thenthuk là món súp, kiểu như bánh canh của người Việt. Nồi nước được bắc lên bếp đun sôi rồi nêm gia vị; bột mì nhào kỹ, cán mỏng, cắt lát dài, bề ngang chừng 1cm, dùng tay lắt từng miếng vuông thảy vào nồi. Còn momo thì tựa bánh bao, có thể nắn thành hình tròn, nhưng cũng có khi làm dẹt kiểu bánh bột lọc. Hai món này là hai món ăn truyền thống và phổ biến nhất của người Tây Tạng. Bữa ăn tối hôm đó với hai vị sư thật ấm áp, dễ chịu. Ăn xong, chúng tôi chào hai vị sư ra về. Bên ngoài, trời tối mịt mùng. Tenzin phải dắt tay tôi, lần từng bước cho khỏi ngã. - Sa nè! Tenzin nói, giọng trầm lắng rất ư “nỗi niềm”. Cuộc sống thật vô thường. Chắc sẽ không bao giờ có được những ngày như hôm nay. Tôi hỏi: - Anh nói vậy nghĩa là sao? - Giấy tờ đã hoàn tất, anh sắp đi rồi, nhưng chưa biết cụ thể là ngày nào! - Bên trung tâm Vipassana cũng đã báo cho em biết là ngày kia khóa thiền sẽ bắt đầu. Em đến đây chủ yếu để tham dự khóa tu này... Tenzin không nói gì nữa. Chúng tôi đi song song, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ, lòng buồn man mác. Trời đêm mỗi lúc mỗi lạnh. Hôm sau, Tenzin đón auto-rickshaws đưa tôi đến trung tâm thiền Vipassana gần Dharamkot. Tôi phải đến sớm một bữa theo đúng quy định, để nhận chỗ ở, làm quen với không gian mới và nghe phổ biến nội quy khóa thiền. Xe chạy vòng vèo qua những ngọn đồi, qua những rặng thông già và những cây sồi Himalaya rồi đột ngột dừng lại trước một cánh cổng màu vàng. Trung tâm thiền đây rồi. Đúng lúc đó, tôi chợt nhớ đến vị Đại đức trẻ trong chuyến hành hương thập tự. Thầy cũng đã đến đây, đã đứng trước cánh cổng màu vàng này, giống tôi. Nhưng, tâm trạng của thầy lúc đó chắc là khác xa với tâm trạng của tôi bây giờ. Tôi tự nhủ, mình đến đây là để nhận ra chính mình, để nhận ra con đường; Tenzin chỉ là một giấc mơ, một chàng trai cô đơn giữa hoang thảo như trong bức ảnh... Chợt Tenzin choàng tay khẽ ôm lấy bờ vai tôi, xiết nhẹ. Tôi hơi bất ngờ nhưng vẫn yên lặng. - Xin lỗi em... Anh chỉ muốn ôm lấy một người Việt Nam thôi chứ không có ý gì. Cảm ơn em đã cho anh biết về một dân tộc! - Cảm ơn Tenzin, cảm ơn người-Tây-Tạng-tốt-bụng! Tôi khẽ nói. Chúng tôi chia tay nhau trước cánh cổng vàng trong một buổi chiều nắng cũng ngả vàng như thế... Hơn mười ngày sau, khóa thiền kết thúc. Chiếc auto-rickshaws lại đưa tôi trở về căn nhà trọ quen thuộc. Bên cạnh phòng tôi vẫn là căn phòng của Tenzin. Nhưng… ở đó không có Tenzin mà là những người Tây Tạng khác. Tôi chợt hốt hoảng. Tenzin đi rồi? Đúng là Tenzin đi rồi! Những người ở đó nói với tôi là Tenzin đã tới New Dehli, chuẩn bị sang Úc... Không dưng, tôi bật khóc. Khóc ngon lành. - Don’t cry! If you cry, you are like children! Tiếng của Pema vang lên ngay sau lưng tôi. Tôi quay lại nhìn em rồi khẽ ôm em vào lòng, nói: - Đóa sen nhỏ của chị! Chị khóc, nhưng không phải giống con nít đâu. Chị khóc là vì một con người, một dân tộc, em có hiểu không! Đỗ Thiền Đăng |
| | | Lữ Hoài
Tổng số bài gửi : 749 Registration date : 15/04/2011
| Tiêu đề: Những bài học quý giá Mon 06 Feb 2012, 11:19 | |
| Alexander The GreatCho chúng ta những bài học gì ? Chuyện kể rằng: vào ngày Alexander Đại Đế trở thành người chinh phục được cả thế giới, ông đã đóng cửa phòng ngồi khóc. Nhưng tướng lĩnh của ông rất lấy làm lo lắng. Điều gì đã xảy ra? Họ chưa từng thấy ông khóc bao giờ, ông đâu phải là người như vậy. Họ đã sát cánh cùng ông trong những giờ phút hiểm nghèo nhất. Đôi khi cái chết đã kề bên nhưng họ không hề thấy trên gương mặt của ông lộ vẻ tuyệt vọng. Ông luôn là tấm gương về sự dũng cảm. Thế mà bây giờ điều gì đã xảy ra, khi mà cả thế giới đã bị ông chinh phục? Họ gõ cửa phòng ông và hỏi: – Thưa ông, tại sao ông lại khóc, điều gì đã xảy ra với ông? Alexander Đại đế trả lời: – Bây giờ, khi ta trở thành người chiến thắng thì ta hiểu ra rằng ta đã thất bại. Bây giờ trong lòng ta sự chinh phục vô nghĩa đang trỗi dậy. Điều này chỉ bây giờ ta mới biết, bởi vì trước đây ta luôn ở trên đường, ta có mục đích. Còn bây giờ ta không còn biết đi đâu, chinh phục ai nữa. Ta cảm thấy bên trong mình có một sự trống rỗng khủng khiếp. Ta đã thất bại.
Vị Hoàng đế cao thượng Hai thế kỷ sau khi Đức Phật tạ thế, Alexander Đại đế chinh phục gần hết Tây Á và đang tiến đến biên cương của Ấn Độ. Nhưng vị Hoàng đế, vị tướng tài ba vẫn chưa quyết định tiến vào Ấn Độ. Ngài hiểu rằng đất nước này có quân đội thiện chiến với những con voi to lớn được huận luyện kỹ càng. Thời ấy, cai trị đất nước Ấn Độ là Hoàng đế Paras, nổi tiếng là một vị Hoàng đế cao thượng. Alexander cử người yêu của mình đến gặp Paras. Ở Ấn Độ có ngày lễ các chị em gái. Theo phong tục, trong ngày này cô gái có thể buộc sợi chỉ đỏ vào cổ tay chàng trai và gọi chàng là anh trai của mình. Còn chàng trai phải chạm vào bàn chân cô gái và thề sẽ bảo vệ cô như em gái. Em gái thì hứa sẽ cầu nguyện cho anh trai suốt đời. Vào đúng ngày này, người ta báo cho Hoàng đế Paras biết rằng có cô gái xinh đẹp, nổi tiếng khắp trần gian, người yêu của Alexander Đại đế muốn gặp ông. Hoàng đế Paras bước ra niềm nở chào đón cô gái. Sau đó ông dẫn cô vào cung điện, mời cô ngồi lên ngai vàng và lễ phép hỏi: – Cô đi đường rất lâu mới đến được đây. Ta có thể giúp cho cô điều gì? Cô gái trả lời: – Tôi đi dến đây bởi vì tôi muốn ngài trở thành anh trai của tôi. Tôi không có anh trai và rất muốn ngài trở thành anh trai tôi. Paras hiểu rằng điều này có thể chỉ là một sự khiêu khích nhưng ông vẫn quì xuống ôm bàn chân người đẹp và nói: – Nếu cô không có anh trai thì ta xin làm anh trai của cô! Cô gái quấn sợi chỉ đỏ vào cổ tay vị Hoàng đế và hứa sẽ suốt đời cầu nguyện cho ông. Sang ngày hôm sau Alexander Đại đế bắt đầu tiến quân vào Ấn Độ. Paras cũng ra trận trên một con voi to lớn. Trong một trận đánh, Paras đã dùng giáo đâm chết con ngựa của Alexander. Alexander ngã xuống đất. Con voi đã được huấn luyện dùng chân giẫm lên kẻ thù, nó đã giơ chân nhưng Paras bỗng nhớ đến sợi chỉ đỏ buộc trên cổ tay và nghĩa vụ của mình trước người yêu của Alexander nên giật dây và con voi lùi lại. Bằng việc làm như vậy, ông đã bỏ qua cơ hội chớp nhoáng và cuối cùng bị thất bại. Ông bị bắt làm tù binh, bị cùm và người ta dẫn ông đến gặp Alexander. Mặc dù bị cùm nhưng vẻ trang nhã và cao thượng của vị Hoàng đế đã làm cho người chinh phục vĩ đại không khỏi ngạc nhiên và kính phục. Alexander hỏi Paras: – Ngài muốn ta xưng hô với ngài như thế nào? – Cần xưng hô như với một Hoàng đế. – Paras trả lời. Alexander bảo quan lính: – Ta chưa bao giờ gặp một ai như Paras. Ông ta là tù binh nhưng phong thái và nói năng đĩnh đạc quá. Sau đó ông ra lệnh: – Hãy tháo cùm cho ông ấy, ngay cả trong cùm thì ông vẫn là một Hoàng đế. Hãy trả lại vương quốc cho ông ấy! Trước khi chia tay, Alexander hỏi Paras: – Tại vì sao ngài đã quay mũi giáo khi ta đã nằm dưới đất? Chỉ một phút là ta đã có thể bị giết chết, hoặc con voi của ngài đã có thể giẫm lên ta. Tại vì sao ngài đã không làm như vậy? Paras trả lời: – Xin ngài đừng hỏi về điều này. Đây là sợi chỉ đỏ. Ngài có biết gì về nó không? Tôi không thể bước qua những điều như vậy. Người yêu dấu của ngài là em gái của tôi nhưng không phải vì điều này mà ngài phải tỏ ra trách nhiệm với tôi.
Alexander Đại đế và Sannyasin Alexander Đại đế chuẩn bị lên đường chinh phục Ấn Độ, thầy của ông là nhà triết học Aristotle dặn: “Từ Ấn độ hãy mang về đây cho thầy một món quà. Hãy đem về đây một Sannyasin – người tránh xa cuộc đời thường để tìm ra chính mình”. Đi qua nhiều nơi, ở đâu Alexander cũng hỏi dân chúng: “Ta muốn gặp người nhận thức được chính mình. Ta không cần người đang đi tìm mà cần người đã tìm được chính mình”. Lần nào dân chúng cũng trả lời ông: “Ở dưới chân đồi, bên sông có ông già như vậy”. Alexander ra lệnh cho một vị tướng đi tìm và dẫn về cho ông người như vậy. Khi vị tướng và binh lính đến nơi nói trên, hỏi một già làng về Sannyasin thì được trả lời: – Vâng, quả là ở đây có một Sannyasin. Nhưng chắc gì các ông thuyết phục được người này. Vị tướng cười trả lời: – Vớ vẩn! Nếu Alexander Đại đế ra lệnh thì cả tổng này sẽ đi theo ông. Sau đó họ đi tìm Sannyasin, thấy một ông già cởi trần đứng bên sông. Những người lính bảo: – Ngài hãy đi với chúng tôi. Alexander Đại đế mời ngài làm khách của ông. Ngài sẽ được ban thưởng hậu hĩnh, ngài sẽ có tất cả những gì ngài muốn. Alexander Đại đế sẽ đưa ngài về Hy Lạp. Sannyasin bình thản trả lời: – Không một thế lực nào ở đời này bắt được ta theo các người. Nếu Alexander cần ta thì ông ấy cứ việc đến đây. Vị tướng mà Alexander phái đến tỏ ra vô cùng ngạc nhiên. Ông chưa bao giờ nghe giọng kẻ cả như vậy, nhưng ông không dùng sức mạnh mà quay về bảo Alexander: – Người này rất cao ngạo với con và con sợ hắn cũng sẽ như thế với ngài. Alexander Đại đế ngẩng đầu kiêu hãnh: – Kẻ nào không biết kính trọng ta, kẻ đó sẽ chết. Ta đi đây. Nhưng khi đến nơi, Alexander cảm thấy một điều gì không bình thường. Sannyasin nói với ông trước: – Ngài là Alexander Đại đế hả. Ta nghĩ rằng tất cả những ai tự xưng mình là người vĩ đại thì không hề vĩ đại. – Ta đến đây không phải để tranh cãi – Alexander Đại đế trả lời – ta đến đây để mời ngài. Ông già mỉm cười: – Ta tự do như cơn gió! Không thể nào mời được gió. Gió thổi theo ý mình. Nếu ta cảm thấy cần thì ta tự đến Hy Lạp, nhưng nếu ta không muốn thì chẳng ai bắt được ta. Những lời này làm cho Alexander giận dữ. Ông rút kiếm ra và nói: – Nếu ngài không đi theo ta, ta sẽ giết. Sannyasin trả lời: – Ngài đã muộn. Ta đã tự giết chết mình. Alexander giơ kiếm: – Bây giờ đầu sẽ lìa khỏi cổ! Sannyasin trả lời: – Ngài có thể chặt đầu ta nhưng không thể giết được ta, bởi vì khi ngài nhìn thấy đầu ta rơi xuống đất thì ta cũng nhìn thấy nó. Alexander đã không thể giết con người này. Trong nhật ký của ông vẫn còn ghi lại những điều này. Sannyasin có tên là Datdamesh.
Alexander Đại đế (356 - 323 trước Công nguyên) là vị hoàng đế từng nghiền nát đế chế Ba Tư hùng mạnh và xây dựng nên đế chế Hy Lạp. Ông là một thiên tài quân sự bẩm sinh và cũng được xem là người có những đóng góp lớn trong tiến trình phát triển của lịch sử văn minh nhân loại.
Alexander Đại đế là con của Vua Philip II xứ Macedonia và người vợ thứ tư, công chúa Olympias xứ Epirote. Khi còn nhỏ, Alexander là học trò của Aristotle. Ông trở thành vua xứ Macedonia vào mùa hè năm 336 trước Công nguyên khi cha ông bị ám sát. Thấy đất nước có quá nhiều hiểm hoạ nội chiến, ông hạ lệnh giết một loạt kẻ âm mưu phản nghịch và bắt đầu công cuộc chinh phạt của mình.
Vị hoàng đế trẻ Alexander đã làm chấn động vùng Trung Đông với cuộc chiến tranh đẫm máu trong lịch sử nhân loại và mở đường cho sự bành trướng nhanh chóng của nền văn hóa Hy Lạp trên các vùng đất bị chiếm đóng. Đây cũng là một trong những lý do chính để người ta tôn Alexander là đại đế.
Trong suốt cuộc đời chinh chiến của mình, Alexander Đại đế đã để lại nhiều bài học lãnh đạo khác nhau, trong từng thời kỳ khác nhau. Năm 334 trước Công nguyên, Alexander Đại đế bắt đầu cuộc chiến với đế chế Ba Tư. Với 35.000 quân và chiến tướng tin cậy, tại dòng sông Granicus gần thành cổ Troy, Alexander Đại đế bắt đầu tấn công quân Ba Tư gồm 40.000 lính và chiến thắng dễ dàng.
Sau trận chiến lẫy lừng đó, toàn bộ thành bang khác ở khu vực này đều rạp mình trước vị tướng trẻ. Tiến thẳng quân về phía Nam, Alexander đối mặt với quân đội chủ lực của Ba Tư dưới sự chỉ huy của vua Darius III tại Issus, phía Tây Nam Syria. Sau khi giành thắng lợi, quân đội của Alexander thu được rất nhiều thứ phục vụ quân đội và bắt được cả vua Ba Tư Darius III, vợ và mẹ ông ta.
Alexander có thể bán, đòi tiền chuộc với những con tin dòng dõi quý tộc này nhưng Alexander đã cho họ nhà ở và cho phép họ giữ nguyên thân thế. Thậm chí Alexander còn trở thành người bạn thân thiết của mẹ Darius và người con gái đã kết hôn của Darius.
Bài học lãnh đạo: Nếu lãnh đạo tổ chức là người cao thượng, chắc chắn sẽ có được sự gắn kết với mọi người.
Sau cuộc chinh phạt Ba Tư, nhiều lính Hy lạp xem người Ba Tư như những người man rợ, không có văn hoá. Tuy nhiên, Alexander không có tư tưởng phân biệt như vậy. Ông thừa nhận trang phục và phong tục của Ba Tư, đối xử với mọi người bằng sự tôn trọng ngang nhau và khuyến khích mạnh mẽ một chính sách hợp nhất văn hoá - biểu hiện là ông đã kết hôn với 3 người phụ nữ Ba Tư.
Bài học lãnh đạo: Trong thế giới ngày nay vẫn còn sự kỳ thị và phân biệt, nhưng người lãnh đạo là người có thể dung hoà và thống nhất sự khác biệt giữa những nhân tố bên ngoài và bên trong.
Alexander Đại đế gặp phải hai vấn đề thường trực là đối xử thế nào với những cựu chiến binh trong quân đội của ông ta, đặc biệt là những người bị thương và già cả, và làm thế nào để kiểm soát các vùng đất đã chinh phục ở nhiều nền văn hoá khác nhau với một lực lượng quân đội có hạn. Giải pháp của Alexander Đại đế là để các cựu chiến binh cư trú và quản lý 70 thành phố và thị trấn mới cùng với những người tình nguyện ở địa phương.
Bài học lãnh đạo: Ngoài dựa vào những gì đã có để tồn tại, các nhà lãnh đạo có thể khám phá và tạo ra những nhánh nhỏ khác để thành công.
Khi Alexander đến châu Á, gần khu vực thành Troy cổ, ông đã thăm đền thờ thần Athena và cỗ xe bọc sắt từ thời cuộc chiến thành Troy. Mùa xuân năm 331 trước Công nguyên, Alexander đi thăm Ai Cập. Khi đến thăm đền thờ thần Amon-Ra (thần Mặt trời), ông cũng coi thần Amon-Ra là cha của mình. Người dân Ai Cập cúi đầu thuần phục. Khi đến thăm Pasargadae - thành phố hoàng gia của triều đại Archaemenid, ông phát hiện ra rằng phần mộ của Cyrus đại đế đã bị mất đi vẻ thiêng liêng. Ông yêu cầu phải giữ gìn và bảo vệ phần mộ đó.
Bài học lãnh đạo: Mỗi người cần một người anh hùng, thậm chí một nhân vật anh hùng như Alexander Đại đế. Chọn và noi gương những người anh hùng vĩ đại và cho mọi người biết họ là ai và tại sao lại ngưỡng mộ họ.
Cũng cần tôn trọng và học hỏi những người tiền nhiệm. Các nhà lãnh đạo biết rút kinh nghiệm và học hỏi từ những người tiền nhiệm, sẽ được mọi người nể trọng.
Sau trận chiến ở sông Hydaspes, quân đội Macedonia tràn xuống Indus để tới chiến trận Mallians. Ở thành mạnh nhất, Alexander tránh bị tên bắn bằng cách liều lĩnh nhảy xuống từ bức tường thành, nơi ông đang bị tấn công và bị thương nặng trước khi lính của ông kip tiến gần. Quân đội quá giận dữ đến nỗi tàn phá cả thành phố và tất cả cư dân bị giết hại.
Bài học lãnh đạo: Mạo hiểm rất cần thiết nhưng đừng trở nên liều lĩnh một cách vô ích!
Muốn tiêu diệt hoàn toàn quân đội Ba Tư, ông tiến đánh Ấn Độ (thời đó vùng Tây Ấn thuộc về Ba Tư). Vượt sông Ấn, chiếm đóng Punjab, đến đây thì quân đội của ông quá mệt mỏi vì chiến tranh liên miên, ông phải quay về Babylon. Trên đường về, ông đã dẫn quân đi qua một vùng đất không ai biết đến - một sa mạc hoang vu, rộng lớn.
Bị sa mạc thiêu đốt, nhiều lính của ông đã chết khát nhưng họ vẫn chắt những giọt nước cuối cùng từ những cái bi đông đựng nước của mình để cứu chủ nhân. Nhận một nắp đầy nước từ tay những người lính của mình, ông hắt xuống cát và nói: "Ta sẽ chia sẻ số phận với các người". Thật kỳ diệu, Alaxander đã vượt được sa mạc cùng với rất nhiều người lính trung thành của mình.
Bài học lãnh đạo: Lòng trung thành chính là động cơ để giành được thắng lợi, thậm chí còn có thể thay đổi cả thế giới.
Nhưng bài học cuối cùng mà ông dạy đời, đáng học nhất là những y nguyện lúc ông chết
Ngài cho triệu tập các quan trong triều đình đến để truyền đạt ba ý nguyện cuối cùng của mình và phán rằng:
1 - Quan tài của ngài phải được khiêng đi bởi chính các vị ngự y (bác sĩ) giỏi nhất của thời đó. 2 - Tất cả các báu vật của ngài (vàng, bạc, châu báu, ...) phải được rải dọc theo con đường dẫn đến ngôi mộ của ngài, và ... 3 - Đôi bàn tay của ngài phải được để lắc lư, đong đưa trên không, thò ra khỏi quan tài để cho mọi người đều thấy.
Một vị cận thần của ngài, rất đổi ngạc nhiên về những điều yêu cầu kỳ lạ này, và đã hỏi ngài Alexander lý do tại sao ngài lại muốn như thế. Ngài Alexander đã giải thích như sau:
1 - Ta muốn chính các vị ngự y (bác sĩ) giỏi nhất phải khiêng quan tài của ta để cho mọi người thấy rằng một khi phải đối mặt với cái chết, thì chính họ (là những người tài giỏi nhất) cũng không có tài nào để cứu chữa.
2 - Ta muốn châu báu của ta được vung vãi trên mặt đất để cho mọi người thấy rằng của cải, tài sản mà ta gom góp được ở trên thế gian này, sẽ mãi mãi ở lại trên thế gian này (một khi ta nhắm mắt xuôi tay từ giả cỏi đời).
3 - Ta muốn bàn tay của ta đong đưa trên không, để cho mọi người thấy rằng chúng ta đến với thế giới này với hai bàn tay trắng và khi rời khỏi thế giới này chúng ta cũng chỉ có hai bàn tay trắng. Đến cuối cuộc đời, chúng ta sẽ nghiệm ra rằng, kho tàng quý giá nhất trên cuộc đời này là: thời gian....* Alexander Đại đế bị ốm ở Babylon năm 323, và qua đời ở tuổi 33 ST |
| | | Lữ Hoài
Tổng số bài gửi : 749 Registration date : 15/04/2011
| Tiêu đề: Re: Ngộ Tue 07 Feb 2012, 23:17 | |
| Hòa Thượng Quảng Khâm Hòa Thượng Quảng Khâm sinh vào đời nhà Thanh, năm Quang Tự thứ 18 (1892). Ngài họ Hoàng, tên tục là Văn Lai, quê ở Phúc kiến, Trung Hoa. Gia đình Ngài rất nghèo, đến độ anh ruột Ngài không có đủ tiền để cưới vợ. Năm Ngài bốn tuổi, vì không đủ sức nuôi dưỡng Ngài, cha mẹ Ngài phải đem Ngài bán làm con nuôi cho gia đình họ Lý ở Tấn Giang. Hai ông bà họ Lý là người rất tốt, cả đời sống bằng nghề trồng trọt. Họ thương yêu Ngài như con ruột vậy. Bà Lý là người tin Phật sâu xa, suốt đời trường trai. Bà thường đem Ngài lên Chùa cầu nguyện bởi từ nhỏ Ngài thường bệnh hoạn, thân thể yếu ớt. Năm Ngài chín tuổi, bà Lý qua đời; hai năm sau dưỡng phụ Ngài cũng nối gót từ trần, khiến Ngài bỗng chốc trở thành cô nhi. Bấy giờ, bà con họ hàng ai nấy đều tranh dòm, chờ chực để chiếm đất đai ruộng vườn, tài sản của gia đình họ Lý để lại. Ðiều ấy khiến Ngài, một trẻ thơ, cảm nhận sâu xa mùi vị chua chát của thói đời và tánh vô thường của mọi sự. Trong đầu Ngài nảy sinh ý niệm thoát trần. Ngài đem hết của cải đất đai nhường lại cho bà con, rồi một mình tìm tới Chùa Thừa Thiên ở Phú Châu xin xuất gia. Bấy giờ, phương trượng Chùa Thừa Thiên là Hòa Thượng Chuyển Trần, dạy Ngài quy y, tu Khổ hạnh với Thầy Thụy Phương. Ngài được phân phối cho việc lao tác, trồng rau, nhổ cỏ....; đây là những việc công quả tập sự dành cho người muốn xuất gia. Ðến năm 19 tuổi, do nhiều nhân duyên đặc biệt, Ngài đã qua Nam Dương. Ở đây, vì không có trình độ học vấn nên Ngài phải làm việc lao động chân tay. Một hôm, nhân cùng đồng bạn lên núi đốn củi, Ngài nói với bạn về trực giác linh cảm của mình rằng: chiếc xe vận tải chở củi sẽ lật ở dốc núi, nhưng không ai tin. Không lâu, chiếc xe quả nhiên bị lật thật. Ðiều này khiến bạn Ngài ngạc nhiên, bảo rằng: "Có được trực giác như vậy sao anh không chịu tu hành, phát triển tâm linh, sau này độ thế?" Nghe qua, Ngài như chợt tỉnh, liền đáp thuyền về lại Trung Hoa. Bấy giờ Ngài đã 35 tuổi, sau gần 16 năm sống ở Nam Dương. Về lại Chùa Thừa Thiên, Ngài chính thức xuống tóc, lạy Hòa Thượng Thụy Phương làm Thầy, Pháp danh của Ngài là Chiếu Kính, tự Quảng Khâm. Sau khi xuất gia, Ngài chuyên chú tu Khổ hạnh, ăn những thức không ai thèm ăn, làm những việc không ai chịu làm, thường luôn ngồi Thiền, một lòng niệm Phật. Có một thời gian Ngài giữ trách nhiệm Hương đăng (thắp nhang, quét tước điện Phật) và đánh bảng thức chúng mỗi sáng. Nhiều lần Ngài ngủ say quá nên trễ nãi việc đánh bảng. Ðiều này khiến Ngài vô cùng hổ thẹn, sám hối sâu xa trong lòng, rồi từ đó lập chí ngủ ngồi. Năm 1933, sau sáu năm làm Sa di tu Khổ hạnh, bấy giờ Ngài mới đi cầu thọ giới Tỳ khưu nơi Hoà Thượng Diệu Nghĩa, Chùa Từ Thọ, Phủ điền. Thọ Giới rồi, Ngài liền xin phép Phương Trượng Chuyển Trần đi ẩn tu; lúc ấy Ngài vừa đúng 42 tuổi. Bấy giờ, một thân một mình, với ít áo quần và hơn 10 ký gạo. Ngài nhắm núi Thanh Lương, tỉnh Tuyền Châu, tiến bước. Nơi ấy, ở giữa sườn núi, Ngài tìm thấy một thạch động đủ rộng để an thân tu Ðạo. Ðộng này vốn là nơi mãnh hổ thường lui tới; thế nhưng khi gặp hổ, Ngài chẳng hãi sợ. Ngài bảo cho chúng biết ý định muốn dùng động này để tu hành và khuyên chúng hãy tìm nơi khác. Lạ thay, hổ như hiểu ý Ngài, rõ lời người. Ngài lại vì hổ mà thuyết Tam Quy y; hổ nghe rồi vẫy đuôi đi mất. Không lâu sau, hổ ấy đem bầy hổ lại: nào hổ mẹ, hổ con... đùa giỡn, gần gũi với Ngài như gia súc vậy. Bởi thế, sau này người dân quanh đấy gọi Ngài là Phục Hổ Hòa Thượng. Bấy giờ, Hòa Thượng ở sơn động ngày ngày tọa Thiền, niệm Phật; chẳng bao lâu lương thực cạn sạch, Ngài bèn hái trái cây rừng để ăn. Trong núi, ngoài hổ còn có khỉ, vượn. Bọn ấy, lạ thay, thường hay đến động; chúng lại đem cả hoa quả cây trái lại cúng dường Ngài nữa! Hòa Thượng thường hay nhập Ðịnh. Có lần Ngài nhập Ðịnh đến vài tháng, không ăn uống, không động đậy thân thể; thậm chí hơi thở dường như dứt tuyệt. Có người gần đấy thấy vậy thì lầm tưởng rằng Ngài đã viên tịch, nên tức tốc cấp báo với Hòa Thượng Chuyển Trần để lo việc hỏa táng. May thay, lúc ấy có vị cao Tăng là Ðại Sư Hoằng Nhất đang ở Chùa gần đấy, nghe được tin trên bèn cùng Hòa Thượng Chuyển Trần lên núi xem hư thực. Tới nơi, Ðại Sư Hoằng Nhất biết Ngài đang nhập Ðịnh, liền gõ ba tiếng khánh, đánh thức Ngài dậy từ trạng thái Thiền định. Tin Ngài nhập Ðịnh lan truyền khắp nơi khiến ai ai cũng tán thán. Tháng ngày qua như tên bắn, thấm thoát Hòa Thượng đã ở trên núi Thanh Lương được 13 năm. Bấy giờ Ngài, đã 54 tuổi (1945), trở về Chùa Thừa Thiên. Hai năm sau, 1947, Ngài rời Ðại lục, đáp thuyền tới Ðài loan. Ở đây, bắt đầu quãng đời hoằng Pháp của Ngài: 1948, Ngài xây một ngôi Chùa nhỏ ở Ðài Bắc, tên là Quảng Minh Tự. 1951, xây Quảng Chiếu Tự. 1952, Ngài tìm thấy một thạch động ở núi Thành phước rất đặc biệt: khi mặt trời và mặt trăng mới mọc thì ánh sáng chiếu thẳng vào cửa động. Bởi thế, Ngài đặt tên là Nhật Nguyệt Ðộng và quyết định ở đấy ẩn tu. Nơi ấy xưa nay vốn không có nước, song từ khi Ngài vào ở bỗng có một suối nước mát tự nhiên vọt lên kế bên. Trên đỉnh núi ấy, Ngài dựng một chòi tranh để ở. Một đêm nọ, có con trăn khổng lồ bò lại chòi tranh cầu Pháp; Ngài liền vì nó thuyết Pháp và truyền Tam Quy y. 1955, tín đồ ở Ðài Bắc cúng dường Ngài một cuộc đất do hỏa sơn tạo nên; Ngài bèn xây Thừa Thiên Tự ở đó. 1963, Ngài hưng kiến Tường Ðức Tự; xây Quảng Long Tự ở núi Long tỉnh. Ðến năm 1964, Ngài đã ở Ðài loan được 17 năm. Trong suốt thời gian ấy, Ngài đã nhập định ba lần và mỗi lần lâu hơn cả tháng. Hằng ngày, Ngài chỉ ăn một bửa và chỉ ăn trái cây; Ngài không ăn đồ nấu nướng hay chiên xào gì cả. Vì vậy, tín đồ gọi Ngài là Thủy Quả Hòa thượng (Ông Thầy Ăn Trái Cây) Trừ khi trời mưa, thường thì mỗi đêm Ngài đều ngồi tọa Thiền cho tới sáng ở ngoài vườn hay trong rừng, chứ không ngủ trong phòng như kẻ khác. Ðấy là những công hạnh đặc biệt của Ngài. Năm Ngài 80 tuổi, có lần Ngài biểu thị cho Ðại chúng biết ý định "Xả Báo" nhập Ðịnh của Ngài. Lúc ấy các đệ tử vô cùng khẩn thiết, cầu xin Ngài tiếp tục từ bi trụ thế. Bấy giờ Ngài vì tùy thuận chúng sanh nên trì hoãn việc nhập Ðịnh, tiếp tục công cuộc độ sinh. Từ ấy Ngài đi Nam đầu, Ðài trung, Gia nghĩa, Hoa liên, v.v... hoằng Pháp độ chúng. Ðến năm 84 tuổi, Ngài bắt đầu cấm túc, ở luôn tại Chùa Thừa Thiên trên núi Thanh Lương không còn xuống núi nữa. Công cuộc xây Chùa vẫn tiếp tục, song do các đại đệ tử của Ngài chủ động: trùng tu Chùa Thừa Thiên, xây Quảng Thừa Nham (1974), Diệu Thông Tự (1982). Năm Ngài 94 tuổi (1985), Ngài chủ trì Tam Ðàn Ðại Giới, truyền giới cho hơn 2.500 vị Tăng, Ni và cư sĩ; tạo thành một Pháp Hội trang nghiêm vĩ đại nhất ở Ðài loan lúc bấy giờ. Bấy giờ tuy đã gần kề trăm tuổi, Ngài vẫn sống rất đơn giản, đạm bạc; lời nói của Ngài bình dị, khiêm nhường; bước đi của Ngài vẫn vững chãi, không cần dùng tới gậy chống, không nhờ người đỡ taỵ Nếu ai gặp Ngài lúc ấy sẽ thấy thân Ngài vô cùng nhẹ nhàng, linh hoạt; động tác thanh thoát. Ngài vẫn y nhiên ngủ ngồi, không nằm; và vẫn ngồi ngoài vườn lộ thiên tĩnh tọa mỗi đêm. Bấy giờ thức ăn trái cây của Ngài phải được nghiền thành chất lỏng để dễ ăn. Cuối năm 1985, Ngài trở về Chùa Thừa Thiên. Ngài thị hiện có bệnh; cự tuyệt mọi thứ ẩm thực, thuốc men; cũng không tiếp kiến tín đồ. Ngày Tết Nguyên đán năm ấy, 1986, Ngài triệu tập tất cả đệ tử ở các Chùa và Tu viện khắp nơi lại để phú chúc, phân phối hậu sự. Ngài chỉ bảo việc hỏa táng, phân chia linh cốt tại Thừa Thiên Tự, Quảng Thừa Nham, và Diệu Thông Tự, đồng thời trả lời mọi nghi vấn của tín chúng. Sáng ấy, sau giờ thọ trai, Ngài quyết định xuống Diệu Thông Tự ở Cao Hùng. Hôm sau, mồng hai Tết, khí lực của Ngài vô cùng suy nhược. Mồng ba Tết, thể lực của Ngài bình phục. Ngài cùng đại chúng lên điện niệm Phật. Ngài lại nói chuyện một cách thong dong tự tại với các tín đồ đệ tử; tinh thần vô cùng sáng suốt và lạc quan như không có chuyện gì xảy ra. Sáng mồng bốn Tết, Ngài gọi tất cả đệ tử cùng Ngài ra bên ngoài điện đón nắng. Ngài nói với một đệ tử, Thầy Truyền Văn, rằng: "Ngươi được rồi đấy; song bọn họ, đại chúng, còn chưa xong đâu!" Mồng năm Tết (ngày 13 tháng 2 năm 1986), Ngài ngồi xếp bằng yên định, tinh thần hòa hoãn, chẳng chút xao động; rồi dạy các đệ tử đồng thanh niệm Phật. Vào hai giờ chiều hôm ấy, Ngài bảo đại chúng: "Vô lai vô khứ, một hữu sự!" (chẳng đến chẳng đi, chẳng việc gì); rồi nhìn đại chúng gật đầu, mỉm cười. Không lâu sau, đại chúng thấy Ngài ngồi yên bất động liền đến bên quan sát kỹ, mới hay Ngài đã an nhiên theo tiếng niệm Phật, viên tịch rồi. Nhìn lại cả đời Ngài, xuất thân tuy nghèo khổ song bản tánh tự an, ngay thật, bình dị; đến khi xuất gia, Ngài thật sự buông bỏ vạn sự, chân thành ẩn tu, thực hành đủ thứ khổ hạnh gian khó. Bởi nhân địa chân thật như vậy, nên kết quả là cảm ứng bất khả tư nghị. Sau khi xuống núi, tới Ðài loan hoằng dương Phật Pháp, Ngài đã tiếp độ không biết bao nhiêu chúng sanh, từ người đến thú, từ dương giới đến âm giới, từ hữu hình đến vô hình... Và, nhất là sự viên tịch vô cùng tự do tự tại của Ngài, một minh chứng hùng hồn nhất về sự diệu kỳ của Phật Pháp, cũng như về khả năng thành tựu sự giải thoát, đạt Ðạo của những bậc chân tu, thật hành. Thầm nguyện Hòa Thượng sẽ không xả bỏ đại nguyện, tiếp tục chèo thuyền từ bi trở lại cõi này để không ngừng đưa lớp lớp chúng sanh tới bờ bên kia, đến nơi an ổn, vô úy, vô ưu não!(Trích trong CẨM NANG TU ĐẠO của Hòa Thượng Quảng Khâm- do Luy Lâu sửa) |
| | | Lữ Hoài
Tổng số bài gửi : 749 Registration date : 15/04/2011
| | | | Lữ Hoài
Tổng số bài gửi : 749 Registration date : 15/04/2011
| Tiêu đề: Re: Ngộ Wed 15 Feb 2012, 23:33 | |
|
Dấu ấn thời gian…. Thánh Valentine ngày xưa chắc không thể nào tưởng tượng được dấu ấn ông để lại đến ngày hôm nay như thế nào đâu nhỉ?! Sáng nay dậy đi làm, lan man nghĩ ngợi những cái lắm chuyện bởi ngày lễ Tình Nhân đêm hôm qua. Thật là ngộ cho một ngày lễ quốc tế mang nhiều màu sắc với bao chuyện thế thái nhân tình. Từ trong nhà ra ngoài ngõ , đến khắp thế giới… đâu đâu cũng có vẻ tưng bừng với ngày Valentine này nhưng rồi cũng kèm theo không ít những chuyện phiền toái vớ vẩn chưa kể là chua chát cho nhiều người!
Hm… cái tục ăn lễ này rầm rộ có ở VN từ lúc nào nhỉ? Hình như chục năm gần đây thôi thì phải nhưng cỡ 5 năm trở lại là gần thành tục lệ . Đâu đâu cũng rộn ràng hoa kẹo quà cáp lung tung. Có người thì bảo rõ là lắm chuyện - Ôi, ba cái hàng hoa với mấy tiệm chocolat và nhà hàng khách sạn ciné... họ bầy trò làm tiền thiên hạ đó mà ! Có người cho rằng bọn trẻ và người có tiền bây giờ bầy đặt đua đòi vớ vẫn, có cớ bày tỏ đẳng cấp . Ừ thì chuyện kinh doanh của thị trường mà, ai có dịp ăn xài được thì cứ xài coi như là góp phần ủng hộ kinh tế , làm phước cho bá tánh nhờ cũng chẳng có chết chốc thằng Tây nào đâu?! Thiết nghĩ, hoa đẹp cũng nên cho người ta thưởng thức , nhất là Việt Nam bây giờ trồng nhiều hoa quá trời , mức tiêu thụ mãnh liệt thiệt nhưng nhờ vậy thì dân trồng hoa mới sống được chứ. Chocolat ngon thì cũng là thứ đáng ăn ngon miệng, hàng nhập từ Âu Châu thì cũng lan tràn khắp nơi trên thị trường , bây giờ khá hơn mấy năm trước rất nhiều và chocolat thượng thặng muốn thưởng thức thì tìm không khó nữa. Nhà hàng thì mọc nhiều như nấm, thượng vàng hạ cám đều có đủ cho các giới, có dịp lễ nghi tiệc tùng là không thiếu vào đâu. Nói chung, có tiền là có đủ thứ cách để tiêu xài!
Cả mấy ngày liền internet và phone thì cứ bận rộn không kém ... người ta gởi quà cáp "ngó" cho nhau lia chia , cũng thú vị lắm! Có những chuyện từ tin tức nghe cũng cảm động, nhất là những người nằm bệnh viện họ cần những nụ hoa thương yêu của người thân và bạn bè để lên tinh thần nhưng cũng có những chuyện thật lãng nhách- chết vì tình trong đêm vừa qua! Nhưng nhìn con số lớn của giới trẻ, tôi không khỏi ngán ngẫm cho cái đêm mà lẽ ra phải lãng mạn nhớ đời thì lại có những kỷ niệm đáng tiếc cho nhiều cô gái trẻ. Thế hệ ngày nay không như ngày xưa nữa, bọn trẻ không chỉ ăn kẹo vui cười vẫn vơ thôi đâu - mà còn phải cho tình yêu lên đỉnh tuyệt vời nữa chứ ! Tiếc rằng, xã hội chưa thật sự cởi mở trong sự giáo dục các em về vấn đề tình dục, phần đông thì không biết phòng ngừa cá nhân và cũng không biết hậu quả như thế nào , từ tinh thần đến thể xác nhiều em không có đủ kiến thức đối phó. Thế nên, Thánh bổn mạng của lứa đôi không ngờ rằng ngày này ba bốn tháng sau sẽ có những dấu ấn không đẹp cho những cặp tình nhân trẻ ở VN, các bệnh viện sẽ nhiều ca phá thai chứ không đùa!
Nói gì thì nói, ngày lễ Tình Nhân hay lễ Tình yêu mà chỉ một năm ăn mừng một lần thì xem ra cũng buồn lắm đấy... nếu không nói là hơi mỉa mai một tẻo! Nếu tôn vinh tình yêu thì quanh năm suốt tháng bất cứ lúc nào cũng nên ăn mừng thường xuyên thì mới đúng nghĩa với Tình Yêu. Chữ yêu cần phải được nói hàng ngày, hoa thơm cũng có thể tặng nhau hàng tuần hay hàng tháng, những viên chocolate cũng nên cắn đôi chia ngọt sẻ bùi đều đều hơn nữa. Thế nhưng, có những cặp mà từ nào tới giờ hoặc không hề hay không quen cái thói "nịnh đầm" với phái nữ , thì khi trao quà coi chừng nghe cô ấy phán một câu na ná thế này: ơ.. . hâm hay sao nhỉ, anh có vấn đề à? Cô ả sẽ khả nghi hành động của bạn đấy! Thế nhưng có những trường hợp đối nghịch hoàn toàn, nếu anh không thay đổi, không mang hoa tặng thì nàng cũng buồn lắm chớ bộ ! À, thì ra vậy....hèn chi cô A cô B tự nhiên phát khùng với chồng khi anh ta quên hay không mang hoa về nhà chỉ vì ngày 14/2- ĐÁNG LÝ ra là phải có bổn phận gởi quà!
Nhưng nghĩ lại xem, yêu nhau rồi lấy nhau bao nhiêu năm từ khi ngày lễ Valentine chưa phải là cái mốt thì ngày 14/2 hôm nay có nghĩa lý gì với mình? Và còn những ngày còn lại của những năm dài ngoài 14/2 ra thì có mang ý nghĩa tình yêu gì không?
Ai có buồn cho ngày lễ Tình Nhân? Không nên. Dù bạn có cặp hay đơn lẻ, già hay trẻ , nam hay nữ đi nữa ... dù là bạn ở phòng làm việc hay trước bàn học cũng nên cấm hoa tươi cho vui mắt, làm đẹp thêm căn phòng và tạo không khí dễ chịu cho tinh thần mình sãng khoái hơn và thỉnh thoảng khi ngồi trước màn ảnh tivi hay laptop bên tách trà hoặc ly cà phê nhâm nhi bạn hãy một ít chocolat hay bánh cake màu hồng ... thưởng thức chút hương vị thơm ngon và nghĩ đến bất kỳ người thương yêu nào trong tim mình để cảm nhận hạnh phúc thì cuộc đời cũng ngọt ngào quá còn gì, phải không?
Song Thùy |
| | | Lữ Hoài
Tổng số bài gửi : 749 Registration date : 15/04/2011
| Tiêu đề: Re: Ngộ Tue 21 Feb 2012, 11:01 | |
| Cốt Tủy Giáo Pháp của đức PhậtÐể hiểu rõ giáo lý của đức Thế Tôn, qua câu chuyện nàng BHADDA sau đây, thì biết được những đặc điểm cốt tủy của đạo Phật như vô thường, khổ, vô ngã, nhân quả (vô minh và tuệ giác (giác ngộ): nghiệp thức và giải thoát), năng tri sở tri, nhân duyên quả, pháp vượt qua dòng bộc lưu sanh tử, sự giải thoát, v.v…Phần lý giải rõ ràng hơn. A. TRUYỆN NÀNG BHADDA (Trích trong tập Truyện Cổ Phật Giáo do N.H. Lộc chép) Câu truyện nầy rất hay có tình có lý, diễn tả đầy đủ từ Lý Duyên Khởi, Thực Tại Giả Lập hay Giả Danh đến Thực Tại Tuyệt Đối, một triết lý cốt lõi của Phật Pháp về phủ định tính của vùng trời Sở Tri để nắm bắt Thực tướng của vạn hữu. Đó là Trung Đạo hay Tự Tính Tuyệt Đối tức là Chân Lý Nhất Nguyên, Tối Hậu.
Thuở xưa, tại Vương Xá Thành có cô con gái, con quan đại thần, nàng mang sắc đẹp lộng lẫy, thông minh và kiêu hảnh. Đến tuổi gieo cầu, không có vị vương tôn công tử nào lọt vào cặp mắt xanh của nàng. Vã chăng, con tạo vốn trớ trêu, nàng lại si tình một chàng trai vũ phu, có học nhưng lại là tên cướp khét tiếng, can tội tử hình, không có ai giúp đở cho nàng trước mối tình vô vọng ấy. Thế là Bhadda, tên nàng, nằm lăn trên giường bệnh.
Thương con, vị quan đại thần lo lắng chạy chữa thuốc thang nhưng thảy đều vô hiệu.
--- Cha ôi! Nàng nói thều thào --- Buổi sáng con tim nó nói gì với cha? --- Nó nói rằng, nó xót xa lắm con ơi! --- Cha ôi! Buổi tối con tim nó nói gì với cha? --- Nó nói rằng con ơi! Con đau thì nó cũng đau.
Yên lặng giây lát, một hạt lệ rỉ ra từ đôi mắt uyên ương, nàng thì thầm: Cha ôi! Con tim con cũng đau buổi sáng, buổi tối và cả ban đêm nữa. Thì ích gì những thuốc thang hở cha?
--- Phải rồi, ích gì những thuốc thang này khi con tim nó đau! Nhưng mà nó nói gì hả con?
Nàng Bhadda với nhập đề như vậy, với chuyển đề như vậy, rồi đưa vị cha già nua vào một chiếc thòng lọng:
--- Nó có tâm sự riêng của nó chứ, phải vậy không hả cha? --- Phải lắm, nó có tâm sự của nó mà! --- Vậy thì cha ôi! Nàng khóc lớn--- khi mà chiếc đao tử thần rơi xuống đầu Satthuka, tên cướp, thì trái tim con vĩnh viễn bị tử thương không bao giờ lành nữa! Vị quan già nua thoát hiểu, đứng bật dậy, những sợi tóc dựng ngược trên đầu.
--- Con nói sao? Satthuka ư? Tên đại tướng cướp ấy? Và tim con...? --- Phải! nàng Bhadda cứng cỏi đáp: Cha ôi! Sự sống của chàng chính là sự sống của con. Cha phải cứu chàng. Đôi mắt của vị quan đại thần đại diện như mê sảng giây lát, nhưng vì thương con, trái tim ông xót xa rung động.
--- Nhưng mà con ơi! Sáng mai y lên máy chém rồi, ta làm sao cứu được? Cô gái thấy cha mềm lòng, bèn ngồi dậy, đôi mắt xanh tươi cười, khẻ ôm chiếc đàu bạc phếu của cha.
--- Cha yêu quý! Tiền bạc bước lọt dễ dàng vào các cửa đóng kín. Nó làm hữu lý những cái gì phi lý, nó là vị quan tòa vạn năng, tha tội tử hình dẫu đã bị tuyên án. Thương con, cứu con, cha chỉ quẳng cho quỷ ăn một chút xíu linh hồn thôi mà! Vị đại thần rưng giọt lệ, tự nghĩ: Dẫu có mất môt nửa linh hồn để đánh đổi sự sống cho con thì cũng nên lắm, huống hồ là một chút xíu thôi.
Sau đó, ông lấy tiền bạc đút lót cho quan ngục, và lính áp giải, tên cướp Satthuka được thả ra môt cách dễ dàng.
Bhadda trang điểm rực rở chói ngời bằng bảy loại ngọc nụ cười dịu hiền như đóa hoa nở trong cuộc gặp gở lần đầu với Satthuka. Tên cướp như mê đi, nhưng bảy loại ngọc trang điểm trên người nàng Bhadda lại càng làm cho y mê hơn. Đôi mắt của Satthuka không rời đi đâu được nữa. Một mưu kế thâm hiểm đã đến với hắn. Y nói:
--- Bhadda nàng hởi! Vinh quang thay là những hạnh phúc bất ngờ nầy. Số mệnh của anh từ nay do em an bày. Em là Thượng Đế chí tôn của anh. Nhưng trước khi chung hưởng hạnh phúc, em hãy hứa khả cho anh được thỏa một ước nguyện chưa tròn.
--- Hãy nói đi! Satthuka! Con sư tử lông vàng của em. Bhadda hởi lòng dạ, trái tim nàng như nở ra trong nụ hoa màu hồng thắm. Satthuka là tên cướp vũ phu nhưng có học, y hiểu tất cả những điều ấy bèn nói xa xôi:
--- Mỗi người có quyền có một tín ngưỡng, hay có quyền không có một tín ngưỡng nào phải thế không, nàng Bhadda trí tuệ? --- Phải rồi Satthuka? --- Như vậy mỗi người vốn có một vùng đất thánh ở bên trong tâm hồn hay ở ngoài tâm hồn. Cái đó là tự do thiêng liêng chứ, phải không Bhadda--- con mèo diễm lệ của anh! --- Chí lý thay! Satthuka. --- Cho nên dẫu là một tên cướp, nhưng cũng có một vùng đất thánh thiêng liêng để tôn sùng và ngưỡng mộ. Vùng đất ấy ở phía tây Vương Xá Thành, mọi người thường gọi là Hòn núi của kẻ trộm, nhưng đây là nơi tôn thờ vị tổ sư của các anh, vị tổ sư đạo tặc. --- Và sao nữa Satthuka? --- Trước khi bị bắt, anh có phát thệ như sau, kính lạy vị tổ sư chí thiêng chí kính! Con đang lâm nạn, Ngài hãy cứu con, Ngài hãy dùng mọi oai lực làm cho con thoát khỏi tử hình, con sẽ đến lễ tạ Ngài 100 con cừu, 100 dê, cùng vàng bạc 10 mâm, Bhadda yêu quý! Nếu thương anh, nếu muốn cùng anh chung hưởng hạnh phúc, em hãy giúp anh thỏa nguyện lời hứa thiêng liêng ấy!
--- Hãy thực hiện đi, Satthuka, lời hứa của anh chính là lời hứa của em. Vàng bạc không phải là hạnh phúc. Cái mà vàng bạc đánh đổi mới là hạnh phúc.
Sau khi triết lý ba hoa như vậy chàng cùng nàng mang lễ vật lên đường. Đến chân Hòn núi của kẻ trộm, Satthuka cho tôi tớ trở về, chỉ có chàng và nàng leo lên đỉnh núi cao. Suốt cuộc hành trình Satthuka chẳng có một lời thân ái với nàng. Đôi mắt của Satthuka như dán chặt vào bảy loại ngọc mà nàng trang điểm trên người. Cho dầu nàng mệt lã hoặc vấp té mà Satthuka vẫn không nhìn thấy huống hồ là một lời vỗ về an ủi. Một thoáng nghi ngờ khởi lên, Bhadda hỏi:
--- Satthuka, tại sao chàng lại cho chúng về? Vậy ai là người giữ cừu dê và vàng bạc? Satthuka lầm lì không nói. Nàng đâu có hiểu rằng thủ hạ của y đã làm việc ấy. Đến đỉnh, sát môt bờ vực Satthuka quay lại: --- Bhadda hãy cởi áo ra! Vị tiểu thơ con quan đại thần mặt tái ngắt, nói không ra lời:
--- Satthuka! Anh...Anh định làm gì? --- Làm gì nữa! Người ngọc tuy quý, nhưng không quý bằng bảy loại ngọc mà người ngọc đang mang trên người. Đừng hỏi nữa! Hãy cởi áo ra và gói tất cả đồ trang điểm ấy lại.
Đến đây thì Bhadda không còn lý do gì mà không hiểu, nhưng nàng cũng hỏi:
--- Satthuka, em có lỗi gì với chàng? Phải chăng yêu chàng là một cái tội hở Satthuka? Bảy loại ngọc nầy... --- Nàng tưởng ta mang bảy loại ngọc đó là để cúng dường vị tổ cướp thiêng liêng ở núi nầy chăng? Thông minh như nàng mà cũng có lúc ngu si mù quáng vậy thay; vị tổ sư tướng cướp thiêng liêng ấy chính là ta đây Ha, ha, ha...
Bhadda với tình yêu chết ngắt trong lòng: Sự thông minh bừng sáng nơi nàng như mặt trời vừa ra khỏi hang thẳm tối tâm. Trấn tỉnh phi thường, nàng nói:
--- Vậy thì Satthuka chàng hởi! Bảy loại ngọc nầy phần nào của chàng và phần nào của em? --- Của ta hết. Bhadda giả vờ nhìn Satthuka một cách đấm đuối ngây dại, rồi thở dài nói:
--- Vậy thì chàng hởi! Dẫu thế nào em cũng yêu chàng cho đến chết. Trước khi vĩnh biệt anh hãy cho em thỏa một ước nguyện cuối cùng. --- Hãy nói đi--- Tên cướp bực bội nói lớn: Hãy nói đi cô gái si tình ngu ngốc kia. Nói rồi chết.
Bhadda cất giọng thản nhiên:
--- Chàng hãy cho phép em hôn chàng với nguyên vẹn bảy loại ngọc trang điểm trên người.
Satthuka cười nhạt:
--- Thôi nhanh đi!
Thế là nàng thực hiện được mưu kế. Nàng ôm hôn Satthuka dẫu như ôm cục đá cũng phải tỏ ra dịu dàng âu yếm. Nàng hôn mắt, hôn má, rồi lần lượt hôn đến tai đến gáy, phía sau lưng. Dù là tên tướng cướp đã mất hết nhân tính, nhưng sự vuốt ve vòng tay thơm hương của người ngọc, cũng làm cho y ngây ngất. Lợi dụng cơ hội hiếm có ấy, Bhadda dùng hết sức bình sanh đẩy tên cướp xuống vực thẳm trước mặt. Satthuka biết ra thì đã muộn rồi. Thân thể to lớn của y băng băng rơi xuống và đập đầu vào đá, cây vọng lên như tiếng núi và một hồi chẳng còn tăm hướng rồi đời một tên cướp.
Một vị thiên trên núi chứng kiến từ đầu đến cuối câu chuyện, cảm thán thốt lên bài kệ:
Mưu kế tự mưu kế Kẻ ác phải đền tội Nhân quả lạnh lùng thay, Biết chăng thế gian hởi!
Nàng Bhadda thấy lòng mình nguội lạnh như đóng tro tàn. Nàng ngõ: Vô vọng, dối trá, và rỗng không thay là lòng người--- là tình yêu! Trái đắng và mật đen đã quyện lên đầu lưỡi ta. Đời người vui ít, khổ nhiều. Từ rày, ta không còn mặt mũi nào trở lại gia đình nữa.
Từ núi cao, quên bẳng ngoại giới, nàng chìm trong tư duy suốt mấy ngày đêm. Từ núi cao, cuộc phản tĩnh kỳ lạ đã chuyễn hướng cuộc đời nàng. Bình minh hôm kia, nàng đứng bật dậy như loài mãnh sư sau giấc ngủ ngàn năm, nàng quăng bỏ y trang ngọc ngà châu báu, khoác manh áo vải tầm thường tìm thầy học đạo.
Đầu tiên nàng đến một nhóm khổ hạnh phái Ni Kiền Tử
--- Hãy cho tôi xuất gia!
Chúng tò mò nhìn co gái trẻ tuổi dáng dấp tiểu thư khuê các một hồi rồi nói:
--- Phép tu khó lắm, nữ nhân tay yếu chân mềm như nàng làm sao kham nỗi cuộc đời gió mưa khổ ải? --- Tôi kham nhẫn được. --- Đến mức độ nào? --- Vào hạng tối thượng!
Nhóm khổ hạnh sư thấy vẻ mặt đanh rắn, ẩn tiềm một nghị lực sắt thép của nàng, bèn chấp thuận. Vì nàng xuất gia vào hàng tối thượng nên chúng đã nhổ từng sợi tóc của nàng thay vì cạo bằng nứa.
Y áo rách rưới, mặt mày chân tay đầy máu me và bùn đất ; nàng bắt đầu học hỏi giáo lý và thực hành Con đường thoát khổ với ý chí tối thượng. Tuy thế, một thời gian sau không còn học hỏi gì ở đây được nữa, các bậc thầy của chúng bất lực và bối rối trước những câu hỏi của nàng.
--- Chẳng có gì đặc biệt - nàng nghĩ. Cái mớ giáo lý lẫn thực hành nầy chỉ đưa đến rỗng không và hạ liệt, nó không rành rẽ cho kẻ trí, nó chỉ rành cho kẻ ngu.
Từ đây nàng Bhadda lang thang từ xứ nầy đến xứ khác để tìm kiếm, tham vấn các bậc minh sư. Nàng xuất hiện trước họ như những gì sâu sắc của trí tuệ, nói thẳng vào những tối tăm và ngu dốt của giới Bà La Môn truyền thống và kinh viện. Không ai tranh luận nỗi với nàng. Có những đống cát được nàng vun lên rồi cắm ở đây một nhánh diêm phù đề (nhành dương liễu) trên lối vào các thành. Đấy là dấu hiệu thách thức khiêu chiến, luận tranh của nàng đối với thiên hạ đạo học.
Suốt một tuần như thế, nhánh diêm phù đề vẫn sừng sững ngạo mạn. Chẳng có vị giáo chủ minh sư nào dám nhổ lên để chấp nhận cuộc luận chiến nầy.
--- Ở đây không có người - nàng nghĩ "Ôi! Thiên hạ mênh mông nhưng đâu là bậc thầy tối thượng, soi sáng con đường thoát khổ cho ta?" Thế rồi, Bhadda lại nhổ lên...đi phương khác, trên lối đi vào thị trấn, làng mạc, xứ nầy, xứ kia, nhánh diêm phù đề của nàng vẫn nghiễm nhiên bất khả xâm phạm.
Đã ngày tháng tuyết sương mòn mỏi, hôm kia nàng đã du hành Xá Vệ. Đức Thế Tôn lúc đó đang thuyết giảng tại tịnh xá Kỳ Hoàn, chúng đệ tử vây quanh. Buổi sáng tôn giả Xá Lợi Phất đắp y mang bát đi vào cổng thành. Thấy nhánh diêm phù đề trên đóng cát trên cao, Ngài dừng chân lại.
--- Của ai thế? Ngài hỏi một người. --- Của nàng Bhadda, một khổ hạnh Ta Bà Ni Sư tối thượng. - Người ta trả lời.
Tôn giả đa mắt tìm kiếm, không bao xa dưới cội cây một Ta Bà nữ đang ngồi kiết già, với gậy với bát bên chân, dung sắc phi phàm, cao ngạo lạnh lùng.
Có xứng đáng cho ta nhổ nhánh cây để tranh luận chăng? Ngài Xá Lợi Phất thầm nghĩ- Nhưng mà dược gì? Ích lợi gì? Giáo lý tối thượng nầy không phải để luận chiến, đấu khẩu hơn thua tại các ngã ba đường, nơi chợ búa, nơi đám đông. Giáo lý nầy, giáo lý vô dục, tịch tịnh chỉ để dành cho nhân duyên, kẻ có tai, mắt và trí tuệ. Nghĩ xong, tôn giả bước đi. Những kẻ hiếu sự xung quanh la lên:
--- Đệ tử ông Thích Ca Đại Sa Môn thua rồi! --- Ta Bà Ni Sư khổ hạnh nghiễm nhiên vô địch
Vẫn không quay lại, Tôn giả Xá Lợi Phất cất giọng điềm đạm với đám đông: Chưa có ai dám đánh bại ta về tư tưởng, kiến thức, trí tuệ...lẫn sở chứng... cho dẫu là các bậc minh sư, giáo chủ...cho dẫu là vua quan, chư thiên, Phạm thiên...huống hồ Ta bà Ni nầy. Trên trời dưới đất, duy nhất chỉ có Đức Tôn Sư của ta là bực thầy ưu việt và tối thắng. nhưng thật rỗng không và vô vị là những cuộc tranh luận, khẩu tranh, được danh và mất danh nầy chỉ tự ta biết là ta thắng hay bại mà thôi.
Tôn giả dươn chân bước đi, nhưng Ngài phải dừng lại. Nàng Bhadda đã để ý đến vị Sa Môn trẻ tuổi từ khi Ngài xuất hiện. Nàng nghĩ: Chẳng có ai mang vẻ đẹp khác phàm và thanh thoát đến thế! Chàng Sa Môn trẻ tuổi nầy đã làm cho ta bị nhiếp phục bởi dung mạo, dáng đi, cử chỉ. Lại càng bị nhiếp phục hơn bởi thái độ và ngôn ngữ. Vậy thì người nầy, đấng nầy phải có một trí tuệ phi thường?
--- Đứng lại, ông Sa Môn! Nàng nói-Nếu ông không tự ý nhổ nhánh diêm phù đề luận chiến thì tự ta thách thức một cuộc luận chiến vậy. --- Để làm gì hởi Ta Bà Ni Sư?
Bhadda cất giọng như tiếng vua loài chim giữa núi cao:
--- Này chàng Sa Môn đáng kính trọng, ta khao khát tri thức và hiểu biết, lại càng khao khát hơn là những tri thức và hiểu biết dẫn đến tịch lặng và chân phúc. Nhưng đã mòn trán, ta bà khắp thế gian, chưa ai cho ta một câu trả lời đúng đắn, hoàn hảo, chỉ là những tri thức phù phiếm rỗng không dẫn đến ngu độn và hạ liệt. Ở nơi tôn giả, ta thấy toát ra cái gì khác thế, biết đâu đó là hào quang trí tuệ thượng đẳng? Ta cần biết, vậy hãy luận tranh cùng ta,
Tôn giả Xá Lợi Phất tự nghĩ: Nghe nói rằng tri thức cùng lý luận của nàng như lưỡi dao sắc nhọn đi đến xứ nầy xứ khác như chỗ không người. Đức Thế Tôn đã giáng thế, khi mặt trời vừa lên, không còn ai mà cầm đèn đi giữa ban ngày. Vậy hãy nhiếp phục nàng. Đặt nàng vào chánh đạo. Đặt nàng vào quy giới. Đấy cũng là lợi ích cho nàng, tăng trưởng đức tin cho tứ chúng và thắp lên ngọn đuốc trí tuệ của giáo pháp thù thắng vô địch.
Thế là tôn giả Xá Lợi Phất cho nhổ nhánh diêm phù đề, bá cáo một cuộc tranh luận sẽ khởi vào buổi chiều.
Nàng Bhadda nghĩ rằng cuộc luận chiến sẽ không mang lại khết quả nếu như không có sự tham dự đông đủ của Sa Môn, Bà La Môn, các tầng lớp gia chủ, trưởng giả cùng quần chúng hâm mộ. Vã chăng đại danh đệ tử trưởng của Phật cùng với lời đồn đãi về Ta Bà Ni Sư khổ hạnh đủ để tạo một cơn lốc hiếu kỳ rầm rộ.
Với đại y ngang vai, tôn giả Xá Lợi Phất xuất hiện giữa đám đông như ngôi sao rực rỡ, vàng chói, khuôn mặt bình an, tự tin đến độ làm cho nàng Bhadda phải rung động.
Lần đầu tiên nàng cảm thấy sợ hãi trước một đối thủ trẻ tuổi. Tuy thế nàng đã trấn tĩnh kịp thời, lấy lại bản lảnh để đi vào cuộc tranh luận có mộtkhông hai nầy.
--- Thưa tôn giả, nàng nói --- Trước tiên tôi xin được hỏi cuộc tranh luận nầy lập ngôn ở đâu? Lập ý ở đâu? Lập nghĩa ở đâu? Xin Ngài cho biết?
Chỉ một câu hỏi mở đầu, đám đông quần chúng đã nín thở, hồi hợp. Chỉ một câu hỏi người ta đã tiên liệu cuộc đụng độ sẽ hào hứng cho tri thức và luận lý dường bao. Chàng Sa Môn kia quá trẻ tuổi, quá non nớt, sợ rằng chỉ một câu nầy thôi chàng sẽ xin rút lui, đầu hàng vô điều kiện.
Nhưng kìa. Khuôn mặt vị Sa Môn vẫn bình an tự tại và dường như trên môi có thoáng nụ cười.
--- Này Ni Sư khổ hạnh -Tôn giả Xá Lợi Phất chậm rãi đáp--- Bần đạo xin được trả lời. --- Ngôn lập tại ý, ý lập tại nghĩa, nghĩa lập tại ngôn. Nó tương quan, lập, duyên khởi lập. Cái nầy sanh thì cái kia sanh, cái nầy diệt, thì cái kia diệt, thưa bà.
Ồ! Mọi người chợt reo lên một tiếng thoải mái, bởi câu hỏi dường như kiêu kỳ, tối tăm, khó hiểu. Câu trả lời không những chính xác mà làm cho câu hỏi trở nên sáng nghĩa hơn. Nàng Bhadda giật thót mình, nàng không thấy một khe hở nào, dầu chỉ bằng sợi tóc để đả phá nó. Tuy thế, sẽ tung ra những câu hỏi hóc búa, không có đường mà đón đở, nàng nghĩ:
--- Tôn giả đã đáp rất tuyệt vời--- nàng nói--- Vậy giờ xin được hỏi: --- Tôi đang hân hạnh nói chuyện với ai đây? Đó là câu hỏi thứ hai.
--- Câu hỏi này đáng lý bần đạo không trả lời--- Ngài Xá Lợi Phất nói--- vì nó thuộc lý luận, phù phiếm luận, không đưa đến yếm ly giác ngộ thắng trí, niết bàn. Nhưng Ta Bà Ni Sư đã hỏi, bần đạo sẽ trả lời cho tuyệt bặt mọi tư duy tương tự, làm cho rỗng không mọi tri thức xa rời mục đích thực tế của Sa Môn hạnh. Mọi câu hỏi đi sau cũng thế. Nàng Bhadda! Bây giờ bần đạo xin được vào câu trả lời. Người ta gọi bần đạo là Xá Lợi Phất! Hãy nghe cho kỹ đây! Giáo pháp của đức Thế Tôn soi rọi cái rỗng không của các pháp, dẫu tâm hay vật, làm cho vô tự tính mọi thực tại tính, làm cho vô ngã tính mọi hữu tồn dẫu là Atman, Brahman hay đại ngã. Hãy nghe cho kỹ đây!
Giáo lý ấy không trườn uốn như con lươn, không chẻ sợi tóc làm tư, không sợ kẹt trên ngôn ngữ rằng đây là thường kia là đoạn, giáo lý ấy dành cho người tu chứng, kẻ có trí nghe ắt hiểu. Hãy nghe cho kỹ đây! Không những là Xá Lợi Phất, cái tên gọi giả danh nhằm chỉ vào cái thực. Nhưng mọi cái thực ấy, dẫu là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức phải được nhìn cho rõ ràng bằng trí tuệ như thực, như chơn là nó không phải ta, không phải là ta, không phải của ta, không phải tự ngã của ta. Này nàng Bhadda! Câu hỏi của nàng thuộc lý luận rỗng không phù phiếm, câu trả lời của bần đạo đã đặt chúng trên thực tế, chánh đạo, hãy nghe và hãy thọ trì.
--- Chưa ai dám tự tin như thế Nàng Bhadda thầm nghĩ. Người nầy đã có sẵn những cái kết luận ở đâu đó, như từ một kho tàng, bây giờ chỉ việc đưa ra, không cần dựa theo một suy luận nào đó của sở tri. Tuy thế mọi khe hở đều được bịt kín. Y có tu chứng của mình. Vậy thì ta sẽ hỏi ngay nơi cái thực ấy.
--- Này ông Sa Môn! Câu trả lời của ông chẳng phải xa lạ gì. Ta đã từng nghe những con vẹt cũng đã hót lên như thế, chỉ có điều ông tự tin và vững chãi hơn, do ông có cái thực ở nơi sự tu chứng của mình.Hãy nghe đây! Bây giờ ta sẽ hỏi ngay chính nơi cái thực ấy. Hy vọng rằng ông không trườn uốn như kiểu là không phải ta, không phải của ta. Hy vọng rằng ông trả lời khác, giản dị và uyên áo hơn. Hãy nghe đây! Đây là câu hỏi thứ ba. Cái thực ấy còn bị định luật nhân quả chi phối hay không, còn bị định luật nhân quả chi phối? Hãy trả lời ngay đi. Hãy trả lời mà đừng hủy hoại ngôn ngữ, như dao chém nước.
--- Này nàng Bhadda!--- Tôn giả Xá lợi Phất vẫn kiên định như phong thái của con mảnh sư--- chẳng cần phải lớn lối như thế. Hãy nghe đây, nếu cái thực ấy mà còn định luật nhân quả chi phối thì cái thực ấy chỉ là khổ đau, nhiệt não, tử sanh. Nếu cái thực ấy không còn bị định luật nhân quả chi phối thì đồng nghĩa với hư vô, cái không thực hữu, cái vô tự tính, cái ngoang không niết bàn.
Này nàng Bhadda, hãy nghe đây! Đây là cái dao chém nước như nàng muốn. Cái thực ấy là cái sáng suốt, mặt trời đại huệ. Cái thấy từ tâm, trí, tư tưởng trí mà có, từ tuệ, tuệ minh, cái tuệ minh ấy nó có trong tâm của bậc giác ngộ, bậc A La Hán, kẻ đã đoạn tận lậu, hoặc giải thoát khổ đau và phiền não ; này nàng Bhadda cứ như thế mà thọ trì!
--- Chưa thể thọ trì được--- Ta Bà Ni chợt hét lên như con thú bị tử thương--- Ta chưa chấp nhận điều ấy, hởi ông Sa Môn đại ngôn kia. Hãy nghe đây! Đây không phải là câu hỏi thứ tư mà đây chỉ là phản vấn. Ông nói rằng có một cáituệ minh, xin lỗi tôi có lầm chăng, một cái tuệ minh? Văy thì giáo lý vô ngã, vô tự tính của Đức Tôn Sư của ông sẽ không còn chỗ đứng, bất khả lập, bất khả thuyết, và nó đã mâu thuẫn tự tiền căn? Vậy phải trả lời làm sao cho kẻ học nữ Ta Bà khổ hạnh nầy: một giáo thuyết thường kiến vậy kia?
--- Hãy bình tĩnh! Hãy bình tĩnh! Này nàng Bhadda đừng tự buộc vào mình những thằng thúc! Đừng tự bịt mắt trước ngọn đèn sáng suốt tự tâm. Hãy nghe đây! Cho bần đạo hỏi một câu, với một câu thôi nàng sẽ tự giải quyết cho chính mình. Câu hỏi như thế nầy: Cáng của ngọn đèn trước mắt nó thường hay nó đoạn.
--- Chẳng phải thường--- Nàng nghĩ--- Thường sao được khi nó sinh diệt từng giây từng khắc! Chẳng phải đoạn, đoạn sao được khi nó đang hiện hữu!
Thấy nàng Bhadda im lặng, tôn giả Xá Lợi Phất tung câu hỏi thứ hai:
--- Này nàng Bhadda! đây là câu hỏi thứ hai nhằm gợi ý cho nàng để nàng bước ra khỏi cái lẩn quẩn, loanh quanh của các luận lý Thường, đoạn, có, không. Đây là câu hỏi:Thuở nàng 5 tuổi, nàng thấy một bông hoa. Thuở 30 tuổi nàng thấy một bông hoa. Nàng có thay đổi cái hoa dẫu có khác, quan niệm đẹp xấu dẫu có khác, nhưng cái thấy của nàng có thay đổi không?
--- Không thể thay đổi, thưa tôn giả. --- Nó chẳng phải là thường không? --- Bất khả thuyết --- Nàng Bhadda buộc miệng trả lời như vậy rối tự nghĩ: Ta đã tự trói mình, vậy thì hãy vùng vẫy khi còn vùng vẫy được. Gã Sa Môn nầy đã bủa vây ta bằng một chiếc lưới quá kiên cố và quá chặt chẻ. Nhưng dễ gì ta chịu hạ phong.
--- Khá lắm, này ông Sa Môn hãy nghe đây! Ta sẽ chịu dừng với ông chung một vùng đất. Mặt đối mặt để trổ tài sở tri Ta tạm thời chấp nhận cái thuyết tụê minh ấy, nhưng ta muốn hiểu cái sở tri về bậc A La Hán ở nhiều phươngdiện khác nhau. Vị ấy làm thế nào bước ra khỏi giòng bộc lưu sanh tử.
--- Bước tới là lăn trôi. Dừng lại là chìm đắm. Bậc A La Hán không bước tới, không dừng lại, vị ấy ra khỏi giòng bộc lưu sanh tử! Này nàng Bhadda cái đáp số ấy thậm thâm vi diệu, vi tế, vượt ngữ ngôn, vượt suy luận, dành cho kẻ trí, kẻ thâm đại pháp, dành cho kẻ tu chứng. Có lên đường ai ăn mới biết no, chứ không phải để cho nàng--kẻ ngoại gio, kẻ đứng ngoài cuộc, kẻ với tri thức thuần túy--muốn dùng cái hiểu biết nông cạn, cái tự ngã kiêu căng và đa dục của mình, để nắm bắt cái siêu việt không thời gian, cái bất tử, cái chân phức, cái niết bàn vô dục và tịch tịnh. Này nàng Bhadda!
Này nàng Bhadda! Nàng có kham nhẫn tịch lặng để lắng nghe những lời như vậy không?
Ta Bà Ni Sư tức giận đến tím mặt, run lẩy bẩy, những lời những chữ kia như lưỡi kiếm tàn bạo đục khoét vào tim cật nàng. Tuy thế, với trấn tĩnh phi thường, nàng mĩm cười:
--- Chớ có nương tay, thưa tôn giả--- Nàng nói--- Tạm thời ta chấp thuận rằng điều đó là có thực, nhưng điều đó thuộc vùng đất khác, tư duy khác, quan niệm khác, ta không biết lấy gì kiểm chứng. Bây giờ tôn giả có dám bước qua vùng đất của tôi, thuộc giáo lý khác, để đi cho cùng tận chân trời sở tri?
--- Dám lắm--- Ngài Xá Lợi Phất bình tĩnh trả lời--- Là đệ tử của Đức Tôn Sư vô năng thắng, ta sẵn sàng luận tranh, không khoan nhượng bất cứ một giáo pháp nào trong thiên hạ. im lặng thì im lặng như chánh pháp, nói năng thì nói năng như chánh pháp. Đây là chân ngôn của các đệ tử Đức Tôn Sư.
Thế là nàng Bhadda bắt đầu hỏi, Ngài Xá Lợi Phất tuần tự trả lời. Đầu tiên nàng mang ra ba tập Phệ Đà, đặt những câu hỏi thuộc lãnh vực tri thức thuần túy. Từ chương kinh viện, truyền thống, ngay cả danh nghĩa lễ nghi, giữ nguyên chú giải ngữ pháp, văn phạm, lịch sử. Người hỏi đã chứng tỏ một tri thức quãng bác thâm sâu. Người trả lời lại càng chứng tỏ thông hội vấn đề một cách minh bạch. Những điều thuận thế luận, đại nhân tướng, chiêm tinh, thiên văn, địa lý, bùa chú. Ngài Xá Lợi Phất lại càng chứng tỏ cho nàng Bhadda Thấy rõ sự nghèo nàn, hời hợt nông cạn, thô thiển của mình.
Ngài không những hiểu qua danh lý mà còn là nhà bác học về chúng đến cội nguồn. Hơn nữa điều quan trọng và đáng nói hơn, Ngài đã quẳng chúng mà đi như quẳng một mớ giẻ rách...Từng vấn đề, từng vấn đề...từng lúc, từng tế nhị, khó nắm bắt và khó lãnh hội. Nó đi từ gần đến xa, xa đến vô tận. Từ vô tận nó trở về và nhỏ lại như vi trần như mảnh lau vi trần, hư không, tư tưởng tâm niệm, sát na...
Thính chúng bàng hoàng, ngơ ngẩn nàng Bhadda bàng hoàng ngẩn ngơ. Nàng không biết hỏi gì nữa. Nàng không còn nhìn thấy một đốm lửa nào nữa khi mặt trời kia đã chói lọi. Nàng đã hoàn toàn bị nhiếp phục.
Tôn giả Xá Lợi Phất với thiên nhản, Tha tâm thông, thấy rõ tâm địa nàng, đưa ra một câu hỏi kết thúc. Một câu hỏi vứt bỏ sở tri để dẫn nàng về với giáo lý thiết thực hiện tại.
--- Bây giờ tới phiên ta hỏi, này nàng Ta Bà Ni Sư khổ hạnh: Thế nào gọi là Một?
Thời gian lặng lẻ trôi qua khi câu hỏi được đặt xuống. Quần chúng nín hơi, nghẹt thở. Vừng trán nàng Bhadda từng hạt mồ hôi to bằng hạt bắp không ngớt tuôn ra. Mái tóc lún phún đã bắt đầu điểm bạc. Một triệu kiếp tư duy cũng không trả lời được câu hỏi tầm thường, giản dị kia. Chỉ với một câu hỏi mà nàng Bhadda của chúng ta đã già đi ngàn năm.
--- Này nàng Bhadda! Nàng hỏi ta một câu, mười câu, trăm câu, ta đã trả lời nàng đầy đủ cả chặng đầu, chăng giữa, chặng cuối, thế mà ta chỉ hỏi một câu, nàng cũng không trả lời ta Một là gì? Một là thế nào? Mà nàng cũng không hiểu, không biết. Thế mà nàng lại đòi biết cho kỳ được cổ kim thiên hạ sự, đòi hiểu cho hết chuyện trên trời dưới đất. Kinh như núi, chử như rừng...thế đấy! Là trí tuệ của người đi cắm nhánh diêm phù đề khắp cả thiên hạ.
Như thân cây bị chặt đứt, nàng Bhadda chợt phủ phục xuống bên chân bậc trí tuệ bậc nhất.
--- Kính lạy tôn giả con chịu thôi, không một câu hỏi nào mà con dám trả lời nữa. Với một tự ngã kênh kiệu vô tư, con đã đi đánh trống khắp cửa mọi nhà, để bây giờ biết rằng đất trời vô lượng. Tôn giả đã kham nhẫn, từ bi soi sáng cho con, chỉ đường cho con, đem đèn vào trong bóng tối để ai có mắt có thể nhìn thấy sắc. Cũng vậy, xin Ngài xá tội cống cao ngả mạn của con, cho con trọn đời quy ngưỡng.
Nàng Bhadda phủ phục năm vóc sát đất. Quần chúng reo hò. Chư thiên hoan hỷ.Ngài Xá Lợi Phất chợt đứng cao 10 tầm thốt nốt, thò tay đụng mặt trời, mặt trăng, cất giọng phạm âm với tâm tuyệt hảo:
--- Này hởi Bhadda! mừng thay cho nàng vứt bỏ được sở tri và tự ngã, mừng thay cho nàng thức tĩnh sau đêm trường mộng, hé mở con mắt pháp để thấy rõ giáo lý vô dục thực tiển, thậm thâm, có khả năng làm yên lặng khổ đau, phiền não. Hãy hướng đến Đức Tôn Sư của ta cùng tăng chúng thánh hạnh.Bậc cao cả đang ở tại tịnh xá Kỳ Hoàn. Nàng hãy đến nghe pháp rồi quy y với Ngài.
Sau đó nàng Bhadda đến kỳ viên đảnh lễ Đức Phật rồi ngồi nép một bên phải lẻ. Thấy căn cơ nàng đã thuần thục, Đức Thế Tôn chỉ nói vắn tắt một kệ:
Dầu nói ngàn câu kệ, Nhưng không chút lợi ích Tốt hơn nói một câu Nghe xong được tịnh lạc.
Và tức khắc, ngay sát na ấy, nàng Bhadda đã chứng quả A La Hán với pháp Tín Thọ, nghĩa là tín thọ. Đức Thế Tôn tự thân trao đại giới cho nàng. Nàng Bhadda được biết là vị tỳ kheo A La Hán im lặng, thiền duyệt và đi ta bà cả khắp quốc Độ. B. PHẦN LÝ GIẢI: Câu 1. Hỏi: Cuộc tranh luận nầy lập Ngôn ở đâu? Lập Ý ở dâu? Lập Nghĩa ở đâu? Đáp: Ngôn lập tại Ý, Ý lập tại Nghĩa, Nghĩa lập tại Ngôn. Nó tương quan lập, duyên khởi lập. Cái nầy sanh thì cái kia sanh, cái nầy diệt thì cái kia diệt. * Câu nầy nói lên lý Duyên Khởi, thực tại do nhân duyên quả kiến lập. Câu 2. H: Tôi đang hân hạnh nói chuyện với ai đây? Đ: Người ta gọi bần đạo là Xá Lợi Phất. Hãy nghe cho kỹ đây! Giáo pháp của đức Thế Tôn Sư rọi cái rỗng không của các pháp, dẫu Tâm hay Vật, làm cho vô tự tính mọi thực tại tính, làm cho vô ngả tính mọi hữu tồn, dầu là Atman, Brahman hay Đại Ngả. Hãy nghe đây! Giáo lý ấy không trườn uốn như con lươn, không chẻ sợi tóc ra làm tư, không kẹt trên ngôn từ rắng đây là thường rằng kia là đoạn, giáo lý ấy dành cho người tu chứng, kẻ có trí nghe ắt hiểu. Hãy nghe cho kỹ đây! Không những là Xá Lợi Phất, cái tên gọi giả danh nhằm chỉ vào cái thực, nhưng mọi cái thực ấy, dẫu là sắc thọ tưởng hành thức phảỉ đươc nhìn cho rõ ràng bằng trí tuệ như thực, như chơn, là nó không phải là ta, không phải của ta, không phải tự ngả của ta. Này nàng Bhadda! Câu hỏi của nàng thuộc lý luận rỗng không phù phiếm, câu trả lời của bần đạo đã đặt chúng trên thực tế, chánh đạo, hãy nghe và thọ trì. **--- Câu hỏi về Ngã nầy được Ngà Xá Lợi Phất giải nghĩa rất rõ ràng. Xá Lợi Phất là một thực tại gỉả lập, ngay trong nó có cái thực. Thực tướng của thân ngũ uẩn là không.Sắc không khác không....Thể không của thân ngũ uẩn là thực tướng của nó. Ðó là lý vô ngã. Câu 3. H: Này ông Sa Môn! Câu trả lời của ông chẳng phải xa lạ gì. Ta đã từng nghe những con vẹt cững đã hót lên như thế, chỉ có điều ông tự tin và vững chãi hơn, do ông có cái thực ở nơi sự tu chứng của mình. Hãy nghe đây! Bây giờ ta sẽ hỏi ngay chính nơi cái thực ấy. Hy vọng rằng ông không trườn uốn như kiểu là không phải ta không phải của ta! Hy vọng rằng ông trả lời khác, giản dị và uyên áo hơn. Hãy nghe đây! Cái thực ấy còn định luật nhân quả chi phối hay không? Còn định luật chi phối? Hãy trả lời ngay đi. Hãy trả lời đừng hủy hoại ngôn ngữ, như dao chém nước. Đ: Này nàng Bhadda! Nếu cái thực ấy mà còn định luật nhân quả chi phối thì cái thựcấy chỉ là khổ đau, nhiệt não, tử sanh. Nếu cái thực ấy không còn định luật nhân quả chi phối thì đồng nghĩa với hư vô, cái không thực hữu, cái vô tự tính, cái ngoang không niết bàn. Này nàng Bhadda, hãy nghe đây! Đây là cái dao chém nước như nàng muốn. Cái thực ấy là cái sáng suốt, mặt trời đại huệ. Cái thấy từ Tâm, Trí, tư tưởng Trí mà có, từ tuệ, tuệ minh ấy nó có trong tâm của bậc giác ngộ, bậc A La Hán, kẻ đã đoạn tận lậu, hoặc giải thoát khổ đau và phiền não, này nàng Bhadda cứ thế mà thọ trì! ***-- Câu nầy Xá Lợi Phất giải minh hai loại thực tại. Thực tại tương đối là thực tại giả lập hay tùy thuộc như khổ đau, nhiệt não, sanh tử v.v...đều phải bị định luật nhân quả chi phối. Còn thực tại tuyệt đối, không sanh không diệt, tự nó đày đủ, không có gì áp đặt lên nó như hư không, vô tự tính v.v..., nên nó không bị định luật nhân quả chi phối. Thực tại tuyệt đối cũng là thiệt tánh giác (tuệ minh). Cho nên, đối với các bậc giác ngộ, bậc A La Hán, hoặc những kẻ đã giải thoát khổ đau và phiền não, hoặc kẻ có trí, thì trong tâm họ có cái sáng suốt, cái tuệ minh, cái thực tại tuyệt đối, mà cái thực tại tuyệt đối nầy không bị định luật nhân quả chi phối. Câu này nói lên sự vô minh thì vô thường khổ não bị định luật chi phối (nghiệp thức). Cò Tuệ giác hay tuệ minh là cái sáng suốt, tâm trong sáng không cháp thủ, giải thoát mọi ưu phiền. Tuệ minh thì không bị định luật chi phối. Câu phản vấn. --- Ta Bà Ni chợt thét lên như con thú bị tử thương: chưa thể thọ trì được! Ta chưa chấp nhận điều ấy, ông Sa Môn đại ngôn kia. Hãy nghe đây! Đây không phải là câu hỏi thứ tư mà đây chỉ là phản vấn. Ông nói rằng có cái tuệ minh, xin lỗi tôi có lầm chăng, một cái tuệ minh? Văy thì giáo lý vô ngả, vô tự tính của đức Thế Tôn Sư của ông sẽ không còn chỗ đứng, bất khả lập, bất khả thuyết và nó đã mâu thuẩn từ tiền căn? Vậy phải trả lời làm sao cho kẻ học nữ Ta Bà khổ hạnh nầy: một giáo lý thường kiến vậy kia? --- Hãy bình tĩnh! Hãy bình tĩnh! Này nàng Bhadda đừng tự buộc mình vào những thằng thúc! Đừng bị bịt mắt trước ngọn đèn sáng suốt tự tâm. Hãy nghe đây! Cho bần đạo hỏi một câu, với một câu thôi nàng sẽ tự giải quyết cho chính mình. Câu hỏi như thế này: Cáng của ngọn đèn trước mắt nó thường hay đoạn? --- Chẳng phải thường--- Nàng nghĩ--- Thường sao được khi nó sinh diệt từng giây từng khắc! Chẳng phải đoạn, đoạn sao được khi nó đang hiện hữu! Thấy nàng Bhadda im lặng, tôn giả Xá Lợi Phất tung câu hỏi thứ hai: --- Này nàng Bhadda! Thuở nàng 5 tuổi, nàng thấy một bông hoa. Thuở nàng 30 tuổi nàng thấy một bông hoa. Nàng có thay đổi dẫu cái hoa có khác, quan niệm đẹp xấu có khác, nhưng cái thấy của nàng có thay đổi không? --- Không thể thay đổi, thưa tôn giả. --- Nó chẳng phải thường không? ***-- Câu nầy tả tánh thấy và cái bị thấy (thường đoạn). Tánh thấy thường hằng bất biến, đó là năng tri. Cái bị thấy hay đối tượng là những thực tại giả lập, hay thay đổi, vô thường tức là cái sở tri. Câu 4. H: Ta muốn hiểu cái sở tri về bậc A La Hán ở nhiều phương diện khác nhau. Vị ấy làm thế nào bước ra khỏi giòng bộc lưu sanh tử đang xiết chảy? Đ: Bước tới là lăn trôi. Dừng lại là chìm đắm. Bậc A La Hán không bước tới, không dừng lại, vị ấy ra khỏi giòng bộc lưu sanh tử! Này nàng Bhadda, cái đáp số ấy thậm thâm vi diệu, vi tế, vượt ngữ ngôn vượt suy luận, dành cho kẻ trí, kẻ thâm đại pháp, dành cho kẻ tu chứng. Có lên đường ai ăn mới biết no, chứ không để cho nàng --- kẻ ngoại giáo, kẻ đứng ngoài cuộc, kẻ với tri thức thuần túy --- muốn dùng cái hiểu biết nông cạn, cái tự ngả kiêu căng và đa dục của mình, để nắm bắt cái siêu việt không thời gian, cái bất tử, cái chân phúc, cái niết bàn vô dục và tịch tịnh. Này nàng Bhadda! Nàng có đủ kham nhẫn tịch lặng để lắng nghe những lời như vậy không?... ****--Câu thứ tư nầy diễn tả rất thâm diệu về thiệt tánh giác trong hai giai đoạn, hàng phục vọng tâm và an trụ tâm.(không duyên theo trần cảnh và không trụ vào vọng tâm) Hỏi: Làm thế nào ra khỏi giòng bộc lưu sanh tử đang xiết chảy? Trả lời: Bước tới là lăn trôi. Dừng lại là chìm đắm ; cho nên, không bước tới, không dừng lại ra khỏi giòng bộc lưu sanh tử đang chảy xiết. *-Bước tới: tiến về phía trước mặt: tương lai, khoảng không gian phía trước. Bước tới là lăn trôi theo thời gian huyễn hóa, hay lăn trôi theo trần cảnh giả lập. Bước tới là lăn trôi theo sự vật huyễn hóa, nhân duyên chằng chịt, sanh tử luân hồi khổ đau phiền não. Phủ định tương lai (không bước tới) và phủ định quá khứ (dừng lại) là Trung Đạo, là vượt khỏi Thời Không. Không bước tới là giai đoạn đầu của nhận thức đúng đối tượng giả lập và không chạy theo những ảo tưởng tức là giải thoát được khổ đau và phiền não (phủ định những sự vật giả lập). Không bước tới là tri thức đúng được thực tại giả lập, đó là sự hiểu biết suông. Trong giai đoạn nầy chỉ thấy mọi sự giả vọng là không thật mà tránh nó đi, thì trạng thái tâm lúc bấy giờ thanh thản, không còn bận bịu, dính dáng gì đến phiền não khổ đau.Tuy nhiên, tri cũng chưa đủ mà cần phải hành.Trước tiên, khai mở đường đi đến thế giới chơn thật, thấy được con đường rồi tức là giai đoạn khai thị của tri thức. Đến giai đoạn hành, thì phải ngộ nhập như phải đi thì mới đến, ai ăn mới no. Tri thức đúng thực tại giả lập và phải thể nhập thực tướng của thực tại giả lập đó, là hai giai đoạn giác ngộ niết bàn tuyệt đối. Đó là trực nhận ngay thể không của sự vật.Sắc không khác không, Đưa tất cả thực tại giả lập vào thực tại tuyệt đối mà không còn thấy thực tại giả lập đó nữa. * Dừng lại: Chận giòng thời gian phía sau lưng, là quá khứ. Dừng lại là trụ vào cái thực tại giả lập (quá khứ) mà chìm đắm trong vọng tưởng triền miên, trong sanh tử luân hồi của giòng sống đang xiết chảy theo thời gian không ngừng. Không dừng lại là không trụ vào quá khứ cũng như không trụ vào tất cả các chỗ, vào các thực tại giả lập mà phải xa lìa bốn tướng (Ngả tướng, Nhơn tướng, Chúng sanh tướng, Thọ giả tướng). Không bước tới và không dừng lại là vượt ra khỏi giòng bộc lưu sanh tử. Tương lai hay quá khứ không thể nắm bắt, bất khả đắc. Cho nên không nghĩ đến tương lai mà lăn trôi theo ảo giác, mà cũng không hồi tưởng quá khứ hay trụ vào vọng tưởng hoặc là thực tại giả lập mà phải xa lìa bốn tướng. Vô thời không là thể trạng của một sát na hiện tiền, một khoảnh khắc hiện tại, thắp sáng được cái hiện hữu ấy cũng là khai mở con đường đi đến chân nguyên. Do đó, khi chúng ta không bước tới là dứt bặt nhân duyên sanh diệt, và không dừng lại là không trụ vào cái giả lập, thì ngay đó vượt qua thời không rồi. Ngay lúc nắm bắt được cái vô thời không là giác ngộ niết bàn tuyệt đối, cũng là lúc ra khỏi giòng bộc lưu sanh tử đang chảy xiết. Thực vậy, người có đi ắt có đến, người có ăn ắt có no, chớ tri thức thuần túy chỉ là hí luận mà thôi. Tôn giả Xá Lợi Phất với thiên nhản, Tha tâm thông, thấy rõ tâm địa nàng, đưa ra một câu hỏi kết thúc. Một câu hỏi vứt bỏ sở tri để dẫn nàng về với giáo lý thiết thực hiện tại. --- Bây giờ tới phiên ta hỏi, này nàng Ta Bà Ni Sư khổ hạnh: Thế nào gọi là Một? Thời gian lặng lẻ trôi qua khi câu hỏi được đặt xuống. Quần chúng nín hơi, nghẹt thở. Vừng trán nàng Bhadda từng hạt mồ hôi to bằng hạt bắp không ngớt tuôn ra. Mái tóc lún phún đã bắt đầu điểm bạc. Một triệu kiếp tư duy cũng không trả lời được câu hỏi tầm thường, giản dị kia. Chỉ với một câu hỏi mà nàng Bhadda của chúng ta đã già đi ngàn năm. --- Này nàng Bhadda! Nàng hỏi ta một câu, mười câu, trăm câu, ta đã trả lời nàng đầy đủ cả chặng đầu, chăng giữa, chặng cuối, thế mà ta chỉ hỏi một câu, nàng cũng không trả lời ta Một là gì? Một là thế nào? Mà nàng cũng không hiểu, không biết. Thế mà nàng lại đòi biết cho kỳ được cổ kim thiên hạ sự, đòi hiểu cho hết chuyện trên trời dưới đất. Kinh như núi, chử như rừng...thế đấy! Là trí tuệ của người đi cắm nhánh diêm phù đề khắp cả thiên hạ. Như thân cây bị chặt đứt, nàng Bhadda chợt phủ phục xuống bên chân bậc trí tuệ bậc nhất. --- Kính lạy tôn giả con chịu thôi, không một câu hỏi nào mà con dám trả lời nữa. Với một tự ngã kênh kiệu vô tư, con đã đi đánh trống khắp cửa mọi nhà, để bây giờ biết rằng đất trời vô lượng. Tôn giả đã kham nhẫn, từ bi soi sáng cho con, chỉ đường cho con, đem đèn vào trong bóng tối để ai có mắt có thể nhìn thấy sắc. Cũng vậy, xin Ngài xá tội cống cao ngả mạn của con, cho con trọn đời quy ngưỡng. ***** Xá Lợi Phất muốn nàng Bhadda vứt bỏ Sở Tri, dòng Tri Thức Vụn Vặt để trở về Tri Thức Nguyên Thủy hay Giác Trí Tuệ, hay Nhất Nguyên Tính Tuyệt Đối (Thực tại tuyệt đối), tức là Chân Lý Tối Hậu là sự giác ngộ. Cứu cánh của đạo Phật chỉ duy nhất là con đường giác ngộ giải thoát. C. Kết LuậnSống trong thế giới vô thường, con người làm sao tránh khỏi vòng hệ lụy đến danh lợi tình, nhứt là tình yêu dễ đưa con người lăn lóc theo dòng bộc lưu của dục vọng và phiền não. Nàng Bhadda, con quan sống trong nhung lụa (danh lợi) mà còn phải lụy vì tình. Trải qua thăng trầm và thất bại trong cuộc sống tình cảm, nàng Bhadda thấy lòng mình nguội lạnh như đóng tro tàn. Nàng ngõ: “Vô vọng, dối trá, và rỗng không thay là lòng người--- là tình yêu! Trái đắng và mật đen đã quyện lên đầu lưỡi ta. Đời người vui ít, khổ nhiều. Từ rày, ta không còn mặt mũi nào trở lại gia đình nữa”. Trên núi cao, quên bẳng ngoại giới, nàng chìm trong tư duy suốt mấy ngày đêm. Từ núi cao, cuộc phản tĩnh kỳ lạ đã chuyễn hướng cuộc đời nàng. Trong sự tư duy sâu sắc để tìm đường vượt khỏi thế giới vô thường khỏ ưu là nhân tố để gặp được Ngài Xá Lợi Phất giáo giới, cũng là một duyên lành hiếm có để hiểu rõ và thọ trì giáo pháp của đức Thề Tôn, là hư không hóa mọi hữu tồn dẫu tâm hay vật (tâm pháp đều không); đó là pháp vô ngã, tức con đường giác ngộ giải thoát khỏi dòng sanh tử luân hồi và khổ ưu ở thế giới hiện tượng vô thường nầy. Phổ Nguyệt |
| | | Lữ Hoài
Tổng số bài gửi : 749 Registration date : 15/04/2011
| Tiêu đề: Re: Ngộ Fri 24 Feb 2012, 16:31 | |
| 8 NGHỆ THUẬT SỐNG I/ Sống không giận, không hờn, không oán trách Phàm phu chúng ta ai cũng giận hờn, oán trách. Người chưa hiểu phật pháp thì giận nhiều, oán nhiều. Hiểu Phật pháp rồi thì giảm bớt giận hờn, giảm bớt oán trách. Hiểu phật pháp rồi xuất gia thì chúng ta càng tu luyện pháp môn này nhiều hơn nữa. Khi giận hờn, chúng ta đã giết chết những tế bào trong cơ thể của chính mình, điều đó gậy nên sự bất thiện. Thấy những cảnh trái ý [/b]nghịch lòng ta oán trách. Những người xung quanh làm ta phiền não, không vừa lòng, ta giận buồn. Ví dụ xây cái nhà, ngôi chùa, làm vườn hoa thiệt đẹp nếu mình giao cho người khác mà họ không chăm sóc cây cảnh giống như mình, về thấy cây héo, hoa khô trong khi mình đã đổ biết bao là tâm trí vào đó và như vậy mình giận. Giận người không làm đúng như ý mình muốn. Cho nên sống là không giận hờn, không oán trách. Làm được như vậy có nghĩa là chúng ta trở thành bậc thánh. Người mới tu tập thì hãy giảm bớt giận hờn, trách móc. Đó là chúng ta tập để trở thành bậc thánh. Nếu biết giận là tâm bất thiện, là tội lỗi, là mầm mống gây oan trái thì tập giảm bớt giận.Trong một ngày, tâm giận xuất hiện nhiều lần trong chúng ta. Chẳng hạn công việc nhiều, áp lực mệt mỏi, nếu không điều tiết thì ta sẽ giận hết người này đến người khác. Ta giận làm trái tim ta đau, nó bị tổn thương mỗi ngày nhiều lần như thế sẽ có nguy cơ bị bệnh tim. Vậy chúng ta đừng nên quan trọng hoá bất cứ vấn đề gì, hãy bớt giận, bớt hờn. Ai quan trọng hoá vấn đề thì giận nhiều, trách móc nhiều và sẽ đau bịnh nhiều. Hãy tập mĩm cười và chấp nhận những cái hiện ta đang có. Tập buông bỏ những cái không cần thiết. Chưa biết đạo thì cái gì cũng giận. Biết đạo rồi thì buông bỏ, bước đầu giảm giận, tập sống hạnh của bậc thánh là không giận, không oán trách. Cuộc sống không giận, không oán trách là một cuộc sống mà chúng ta sống để đem lại an vui cho người khác, không còn sống cho mình nữa. Đó là một cuộc sống tốt đẹp của những bậc Thánh trong Đạo Phật. Chúng ta phải tập hạnh của chư vị thánh để sống tốt đời đẹp đạo.
II/ Sống mĩm cười với thử thách chông gai
Đời là bể khổ. Sanh khổ, bệnh khổ, già khổ, chết khổ. Cuộc đời là bể khổ, vui ít, đau khổ nhiều, khổ do chông gai nghịch cảnh bắt nguồn từ tâm chúng ta. Đức Phật dạy phải tu tâm hỷ, tập sống mĩm cười. Ai có tâm hoan hỷ là bớt đi sự ích kỷ nhỏ mọn. Khi chúng ta ích kỷ, hẹp hòi ta không có khả năng cười. Phật giáo Bắc Tông có hình ảnh Phật Di Lặc cười thoải mái. Cuộc sống vốn chông gai thác ghềnh, ta học hạnh mĩm cười để đủ can đảm sáng suốt mà vượt qua những thác ghềnh của cuộc đời. Nếu cuộc đời không có chông gai thì không có ý nghĩa gì. Người nào vượt qua chông gai nhiều thì mới biết quý giá trị cuộc sống. Cuộc đời mà phẳng lặng như nước hồ thu thì mình không có cơ hội rèn luyện ý chí, lòng kiên nhẫn. Ta mĩm cười để vượt qua chông gai. Tâm không an lạc thì khó mà mĩm cười. Có ráng cười thì mặt cũng méo xẹo. Như vậy chúng ta thấy những chông gai, đau khổ trong cuộc sống cũng có ý nghĩa quý giá của nó. Vì sao đức Phật tu hành luôn có Đề Bà Đạt Đa theo quấy phá. Sở dĩ như vậy vì trong tu tập, đạo lực đóng vai trò quan trọng. Nghịch cảnh giúp ta rèn luyện sức chịu đựng. Đời sống tu hành đâu có dễ cho những người yếu đuối. Mĩm cười vượt qua thử thách, chông gai cũng là tâm nhẫn nhục của đạo Phật .
Chúng tôi có xem tài liệu về tâm lý học, nghệ thuật sống trường thọ là mỗi ngày quý vị phải nói sao cho 3 người phải cười. Cho nên trong 24 giờ một ngày quý vị nên tìm tối thiểu ba người nói cho họ cười. Nhưng không phải nói chây, nói không lành mạnh. Với nụ cười trong sáng, những câu nói của mình làm người ta hoan hỷ để chuyển hoá. Trên báo Tuổi trẻ cười có kể chuyện hài: có 3 cách bảo vệ răng. Cách thứ nhất là cứ 6 tháng quý vị đi nha sĩ một lần. Cách thứ hai là phải luôn nhớ đánh răng thật kỹ. Cách thứ ba là không nên xen vào chuyện của người khác.( vì xen vào chuyện người khác thì người ta đánh gãy răng) .
Cho nên nghệ thuật thứ hai là tập sống mĩm cười, nó giúp ta sức mạnh, vượt qua mọi chông gai thử thách trong cuộc sống. Cười là biểu hiện của tâm hỷ, một trong tứ vô lượng tâm. Người có tâm thiện cộng với hành động thiện cộng với lời nói thiện sẽ có nụ cười hoan hỷ. Ngược lại người có tâm ác cộng với hành động ác, cộng với lời nói ác sẽ không có nụ cười tươi hoan hỷ mà mặt lúc nào cũng cau có xấu xí.
III/ Sống vươn lên theo kịp ánh ban mai
Trong kinh điển, Phật dạy người tu phải tập hạnh tinh tấn. Người không tinh tấn sẽ không thành Phật. Hạnh tinh tấn là bí quyết thành công. Tinh tấn là vươn lên, cố gắng thực hiện thiện pháp. Tinh tấn trong thiện pháp để loại trừ những bất thiện pháp. Nghệ thuật sống là phải vươn lên để kịp thời, đúng lúc. Phật dạy phải tinh tấn. Cho nên ta là nơi nương tựa của ta để vượt qua những chông gai, vươn lên trong thiện pháp. Dễ duôi là con đường tử, không dễ duôi là con đường bất tử. Cầu tiến là không dễ duôi trong thiện pháp. Sống mà dễ duôi, không tinh tấn là như chết rồi mà chưa chôn. Vì vậy phải thể hiện hạnh tinh tấn để đoạn trừ ác pháp, để làm thiện pháp. Việc thiện thường đi ngược với khuynh hướng vị kỷ của con người. Ai cũng muốn làm điều có lợi cho mình, những điều có lợi cho người khác chúng ta ít quan tâm. Do vậy làm thiện pháp, cố gắng thực hiện thiện pháp vì lợi ích cho chúng sinh là chúng ta lội ngược dòng nước. Trong Phật giáo có các loại phước:
a/ Phước vật: làm từ thiện xã hội, công quả, cúng dường trai tăng, xây chùa đắp tượng Phật.
b/ Phước đức: phải giữ ngũ giới.
c/ Phước trí : tu thiền, niệm phật.
Hạnh tinh tấn là chìa khoá mở được 3 phước này. Phát huy hạnh tinh tấn là vươn lên đi kịp với ánh ban mai. Bong bóng vì nhẹ nên dễ bay. Con người nặng nên không bay được. Tinh tấn trong thiền. Tâm thiền của những vị thiền sư quá mạnh. Họ tu tập không ngừng nên thân tâm nhẹ nhàng, họ có thần thông, có khả năng bay. Tương tự, Ngài Huyền Trang ( Trung Quốc) miệt mài trên vạn dặm đường đi thỉnh kinh, ngài Nan-in một vị Thiền sư nổi tiếng thời Minh Trị Thiên Hoàng ( Nhật Bản) không ngừng tham thiền…đó là những tấm gương cho hạnh tinh tấn để đạt được sự giác ngộ.
IV/ Sống chan hoà với mọi người chung sống Trong Trung bộ kinh, Phật dạy sống lục hoà là 6 phương pháp sống hoà hợp.
1/Thân hoà đồng trú:
Đây là sự hoà thuận trong một tập thể, một môi trường sống. Trong chùa chúng ta có nhiều người từ các vùng miền khác nhau đến cùng tu tập. Mỗi người có quê hương gốc gác xuất xứ khác nhau thì sẽ có sự khác biệt trong giọng nói, suy nghĩ, hành động. Nhưng khi đã ở cùng một trú xứ vói nhau thì phải có sự hoà thuận, nương dựa nhau mà sống và tu tập. Trong lý tưởng Phật pháp, trong tình đồng đạo, chúng ta sống cùng huynh đệ trải qua bao nhiêu năm tu hành gian khó. Thân giữ oai nghi tế hạnh, sống phù hợp với mọi người, không tự cao tự đại. Thân biểu hiện bên ngoài là cách ăn mặc, chưng diện, còn bên trong là tâm không sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Thân hoà đồng trú là cách giúp người tu khởi đầu tâm từ trong việc ở chung với nhau nơi một trú xứ. Vị sư cả trụ trì phải là người thể hiện thân hoà đồng trú để làm gương cho tăng chúng ở chỗ thương yêu, đối xử bình đẳng không phân biệt đối với mọi người.
2/ Khẩu hoà vô tranh
Lời nói hoà hợp. Nhiều khi mình có tài hùng biện nhưng không phải cái gì biết cũng nói, có những cái biết không nên nói. Giống như gas và điện là những thứ rất cần thiết cho sinh hoạt nhưng nếu chúng ta dùng không đúng cách nó sẽ không an toàn và làm hại chúng ta. Vậy phải biết nói điều gì đem lại lợi ích chung cho mình và cho người thì hãy nói bằng không thì thôi. Nói những lời độc ác, thô lỗ cộc cằn gây cho người khác sự bực bội, làm cho người ta hiểu lầm, đau khổ, mất ăn mất ngủ chỉ vì lời ta nói thì có gì hay? Có nói không, không nói có gây bất hoà, chia rẻ. Do vậy khẩu hoà là nói đúng sự thật, không tranh cãi với nhau nặng lời. Kinh Phật dạy lời nói phải là ái ngữ, nhẹ nhàng thì mới có sự quan hệ tốt với người xung quanh. Nếu có ai lớn tiếng, cao giọng với mình, chúng ta cũng bực tức, phản ứng bằng cách nói xẳng lại thì sẽ mất đi sự hoà thuận trong chùa. Khẩu hoà vô tranh còn phải hiểu là đừng nói xấu nhau sau lưng, không phát ngôn tuỳ tiện, đừng gây gổ nặng nề để giữ cái tâm an vui cho mình và cho bạn đồng tu trong chùa.
3/Giới hoà đồng tu
Cùng nhau giữ giới luật. Phật tử có 5 giới, người xuất gia tu nữ có hơn 110 giới, tỳ kheo có 227 giới. Trong chùa có luật, ai có việc đi vắng thì ghi tên lên bảng, có người đau bệnh thì chúng ta chăm sóc. Chúng ta phải tuân thủ điều đó. Hoặc khi nhập hạ không được vắng quá 7 ngày. Dù có việc phải đi thì đến ngày thứ 6 cũng phải trở về chùa. Như vậy mọi người cùng nhau tôn trọng, rèn luyện và giữ gìn giới luật thì cuộc sống tu tập rất vui vẻ.
4/ Kiến hoà đồng giải
Sống trong một tổ chức chúng ta chia sẻ sự hiểu biết với nhau, trong chùa đó là chia sẻ Phật pháp. Trong chùa Nam tông không có dùng chuông mỏ khi tụng kinh, không thờ Phật A di đà hay Quán Thế Âm bồ tát. Phật giáo Nam tông không có truyền thống ấy và không phản đối khi thấy người ta đi theo truyền thống khác mình. Người trí phải biết thời, biết sử dụng đúng chỗ, đúng nơi. Truyền thống Phật giáo Nguyên thuỷ thờ duy nhất Phật Thích Ca và không tổ chức xin xăm trong chùa.
Kiến nghĩa là những quan niệm của mình. Đức Phật nói kiến (quan niệm ) rất quan trọng. Cho nên trong bát chánh đạo, chánh kiến đứng đầu. Chánh kiến là tuệ. Chánh kiến đứng đầu trong bát chánh đạo để biết đâu là tà, đâu là chánh.
Như vậy, cùng chung sống với nhau phải hoà hợp về quan niệm, về sự hiểu biết. Vì sự hiểu biết con người không đồng đều nên khi biết được điều gì hay trong giáo pháp, trong tu thiền chúng ta chia sẻ với bạn đồng tu trong chùa . Kiến hoà đồng giải còn thể hiện ở chỗ thống nhất phương pháp tu tập, đem an lạc trong hội chúng. Nếu không thống nhất những vấn đề quan niệm, tri kiến trong tu tập thì mỗi người đi mỗi ngã, không hoà hợp. Đức Phật dạy chúng ta phải luôn khiêm tốn. Trên con đường muôn dặm của Phật pháp chúng ta gặp rất nhiều những vị thuyết pháp giỏi. Có vị cho Vi Diệu Pháp là nhất, có người cho Giới là nhất, có người cho Kinh tạng là nhất. Tại sao? Vì chư vị đang quan trọng về lãnh vực đó, chứ lời phật dạy thì chúng ta thực hành ở kinh, luật hay luận vẫn có khả năng giác ngộ như nhau.
5/Ý hoà đồng duyệt
Lời nói có khi vụng về nhưng ý không hiểm ác thì người khác cũng sẽ thông cảm. Ý rất quan trọng. Vì chúng ta hành động theo ý chúng ta suy nghĩ. Trong tâm người tu hành không nghĩ xấu về người khác, nhìn thấy ưu điểm của người khác. Sống trong một trú xứ mà nhìn thấy ai cũng là người tốt: người siêng tu thiền, tụng kinh, người năng chăm sóc chánh điện, người thích làm công quả, người luôn đem lời nói hoà giải mọi người v.v… Chúng ta sẽ thấy vui thích khi ở trong một trú xứ như vậy. Khi tâm ý chúng ta nghĩ đến điều tốt nên chỉ thấy toàn những người tốt tự nhiên ta sẽ thấy hoan hỷ. Không nhìn khuyết điểm, không soi mói, không nói xấu sau lưng, không tỵ hiềm, đố kỵ, ghen ghét mà luôn hoà thuận, nương dựa, chia sẻ với nhau để sống, chúng ta sẽ có một đời sống xuất gia tràn đầy niềm vui.
6/ Lợi hoà đồng quân
Trong một tập thể sống chung có những quyền lợi, vật dụng phát sanh phải chia đều cho nhau. Sự hoà hợp về kiến giải về giới luật đôi khi dễ thực hiện hơn những vấn đề liên quan đến quyền lợi vật chất. Do vậy, lợi hoà đồng quân để mọi người gắn bó và yêu thương nhau hơn, tránh sự bất công trong một trú xứ. Có người được nhiều tứ vật dụng( y áo, thuốc men, thức ăn, trú xứ) nhưng để cho hư chớ không chia cho ai cả. Nếu sống chung mà chẳng bao giờ biết tặng quà cho nhau thì cũng thấy dỡ quá, xa lạ quá. Đôi khi người ta còn tìm kiếm cơ hội để tặng quà cho nhau nữa. Như vậy mới bồi đắp tình thương yêu trên tinh thần đồng tu với nhau trong một trú xứ. Vì tình thương là gốc của sự hoà hợp. Chúng ta thấy những gì lợi ích cho phẩm hạnh của một người tu thì chúng ta thực tập để giúp mình chuyển hoá. Lục hoà là sáu phương pháp giúp cho một tổ chức, một hội chúng tỳ khưu tăng, tỳ khưu ni sống an lạc.
V/ Sống là động nhưng lòng luôn bất động
Tâm chúng ta luôn động. Tâm viên ý mã, tâm như con khỉ, con ngựa luôn nhảy nhót, phóng túng, muốn chạy đâu thì chạy. Khi ngồi thiền quý vị mới thấy rỏ cái tâm của mình vô cùng biến chuyển. Cuộc sống luôn biến đổi, tâm thức cũng luôn biến đổi. Tâm là gì? Tâm là biết cảnh. Cảnh vui chúng ta tham. Cảnh không vui chúng ta nổi sân. Quý vị cần quân bình giữa hai cái này. Đối với bậc thánh, a la hán tâm luôn bất động. Khi một vị giải thoát dục lậu, hữu lậu, kiến lậu và vô minh lậu họ sẽ trở thành bậc thánh. Hạnh phúc, đau khổ, khen chê, được lợi, bất lợi… đó là những pháp thế gian. Người ta chê mình, mình động tâm. Người ta khen mình, mình động tâm. Lên chức thì động tâm vui cười, mừng rỡ. Mất chức cũng động tâm đau khổ, khóc than. Ai thoát ra khỏi những pháp thế gian đó là người tỉnh thức. Nếu không tỉnh thức sẽ là người chết. Chúng ta tu hành là người đang học làm thánh, đang đi trên con đường học làm thánh. Có những cảnh làm người ta rung nhưng tâm không động. Nhưng chúng ta còn là kẻ phàm phu thì cũng có lúc rung động trước những pháp thế gian. Muốn không rung động để giữ cho tâm bất động thì phải giữ giới. Giữ giới trong sạch thì mới đến được định. Tâm định trước những pháp thế gian mới phát sinh trí tuệ. Tu giới, tu định, tu tuệ là nền tảng giáo dục của Phật giáo đi từ thấp lên cao. Có giới, định, tuệ chúng ta sẽ có sức mạnh nội tâm, sống không lệ thuộc, bị chi phối và lay động bởi ngoại cảnh.
VI/ Sống là thương nhưng lòng chẳng vấn vương
Thương là biểu hiện của tâm từ bi. Phật dạy người tu phải có tứ vô lượng tâm. Từ là thương. Bi là thương xót. Phật dạy người tu phải có lòng từ, thương những người chung quanh, có lòng bi để bớt đi sự độc ác, hung bạo . Thấy người ăn xin, có người cho, có người không cho. Không cho là biểu hiện khắt khe quá chăng ? Vì người ta dám đi xin ăn thì mình cũng nên cho với lòng từ bi. Có người đi xin ăn để nuôi con ăn học. Vậy ta cho họ một chút giúp cho họ đỡ khổ, giúp cho xã hội giảm bớt tội phạm. Thay vì họ đi làm những điều tội lỗi, ăn trộm ăn cắp thì họ đi xin. Có lần chúng tôi gặp một bà bán bánh chuối, chồng đi lấy vợ bé, hai đứa con nghiện hút. Gánh bánh chuối đè vai bà ta bao nhiêu năm qua để kiếm từng đồng bạc nuôi con và nuôi chính mình. Chúng tôi đến mua bánh chuối để có cơ hội nói chuyện với bà ấy, giúp bà an tâm hơn để không ngã gục trên đường đời. Sống là thương nhưng thương bằng tâm luyến ái, chiếm hữu, độc quyền thì không tốt.
Tiếng Phạn metta là tâm từ, tiếng Anh là lovingkindness, thương phải hiểu. Hiểu mới thương. Thương không hiểu là phiến diện dẫn đến những hệ luỵ phức tạp. Trong nhà Phật là nếu trường hợp mình đang tập thực hành tâm từ là phải thương những người đáng thương. Người thân quen thương đã đành nhưng người không thân cũng thương luôn. Đó chính là tình thương không phân biệt quốc gia, dòng họ, giai cấp…Phật dạy người tu rất cần tình thương đó. Muốn đạt tình thương đó phải có tứ vô lượng tâm. Người nghèo Việt Nam và người nghèo Ấn Độ hay ở Myamar không khác gì nhau. Người Việt Nam chỉ thương người nghèo Việt Nam thôi là tình thương phân biệt. Muốn có tình thương vô lượng. Phật Thích Ca có tình thương không phân biệt thì phải khổ luyện hơn 20 a tăng kỳ, 100 ngàn đại kiếp. Do vậy tâm từ bi, tình thương vô điều kiện, không giới hạn, nó khác xa với tâm luyến ái, ích kỷ của thế gian.
VII/ Sống yên vui danh lợi mãi coi thường
Quý vị biết cuộc đời này không yên vui, không hạnh phúc. Hạnh phúc và yên vui là ý niệm. Có người quan niệm sống yên vui là mình phải có quyền, có tiền, phải làm chủ, ở nhà lầu xe hơi. Tất cả là những ý niệm, nhưng thật ra mình làm chủ nhà lầu xe hơi mình cũng đâu có yên vui. Những vị nguyên thủ quốc gia cũng đâu an vui, nếu tâm chưa thật sự yên vui và thảnh thơi. Khi quý vị thấy tâm an vui là quý vị an vui. Có người buổi sáng được uống một ly cà phê đá, ăn một tô bún bò, hút một điếu thuốc là thấy vui rồi. Chúng tôi thuyết pháp ở đây thấy an vui. Ai khích bác một câu, chúng tôi hỷ xả là chúng tôi an vui. Hạnh phúc an vui chỉ là ý niệm. Sáng mình thích ăn hủ tiếu Nam vang mà đưa cháo thì đâu có vui. Mình có căn nhà, có danh lợi thì mình yên vui. Nhưng nếu mình đặt nặng danh lợi thì mình sẽ có nhiều đối thủ không ưa mình thì làm sao tâm mình an vui. Hãy biết trong cuộc sống, danh vọng chỉ là bóng mờ sương đêm, chỉ là phương tiện khi hơi thở chúng ta còn. Còn không thở được nữa thì thật vô nghĩa vì khi chết có mang theo được gì đâu. Đời là vô thường. Quý vị biết xem thường danh lợi tâm quý vị an vui, những người chung quanh sẽ không cảm thấy ngột ngạt. Có người sống lao theo công việc lợi danh đã không có đủ thời gian để giáo dục con cái. Những đứa con của họ thiếu tình thương cha mẹ, sống trong sự chăm sóc của người giúp việc nhiều hơn của cha mẹ, con cái buồn và cảm thấy xa lạ, lạc lỏng, cô đơn nên kết bạn kết bè giải khuây. Nếu kết bạn xấu sẽ gây nhiều hậu quả khó lường, trở thành tội phạm, là gánh nặng cho gia đình, xã hội. Người tu làm sao vẫn sống an vui trong cái nghèo vật chất. Tâm an vui là gốc rễ của con người. Tâm thức quan trọng vì nó là hệ điều hành giống như cái CPU của máy điện toán quan trọng hơn cái màn hình. Tâm xao động, không làm chủ được thì bao nhiêu căn nhà cao tầng cũng bằng không. Cho nên quý vị hãy tập sống sao cho tâm mình luôn vững chãi, mát mẻ mới đủ nghị lực sáng suốt trong cuộc sống.
VIII/ Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến
Tâm luôn biến dịch, không ai có thể làm chủ của tâm mình, thế nên kinh pháp cú Đức Phật dạy:
Tâm dẫn đầu các pháp
Tâm chủ, tâm tạo tác
Nếu nói với tâm thiện
Hạnh phúc sẽ theo ta
Giống như bóng với hình.
Tâm dẫn đầu các pháp
Tâm chủ, tâm tạo tác
Nếu nói với tâm ác
Đau khổ sẽ theo ta
Giống như bóng với hình.
Hai câu kinh pháp cú trên, đức phật rất đề cao tâm của chúng ta. Vạn pháp do tâm tạo. Trong tứ niệm xứ, tu thiền để huân tập tâm chánh niệm. Chánh niệm là ghi nhớ những gì xảy ra trong hiện tại. Biết tâm mình rõ thì mới nắm được vạn pháp. Liễu tri tâm của mình thì đất trời 31 cõi này mình cũng sẽ liễu tri. Dân gian thường nói: tu tâm, Tứ niệm xứ dạy niệm tâm, biết thân thọ tâm pháp, biết tâm sanh diệt, tâm thiện, bất thiện , tâm phóng túng, an tịnh. Thiền là cách huấn luyện tâm, làm chủ tâm của mình. Khởi điểm của thiền là thanh lọc tâm. Chúng ta tỉnh thức, kiểm soát tâm là giúp cho trí tuệ phát triển. Khi tâm thanh tịnh, lúc đó tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến.
TN. Quang Duyên ghi chép Bài pháp này do Đại đức Tiến sĩ Thiện Minh thuyết giảng
Được sửa bởi Lữ Hoài ngày Thu 01 Mar 2012, 06:58; sửa lần 1. |
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Ngộ | |
| |
| | | |
Trang 15 trong tổng số 17 trang | Chuyển đến trang : 1 ... 9 ... 14, 15, 16, 17 | |
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |