Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesVietUniĐăng kýĐăng Nhập
Bài viết mới
Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Today at 16:41

Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 18:57

Thi tập "Chỉ là...Tình thơ" by Tú_Yên tv Yesterday at 12:56

Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Yesterday at 12:51

Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Yesterday at 12:46

LỀU THƠ NHẠC by Thiên Hùng Wed 24 Apr 2024, 11:55

Quán Tạp Kỹ - Đồng Bằng Nam Bộ by Thiên Hùng Wed 24 Apr 2024, 11:48

Trụ vững duyên thầy by Trà Mi Tue 23 Apr 2024, 07:34

Mái Nhà Chung by Trà Mi Tue 23 Apr 2024, 07:33

THIỀN TUỆ (diệt trừ đau khổ) by mytutru Tue 23 Apr 2024, 00:07

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 09:57

Nhận dạng phụ nữ giàu có by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 08:36

Bức tranh gia đình by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 08:09

Mẹo kho thịt by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 07:29

SẦU LY BIỆT by Phương Nguyên Sun 21 Apr 2024, 23:01

Trang Họa thơ Phương Nguyên 2 by Phương Nguyên Sun 21 Apr 2024, 22:56

Trang viết cuối đời by buixuanphuong09 Sun 21 Apr 2024, 06:38

Mức thù lao không ai dám nghĩ đến by Trà Mi Wed 17 Apr 2024, 11:28

KHÔNG ĐỀ by Phương Nguyên Wed 17 Apr 2024, 11:00

Cách xem tướng mạo phụ nữ ngoại tình, không chung thủy by mytutru Tue 16 Apr 2024, 11:59

Ở NHÀ MỘT MÌNH by Phương Nguyên Tue 16 Apr 2024, 09:59

HÁ MIỆNG CHỜ SUNG by Phương Nguyên Sun 14 Apr 2024, 13:29

Trang thơ vui Phạm Bá Chiểu by phambachieu Fri 12 Apr 2024, 15:48

Những Đoá Từ Tâm by Việt Đường Fri 12 Apr 2024, 15:32

Chết rồi! by Phương Nguyên Fri 12 Apr 2024, 13:57

ĐÔI BÀN TAY NGHỆ NHÂN by mytutru Thu 11 Apr 2024, 17:43

THẬN TRỌNG SIÊU LỪA by mytutru Wed 10 Apr 2024, 20:33

Không đánh, không mắng, không phạt, không có học sinh ưu tú by Trà Mi Wed 10 Apr 2024, 11:45

KHÓ NGỦ by Phương Nguyên Wed 10 Apr 2024, 01:46

MỘT CHÚT BUỒN by Phương Nguyên Tue 09 Apr 2024, 15:33

Tự điển
* Tự Điển Hồ Ngọc Đức



* Tự Điển Hán Việt
Hán Việt
Thư viện nhạc phổ
Tân nhạc ♫
Nghe Nhạc
Cải lương, Hài kịch
Truyện Audio
Âm Dương Lịch
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
Đăng Nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập: 
:: Quên mật khẩu

Share | 
 

 Tỳ bà truyện - Nguyễn Bính

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Chuyển đến trang : Previous  1, 2
Tác giảThông điệp
Y Nhi
Admin
Y Nhi

Tổng số bài gửi : 3173
Registration date : 22/11/2007

Tỳ bà truyện - Nguyễn Bính - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Câu 1005-1112   Tỳ bà truyện - Nguyễn Bính - Page 2 I_icon13Sun 25 Jul 2010, 04:27

*

Suốt trời nắng đổ chang chang [247],
Nắng khô sông rộng, nắng vàng rừng thưa.
Trời làm mấy tháng không mưa,
Bao nhiêu đồng đất nẻ khô như sành.
Mùa màng mất sạch sành sanh,

1010. Dân gian lo sợ mà đành bó tay.
Người sang Bắc, kẻ về Tây,
Vợ con phiêu bạt, tớ thầy biệt ly.
Bỏ nhà bỏ cửa kéo đi,
Ðò ngang vắng khách, chợ thì hết đông.
Túng vô độ, đói vô cùng,
Người ta đã biết cơm sung cháo dền [248].
Ngũ Nương mới thực lo phiền,
Nhà nghèo lại gặp truân chuyên thế này.
Bao nhiêu của cải riêng tây [249],

1020. Nàng đem bán rẻ từng ngày ăn đong [250].
Gắng cho cha mẹ yên lòng,
Ðường xa vẫn chẳng thấy chồng về cho.
Thất thường bữa đói bữa no,
Hôm nay đã vậy lại lo mai ngày.
Nàng thì vóc liễu thêm gầy,
Mẹ cha lại mấy bữa rày không cơm.
Tảo tần thương một thân đơn,
Ngọn rau lá cỏ qua cơn đói lòng.
Thiên tai cơ cực khắp vùng,

1030. Trời cao thăm thẳm đầy đồng nắng hoe.
Triều đình xót nỗi dân quê,
Lấy lương Hà Nội chở về Hà Ðông.
Huyện quan thông sức [251] khắp vùng,
Ðúng ngày ai nấy phải cùng lên nha [252].
Ít nhiều chi nữa cũng là,
Cái tin phát chẩn [253] đồn xa rần rần.
Nghe tin có phát chẩn bần,
Ngũ Nương chẳng quản đường gần hay xa.
Canh năm vừa rạng tiếng gà.

1040. Lẻ loi thân gái bước ra ngại ngùng.
Trên trời sao hãy còn đông [254],
Cỏ mòn một lối, đồng không bốn bề.
Cơ hàn [255] lạnh tái lạnh tê,
Sương thu xuống gió thu về bồng bênh.
Rừng gần cây mất màu xanh,
Ðỉnh non trông thấy trống thành nghe xa.
Nửa ngày vừa tới huyện nha,
Ðông như kiến những người ta ngạt ngào.
Một tuồng rách rưới như nhau,

1050. Một tuồng mặt vỏ [256] mình sầu hom hom.
Bà bồng cháu, chị dắt em,
Con thơ lạc mẹ, người chen với người.
Tiếng than tiếng khóc bời bời,
Ngồi trên có đến ông trời cũng đau.
Ðến giờ nổi hiệu trống chầu,
Người ta cứ giẫm lên nhau mà vào!
Ngọn roi vun vút mưa rào,
Tiếng van lại tiếng kêu gào điếc tai.
Ngũ Nương vóc liễu mình mai,

1060. Ðổi hai mắt lệ lấy vài đấu lương.
Chàng đi hoa nở đầy đường,
Cơ hàn biết thiếp đoạn trường này chăng?
Về thôi xay, giã, dần, sàng,
Vội vàng vo gạo, vội vàng thổi cơm.
Ngọt bùi lưng thảo [257] lưng thơm,
Mẹ cha chắc dạ là con vui lòng.
Con mà nhịn đói cũng xong,
Mẹ cha nhịn đói lòng không sao đành.
Dối rằng đã có phần mình,

1070. Bao nhiêu cơm gạo riêng dành hai thân.
Còn mình nấu cám mà ăn,
Miễn sao sống được qua lần thì thôi.
Cám không phải của ngọt bùi,
Người không là lợn nuốt trôi sao đành.
Khi xưa bác mẹ hiền lành,
Mà nay cay đắng riêng mình mới oan.
Thương thân thêm nỗi nhớ chàng,
Lòng đau chín khúc [258], lệ tràn đôi mi.
Người đi bằn bặt không về,

1080. Dãi dầu đôi đức [259], ê chề một thân.
Nghẹn ngào vừa khóc vừa ăn,
Ông bà nhẹ bước lại gần mới hay.
“Trời ơi! Sao đến nỗi này,
Cám kia ai bắt tội này, con ơi!
Chồng con nó bỏ con rồi,
Mẹ cha làm khổ một đời con đây.
Trai ơi! Mày phụ vợ mày,
Mày đi mất mặt không quay đầu về.
Quên tình phụ tử phu thê,

1090. Vô nhân bạc nghĩa chết đi cho rồi.
Con đi vui thú quê người,
Ðể dâu gánh hết nợ đời hay sao?”
Ngũ Nương tươi tỉnh má đào,
Rằng: “Con khoẻ mạnh thế nào cũng xong!
Mẹ cha đầu bạc răng long,
Có như thế mới yên lòng làm con.
Cho dù ngày tháng mai mòn,
Ðình vi thúc thủy [260] lòng son dám rời.
Xin thầy mẹ cứ yên vui,

1100. Chồng con chắc chả phải người bạc đen.
Một là đường sá chưa quen,
Hai là đất khách cạn tiền đò giang.
Hoặc là tên chiếm bảng vàng,
Nhà vua giữ lại làm quan trong triều.
Mẹ thầy hiền đức [261] bao nhiêu,
Chồng con ắt chẳng gặp điều không may.
Lòng con dám quản chua cay,
Sớm hôm hầu hạ mẹ thầy là vui.”
Ông bà nghe bấy nhiêu lời,

1110. Tạm ngăn giọt thảm, tạm vơi lòng sầu:
“Ví dù còn có kiếp sau,
Mẹ xin trở lại làm dâu cho mày.”

*
_____________________

Chú thích

[247] Nắng gay gắt khắp nơi.
[248] Cơm nấu bằng quả sung, cháo nấu bằng rau dền.
[249] Riêng tư.
[250] Ăn bằng gạo đong từng bữa vì túng thiếu.
[251] Ra lệnh cho các nơi thi hành.
[252] Nha sở, nơi quan huyện làm việc.
[253] Phân phát tiền, gạo để cứu giúp người đói khổ.
[254] Phương đông còn sao, trời chưa rạng sáng.
[255] Ðói và lạnh.
[256] Hốc hác.
[257] Nhường nhịn cho cha mẹ.
[258] Chín khúc ruột.
[259] Cha và mẹ.
[260] Ðình: sân; Vi: màn. Trong vòng sân nhà, chỗ cha mẹ ở. Ðình vi thúc thủy nghĩa là bát gạo chén nước lo phụng dưỡng cha mẹ ở chốn đình vi. Nói tâm sự người con có hiếu mà gia cảnh nghèo khổ.
[261] Hiền lành đạo đức.

_________________________
Tỳ bà truyện - Nguyễn Bính - Page 2 Signat21
Về Đầu Trang Go down
https://www.daovien.net
Y Nhi
Admin
Y Nhi

Tổng số bài gửi : 3173
Registration date : 22/11/2007

Tỳ bà truyện - Nguyễn Bính - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Câu 1112-1240   Tỳ bà truyện - Nguyễn Bính - Page 2 I_icon13Sun 25 Jul 2010, 04:32

*

Ðói no ngày cũng qua ngày,
Lá thu khô đã rơi đầy vườn đông.
Bệnh già kéo đến như không,
Ba ngày chạy chữa Thái ông từ trần.
Tiền không đủ một vuông khăn [262],
Ngũ Nương đem ít áo quần bán đi.
Cửa nhà đang lúc hàn vi,

1120. Miễn sao cho đủ lễ nghi gọi là.
Thêm thương một nỗi mẹ già,
Bóng dâu đầu bãi, nắng đà ngang sông.
Sớm khuya bà chỉ đau lòng,
Có con mà đám ma chồng không con.
Hay đây gió tủi trăng hờn,
Thái bà lâm bệnh từng cơn li bì.
Ðói no thôi có quản gì,
Ngũ Nương một dạ đình vi đã đầy.
Tiền đâu thang thuốc lúc này,

1130. Còn lo rau cháo một ngày đôi phen.
Một thân mấy nỗi lo phiền,
Nghĩ bề nào cũng chẳng yên bề nào.
Tin người vẫn bặt âm hao [263],
Nhớ ra dặm cát, thương vào buồng the.
Úa mòn sắc liễu bên đê,
Ngựa vinh qui chẳng thấy về cố hương.
Tóc dài tủi lược hờn gương,
Lòng tơ biết mấy canh trường ngổn ngang.
Ðợi cho áo gấm về làng,

1140. Có khi hai chiếc lá vàng đã rơi [264].
Mới hay khe khắt lạ đời,
Ðắng cay là thiếp... chao ôi... là chàng!
Mẹ chàng chẳng thuốc chẳng thang,
Chê cơm chán cháo lòng càng đắng cay.
Nơi nào chàng hỡi có hay,
Ngõ ngưng sương bạc, vườn bay lá vàng.

*

Có người viễn khách qua làng,
Tin đồn lại đến tai nàng Ngũ Nương.
Nàng về trình mẹ tỏ tường,

1150. Rằng: “Xin dâng mẹ tin mừng mẹ vui.
Chồng con đỗ Trạng nguyên rồi,
Làm quan ở đấy từ hồi đăng khoa [265].”
Thái bà nghe nói xót xa:
“Con ơi! Ðừng nói nữa mà mẹ đau.
Nó giờ thương nhớ gì đâu,
Cầm như chiếc nón qua cầu gió bay.
Mẹ giờ sống chết kể ngày,
Sâu nông [266] cậy một thân mày thủy chung [267].
Sinh con ai nỡ sinh lòng,

1160. Ngờ đâu nó cũng lộn sòng bạc đen.
Ới ông ơi! Có linh thiêng,
Ðón tôi chầu chực toà sen [268] cho rồi.
Sống dai chỉ khổ dâu thôi!”
Ngũ Nương vội vã tìm lời khuyên can:
“Mẹ đừng lo nghĩ miên man,
Cho hao mình hạc cho tàn bóng trăng.
Hẳn là trọn đạo quân thần,
Chồng con chưa nhẽ buông thân mà về.”
Thái bà khi tỉnh khi mê,

1170. Nghe tin vui chính là nghe tin buồn.
Thương dâu lại giận hờn con,
Ngọn đèn trước gió chẳng còn chắc chi.
Ngũ Nương khuyên giải làm gì,
Lòng riêng cảm thấy điều gì không hay.
Tơ tình lỡ dở rồi đây,
Ðam mê biết tính tự ngày nào chung [269].
Bây giờ cách mặt xa lòng,
Người ta tiếc lục tham hồng một phương.
Thái bà sắp biệt cõi dương,

1180. Gọi nàng dâu đến bên giường mà than:
“Vợ chồng kẻ Bắc người Nam,
Ðầu xanh tuổi trẻ ai làm nhỡ con.
Kinh kỳ trướng phủ quyền môn,
Bạc vàng xe ngựa phấn son thiếu gì.
Sang giàu thì bỏ hàn vi,
Nó không về, nó không về nữa đâu!
Thương con mười sáu tuổi đầu,
Câu ‘sang đổi vợ’ là câu thế thường.
Con giờ một nắng hai sương,

1190. Mẹ đi con ở giữa đường bơ vơ.
Chọn người quân tử mà thờ,
Ôm con thuyền nát đợi chờ làm chi.”
Ngũ Nương châu lệ đầm đìa:
“Chồng con dù chẳng có về cũng thôi.
Cũng đành bỏ héo xuân tươi,
Dám đâu một gái đi hai lần đò.
Mẹ còn mạnh chán chưa lo,
Rán ăn chút ít chóng cho lại người.”
Thái bà im lặng mỉm cười,

1200. Mà trong khoé mắt sáng ngời hạt châu [270].
Bà nhìn cho kỹ con dâu,
Ý bà muốn nói một câu tận tình.
Dù cho lời nói không thành,
Một nhìn cũng tỏ ngọn ngành xót thương.
Thác về đôi ngả âm dương,
Nghìn thu một sớm thiên đường là đây.
Ngũ Nương chi xiết đắng cay,
Nhà nghèo giờ biết ma chay thế nào?
Của riêng đã nhẵn như bào,

1210. Biết tìm đâu thấy, biết đào đâu ra.
Nát lòng xẻ bảy chia ba,
Nỗi mình đơn chiếc, nỗi nhà tang thương.
Lấy đâu cỗ ván lưng cơm,
Thoi vàng giấy nén nhang thơm phụng thờ.
Mong ai đôi mắt đã mờ,
Khóc cha khóc mẹ bây giờ ai hay.
Một mình tính đó toan đây,
Chỉ duy còn mớ tóc mây đáng tiền.
Ðen như mun, óng như huyền,

1220. Chiều dài chấm đất, chất mềm như tơ,
Cắt lòng một lưỡi dao đưa,
Than ôi! Ðôi ngả tóc tơ chia lìa.
Kiếm nhà quyền quí bán đi,
Món hàng đã hiếm thiếu gì người mua.
Ít nhiều lo liệu cho vừa,
Mồ yên mả đẹp bây giờ đã xong.
Thương thay phận gái xa chồng,
Tóc xanh đã ngắn, mà hồng lại phai.
Ðau lòng thiếp lắm chàng ơi,

1230. Thần hôn thiếp dám đơn sai đâu mà.
Theo nhau cha mẹ về già,
Chàng đi nước thẳm non xa chẳng về.
Nỡ nào nghĩa cắt tình chia,
Nỡ nào được Sở quên Tề cho đang [271]
Thiếp như áo rách giày tàn,
Vinh hoa rồi đấy biết chàng tính sao?
Thương thay liễu yếu tơ đào,
Một thân mang nặng biết bao nhiêu tình.
Ma chay mồ mả đã đành,

1240. Tìm chồng xem cái duyên mình ra sao?

*
_________________
Chú thích

[262] Khăn tang.
[263] Tin tức.
[264] Cha lẫn mẹ đều qua đời.
[265] Thi đỗ.
[266] Cạn.
[267] Thủy: đầu; Chung: cuối. Từ đầu tới cuối như một. Ý chỉ lòng trung thành mãi mãi.
[268] Chết, về với Trời Phật.
[269] Thuở còn sống chung với nhau.
[270] Cho hết tình cảm, tình thương.
[271] Cho đành lòng.

_________________________
Tỳ bà truyện - Nguyễn Bính - Page 2 Signat21
Về Đầu Trang Go down
https://www.daovien.net
Y Nhi
Admin
Y Nhi

Tổng số bài gửi : 3173
Registration date : 22/11/2007

Tỳ bà truyện - Nguyễn Bính - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Câu 1241-1396   Tỳ bà truyện - Nguyễn Bính - Page 2 I_icon13Sun 25 Jul 2010, 04:38

*

Ngũ Nương cửa đóng ngõ rào,
Ðem hai bảo vật tìm vào Trường An.
Bức tranh cha mẹ bên chàng,
Tì bà đây một cây đàn ngày xưa.
Bức tranh hôm sớm phụng thờ,
Dù con lưu lạc bao giờ dám quên.
Tì bà gọi chút tình riêng,
Dọc đường đàn hát kiếm tiền độ thân.
Tuổi son sớm dã thanh bần,

1250. Trời xanh còn bắt phong trần nữa đây.
Vàng người đắm, rượu người say,
Lòng này ai biết, thân này ai thương.
Trước khi từ biệt gia hương,
Nàng làm một lễ cáo tường [272] vong linh.
Gọi là bát nước lưng canh,
Bốn bên cha mẹ thấu tình cho con.
Dưỡng sinh, tống tử [273] đã tròn,
Con xin lặn lội nước non tìm chồng.
Làm người có thủy có chung,

1260. Cúi không thẹn đất, ngửa không thẹn trời.
Sống đâu không thẹn với trời,
Chết đi không thẹn với người cõi âm.
Cúi đầu quì lạy bốn thân [274],
Gieo cầu rút đất cho gần dặm xa.
Giữa đường tai nạn thì qua,
Trường An chẳng mấy chốc mà đến nơi.
Tìm chàng để gặp mà thôi,
Chắc chi đồn đại như lời người ta.
Thăm xong phần mộ hai nhà,

1270. Ngũ Nương lủi thủi bước ra khỏi làng.

*

Trên đầu hai nếp khăn tang,
Một tờ tranh, một cây đàn tả tơi.
Mùa đông rét cắt da trời,
Gió dàn trước mặt, sương phơi đầy đồng.
Một thân sương gió não nùng,
Bờ đê: nầy chỗ đưa chồng năm xưa.
Gió se tơ liễu bơ phờ,
Nàng còn đứng lại ngẩn ngơ nỗi mình.
Bỗng nhiên dĩ vãng hiện hình,

1280. Ngày xưa... ôi thuở thanh bình còn đâu!
Vườn hoa đua nở muôn màu,
Tử tiên, hồng phấn, tú cầu, đỗ quyên,
Cha thương mến, mẹ dịu hiền,
Bỏ con thơ dại cõi tiên vội về.
Vườn nhà chăm chút sớm khuya,
Mùa đào đỏ nụ, mùa lê trắng ngần.
Người nào đứng đó băn khoăn,
Duyên đâu chỉ Tấn tơ Tần lại se.
Cái đêm hôm ấy đêm gì?
1290. Chén đâu hợp cẩn, cung tỳ [275] lương duyên,
Nắng hồng đã tỏ gương sen,
Ðộng phòng sực nhớ mùi hương động phòng.
Song song đấy vợ đây chồng,
Say sưa đắp những đường vòng cánh tay.
Lời thề như thể hát hay,
Muốn đem tài sắc dựng ngay nhà vàng.
Ái ân thiếp thiếp chàng chàng,
Ðắm say đến nổi không màng công danh.
Nửa đêm vấn lại tóc xanh,

1300. Ðưa chồng đây chốn Trường đình là đây.
Người đi ngót một thu nay...
Ôi! Ngày xưa chỉ là ngày ngày xưa!
Bao giờ nói đến bây giờ,
Có như cả một bài thơ nảo nùng.
Nghĩ câu phận gái chữ tòng [276],
Ðầu tang [277] tóc rối tìm chồng phương xa.
Cũng liều đất khách xông pha,
Mai đây thân phận rồi ra thế nào.
Ngại ngùng bước thấp bước cao,

1310. Mắt xanh lệ ứa, má đào châu sa.
Ngổn ngang rừng khổ rừng già,
So le đường thẳng cùng là đường cong.
Xạc xào chợ vẫn bên song,
Tiều phu khói củi, mục đồng thân trâu.
Ðò ngang cắm lẻ bến sầu,
Chiều đông trời cũng ngả màu biệt ly.
Mái tranh khói nổ sắc chì,
Bộ hành đã tắt người đi sang cầu.
Chàng ơi! Chàng ở về đâu,

1320. Xa xôi có rõ tình nhau thế này.
Khi xưa đôi lứa sum vầy,
Bây giờ ra kẻ ăn mày ăn xin.
Ðây không gạo lẻ quan tiền,
Mà trong lòng cái ưu phiền chan chan.
Ví mà chàng đã cao sang,
Còn thương đến kẻ cơ hàn nay không?
Nhớ chăng tình nghĩa vợ chồng,
Nhớ chăng lời hẹn hoa phòng đêm xưa [278].
Mây đùn trời lập cơn mưa,

1330. Ngũ Nương tìm chốn ngủ nhờ qua đêm.
Năm canh gan héo ruột mềm,
Năm canh mưa rỏ nát thềm nhà ai.
Sáng sau chẳng quản đường dài,
Lại bơ vơ lại lạc loài lại đi.
Thấy đâu đình đám hội hè,
Rẽ vào đàn hát giở nghề kiếm ăn.
Trường An đâu phải đường gần,
Hồng nhan [279] còn phải phong trần [280] bao nhiêu.
Tha hương lội suối băng đèo,

1340. Người đi chỉ bóng cùng theo với người.
Tì bà ai oán vì ai,
Nước non lặn lội xa khơi tìm chồng.
Nắng mưa dầu dãi má hồng,
Ðắng cay chà xát tấm lòng xuân tơ.
Ðường trần khăn gói gió đưa,
Tiền rơi thiên hạ cơm thừa người ta.
Suối vàng mẹ mẹ cha cha,
Ngờ đâu thân phận con ra thế này.
Thành xiêu cờ đổ bóng gầy,

1350. Bên sông gấp gấp tiếng chày giặt sa [281].
Mưa bay đồi núi phai nhòa,
Tiếng chuông sơn tự [282] canh gà ải quan.
Ðôi vườn cúc nở mơ màng,
Hiu hiu dãi một sắc vàng buồn tênh.
Ngang đường quán rượu chênh vênh,
Long đong vó ngựa trôi nhanh xuống đồi.
Xóm làng rải rác nơi nơi,
Lụa người người dệt, con người người ru.
Thị thành cát bụi bay mù,

1350. Ngổn ngang một lũ công tù đào sông [283].
Dần dà đã hết mùa đông,
Cỏ cây e ấp giữa lòng lá non.
Xuân về khắp cả giang sơn,
Ðỏ hây cửa cũ, xanh rờn lầu xưa.
Ðón xuân thiên hạ nhởn nhơ,
Leo đu ngoài nội [284], đề thơ trong đình.
Xôn xao gái tốt trai lành,
Thương ôi! Tiều tụy một mình Ngũ Nương.
Hỏi thăm từng một độ đường,

1370. Bao lâu rồi chẳng đến Trường An cho.
Lem nhem mặt bụi mày tro,
Mắt thơ kém biếc má thơ nhạt đào.
Ðêm sương ngày nắng từ bao,
Ốm o thục nữ [285], xanh xao liễu bồ.
Gặp kỳ nguyên đán [286] bấy giờ,
Ngũ Nương rán sắm đủ đồ hương hoa.
Treo tranh lên một gốc đa,
Lại quay về hướng quê nhà phương đông:
“Có thương con trẻ long đong,

1380. Phù [287] cho gặp được mặt chồng nay mai.
Dù chàng ăn ở đơn sai [288],
Cũng xin chẳng dám nửa lời làm chi.
Hay hèn đành thói nữ nhi,
Lỡ ra thôi có tiếc gì thân con.
Cốt sao tình hiếu [289] vuông tròn,
Cốt sao giữ tấm lòng son vẹn toàn.
Giàu sang cũng thể nghèo nàn,
Chết đi cũng đến hai lần tay không!”
Tử phần [290] rỏ lệ ngùi trông,

1390. Ðường xa dặm thẳng cỏ bồng lại bay.
Lần hồi đàn hát đó đây,
Mùa xuân hết chín mươi ngày như chơi.
Nắng lên đã chói quê người,
Tiền sen [291] đã đúc xanh tươi mặt hồ.
Nghe đồn sắp đến kinh đô,
Ngũ Nương lòng những nửa lo nửa mừng,
Phần lo duyên phận nửa chừng,
Tay nâng chén muối đĩa gừng nhớ quên [292]?
Phần mừng mai mốt Trạng nguyên,

1400. Tha hương gặp gỡ vợ hiền thủy chung.
Bấy lâu cách mặt xa lòng,
Mẹ cha đã khuất mà chồng chẳng hay.
Chàng nên danh phận dường này,
Mồ hai thân đã mọc đầy cỏ xanh.
Biết bao công đức sinh thành,
Làm con phải nhớ lấy tình mẹ cha.

*
_________________

Chú thích

[272] Kể lể, tường trình trước khi ra đi.
[273] Nuôi nấng khi sống, chôn cất khi chết.
[274] Cha mẹ mình và cha mẹ chồng.
[275] Cung đàn tỳ bà.
[276] Tam tòng: Ba chữ tòng. Tại gia tòng phụ: còn ở nhà thì tùng phục cha; xuất giá tòng phu: lấy chồng thì tùng phục chồng; phu tử tòng tử: chồng qua đời thì tùng phục con.
[277] Ðầu quấn khăn tang.
[278] Ðêm động phòng hoa chúc.
[2798] Má hồng - con gái đẹp
[280] Gió bụi.
[281] Lụa mỏng.
[282] Chùa trên núi.
[283] Lấy ý từ thành ngữ công tù nước sông: công của người tù, nước múc dưới sông; ý nói chẳng hao tiền tốn của.
[284] Nơi đồng nội.
[285] Người con gái dịu dàng và đoan chính.
[286] Ngày đầu năm.
[287] Phù hộ.
[288] Ðiêu bạc, giả trá.
[289] Tình vợ chồng và lòng hiếu thảo.
[290] Cây thị và cây phần, hai cây ngày xưa người Tàu hay trồng chung quanh nhà. Ý chỉ nơi quê hương bản quán, có cha mẹ mình đang ở.
[291] Lá sen có hình đồng tiền.
[292] Lấy ý từ ca dao: Tay nâng dĩa muối chấm gừng, gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau.

_________________________
Tỳ bà truyện - Nguyễn Bính - Page 2 Signat21
Về Đầu Trang Go down
https://www.daovien.net
Y Nhi
Admin
Y Nhi

Tổng số bài gửi : 3173
Registration date : 22/11/2007

Tỳ bà truyện - Nguyễn Bính - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Câu 1397-1550   Tỳ bà truyện - Nguyễn Bính - Page 2 I_icon13Sun 25 Jul 2010, 04:42

*

Trống chiêng rộn rã nẻo xa,
Dường như ở đó người ta hội chùa.
Ngũ Nương thân thể mỏi rừ,

1410. Lòng suông [293] từ sáng đến giờ chưa ăn.
Tìm đường cố gắng dừng chân,
Rẽ vào đàn hát qua lần lấy no.
Ðến nơi quả thực hội chùa,
Thiện nam tín nữ [294] đông như kiến đàn,
Ngũ Nương cất nhẹ tiếng vàng,
Dạo lên một khúc đoạn tràng [295] quen tay.
Tiếng đàn đậm nhạt mây bay,
Nhặt thưa gió quyện vơi đầy triều âm [296].
Bỗng không vò võ cung Hằng [297],

1420. Bỗng không nổi sóng đất bằng cung Ngô [298].
Bỗng không cát trắng đất Hồ [299],
Bỗng không nước đục đôi bờ sông Ngân [300].
Như xa thôi lại như gần,
Cao dần lại thấp, thấp dần lại cao.
Hát rằng: “Chín chữ cù lao [301],
Làm con phải trả thế nào hỡi ai!
Con nuôi cha mẹ kể ngày [302],
Mà công cha mẹ xem tày bể non [303].
Thiếp tôi mười sáu tuổi son,

1430. Vợ chồng sum hợp mới tròn hai trăng.
Chồng tôi ứng thí Tràng An,
Sớm trông chiều ngóng đã tàn thu đông.
Phận nuôi cha mẹ thay chồng,
Dám đâu quì hoắc [304] trái lòng hôm mai.
Ðỗ xanh mọc kín bãi rồi,
Một năm đằng đẵng chồng tôi không về.
Một mình cấy mướn may thuê,
Gặp năm kém đói giữa khi thanh bần.
Lấy gì phụng dưỡng hai thân,

1440. Mẹ cha lại bỏ cõi trần mà đi.
Ðau lòng tử biệt sinh ly,
Mồ công [305] cố đắp quản gì một thân.
Một tờ tranh, một cây đàn,
Ði hành khất tới Tràng An tìm chồng.
Biết rằng có gặp nhau không,
Biết rằng gặp có một lòng như xưa.
Thôi thì thân gái hạt mưa [306],
Vũng lầy giếng ngọt cũng chờ người ta.
Nửa năm bỏ cửa bỏ nhà,

1450. Nằm gai nếm mật đường xa dặm dài.
Lòng này than thở cùng ai,
Chàng ơi! Sao chẳng đoái hoài quê hương?
Hay gì lưu lại bốn phương,
Nhớ câu ‘phụ mẫu tại đường’ [307] hay quên?
Hay là bầu rượu nắm nem,
Mảng vui quên hết lời em dặn dò.
Dù chàng phú quí kinh đô,
Mà hai thân đã yên mồ từ lâu.
Vậy thì chín chữ cù lao,

1460. Chàng ơi! Trả đến kiếp nào cho xong?”
Tay run giọng yếu não nùng,
Người nghe ai cũng chạnh lòng rơi châu.
Còn đương giọng ướt tỏ sầu,
Tiếng cờ rộn rã từ đâu tiến vào.
Mọi người nhớn nhác xôn xao,
Dạt ra nhường lối võng đào [308] kiệu hoa [309].
Vợ chồng quan Trạng tân khoa,
Hiệu còi dọn bước, tiếng loa dẹp đường.
Ngũ Nương đứng nép bên đường,

1470. Trông lên thật đã rõ ràng, than ôi!
Xa nhau mới một năm trời,
Người ngồi trên kiệu phải người đâu xa.
Người ngồi trên kiệu trông ra,
Giật mình nhận thấy để mà quay đi.
Võng sau vây kín nữ tì,
San hô cẩn bánh, lưu li buông mành.
Ngũ Nương ngờ cả mắt mình,
Hỏi người bên cạnh xem hình thực hư.
Người rằng: “Con rể Thái sư,

1480. Vợ chồng ý hẳn vào chùa hành hương [310].”
Nàng rằng: “Tôi kẻ viễn phương,
Xin cho được biết tỏ tường họ tên.”
Người rằng: “Ðệ nhất uy quyền,
Ông này vừa đỗ Trạng nguyên năm rồi.
Chính tên là Thái Bá Giai,
Rể quan Thừa tướng ai mà không hay!”
Ngũ Nương nghe hết lời này,
Ruột gan thắt quặn, mặt mày tối tăm.
Thôi thôi thôi chẳng còn nhầm,

1490. Ðứng đây nào có phải nằm chiêm bao?
Bây giờ chức trọng quyền cao,
Vợ, con Thừa tướng, ai nào nhớ ai?
Hỡi ơi! Ðược cá quên chài,
Ðược cây quên búa, được người quên ta.
Ðược rày quên mẹ quên cha,
Ðến như phụ mẫu nữa là phu thê.
Khi xưa nói nói thề thề,
Bây giờ bẻ khóa trao chìa cho ai.
Duyên mình đến thế thì thôi,

1500. Cam thân nghèo khổ mặc người giàu sang.
Nhất tâm [311] bỏ nghĩa quên vàng,
Công hầu [312] khanh tướng [313] cũng bằng vứt đi.
Ðã lầm một chữ vu qui,
Thân này thôi dám hận gì đến ai!
Uổng đời quần vải thoa gai [314],
Qua đường hờ hửng con người ăn xin.
Nàng bèn cắn ngón tay tiên,
Giở tranh cha mẹ viết lên vài giòng:
“Tôi là Ngũ Nương họ Triệu,

1510. Quê ở quận Trần Lưu,
Vợ chồng hai tháng mới cùng nhau,
Nam Bắc đôi nơi đà [315] cách rẽ,
Phận là gái vì chồng nuôi bố mẹ,
Nhà thì nghèo nhiều nỗi đáng thương tâm.
Khi dưỡng sinh ăn cám để nhường cơm,
Lúc tống tử lo ma mà cắt tóc.
Lòng thiếu phụ tơ vò chín khúc,
Mồ công cố tay đắp hai ngôi.
Khúc Tì bà ai oán vì ai,

1520. Nước non lặn lội xa khơi tìm chồng.”
Nàng tìm đến chốn trai phòng [316],
Ðưa tranh quì lạy sư ông mấy lời:
“Từ bi người hãy vì tôi,
Dâng tranh này tới mặt người Trạng nguyên.
Dù ngài có hỏi căn duyên [317],
Xin ngài đừng có nói thêm lời nào.”
Trường An xe ngựa xôn xao,
Phơi đầy gấm vóc chất cao bạc vàng.
Vui rực rỡ, sướng huy hoàng,

1530. Cái giàu vô tận, cái sang vô cùng.
Bỏ quên đây cái thủy chung,
Bỏ quên đây một tấm lòng bơ vơ.
Nàng đi trong bóng chiều mờ,
Nàng đi trong tiếng chuông chùa ngân nga.
Nàng đi với chiếc Tì bà,
Nước non thôi hết ai là tri âm [318].
Nàng đi từng bước âm thầm,
Ðầu xanh tóc ngắn, áo chàm màu tang.
Nàng đi hạc nội mây ngàn [319],

1540. Bóng đêm vùi lấp bóng nàng rồi thôi.
Chập chờn ánh lửa ma trơi,
Từ nay thực có một người bị quên.
Sang sông trót lỡ chuyến thuyền,
Tiếng Tì bà có nổi lên lần nào!
Hay là huyền tuyệt diệu cao [320],
Nghìn thu chẳng để lọt vào giai nhân.

*

Từ khi lạc với cây đàn,
1550. Chẳng còn ai thấy bóng nàng Ngũ Nương.

* *
*

Chú thích

[293] Trống không.
[294] Nam giới và nữ giới tin Phật.
[295] Khúc ca buồn thảm nghe như đứt ruột.
[296] Tiếng sóng vỗ.
[297] Cung điện của nàng Hằng Nga.
[298] Cung điện của Ngô Vương Phù Sai.
[299] Nơi sa mạc phía bắc nước Tàu, lấy ý từ sự tích Chiêu Quân cống Hồ.
[300] Ngân Hà. Lấy ý từ sự tích Ngưu Lang Chức Nữ.
[301] Cù: siêng năng nhọc nhắn; Lao: khó nhọc. Cha mẹ siêng năng khó nhọc để nuôi dưỡng con. Chín chữ cù lao là chín điều khó nhọc. Sinh: sinh đẻ; Cúc: nâng đỡ; Phủ: vuốt ve; Xúc: cho bú; Trưởng: làm cho lớn; Dục: dạy dỗ; Cố: đoái tưởng đến; Phục: săn sóc dạy bảo; Phúc: bảo vệ.
[302] Tính toán, kể lể từng ngày.
[303] Biển và núi non.
[304] Cây quì và cây hoắc, cả hai cây đều xoay theo mặt trời. Ý nói sự khiêm nhượng, hạ mình của người dưới đối với người trên.
[305] Công phu, công lao.
[306] Lấy ý từ câu ca dao: Phận gái như hạt mưa sa giữa trời.
[307] Lấy câu trong sách Luận ngữ: Phụ mẫu tại đường bất khả viễn du, nghĩa là: cha mẹ còn sống ở nhà thì con không nên đi xa.
[308] Võng điều. Võng màu đỏ, của quan lớn.
[309] Kiệu có gắn hoa, của vợ hoặc con của quan lớn.
[310] Cúng chùa. Tới chùa đốt hương lạy Phật.
[311] Một lòng, dứt khoát.
[312] Tước công và tước hầu. Hai tước to nhất trong năm tước: Công, hầu, bá, tử, nam.
[313] Khanh và tướng, tiếng gọi chung các quan văn võ trong triều đình ngày xưa.
[314] Trâm cài tóc làm bằng cây gai nhọn.
[315] Ðã, nói ríu hoặc nói cho xuôi giọng.
[316] Nhà trai, gian nhà dùng làm phòng ăn ở chùa.
[317] Gốc tích sâu xa do một việc làm từ lâu (hoặc từ kiếp trước).
[318] Kẻ hiểu rõ lòng dạ của ta. Lấy tích từ Chung Kỳ nghe hiểu tiếng đàn của Bá Nha.
[319] Do câu “Dã hạc vân sơn”, nghĩa là con hạc ngoài đồng, đám mây trên núi. Ý nói rày đây mai đó, không chắc ở nơi nào.
[320] Tiếng đàn tuyệt vời, sâu xa và huyền diệu.

_________________________
Tỳ bà truyện - Nguyễn Bính - Page 2 Signat21
Về Đầu Trang Go down
https://www.daovien.net
Y Nhi
Admin
Y Nhi

Tổng số bài gửi : 3173
Registration date : 22/11/2007

Tỳ bà truyện - Nguyễn Bính - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tỳ bà truyện - Nguyễn Bính   Tỳ bà truyện - Nguyễn Bính - Page 2 I_icon13Sun 25 Jul 2010, 04:42

Sách tham khảo
(Liệt kê và cảm tạ)
Bửu Kế, Tầm Nguyên Từ Ðiển, NXB Nhà sách Khai Trí, Sàigòn, 1968.
Ðào Duy Anh, Hán Việt Từ Ðiển, NXB Trường Thi, 1957
Ðào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, bản sao chụp và in lại ở hải ngoại, không ghi nhà xuất bản.
Hoàng Xuân tuyển chọn, Nguyễn Bính thơ và đời, NXB Văn Học Hà Nội, 1998.
Lê Văn Ðức - Lê Ngọc Trụ, Việt Nam Tự Ðiển, NXB Nhà sách Khai Trí, Saigòn, 1970.
Nguyễn Hiến Lê, Ðại Cương Văn Học Sử Trung Quốc, NXB Trẻ, 1997.
Nguyễn Quảng Tuân - Nguyễn Khắc Thuần, Từ điển Truyện Lục Vân Tiên, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1989.
Nguyễn Tấn Long, Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến, Toàn Tập, NXB Văn Học, Hà Nội, 2000.
Nguyễn Tôn Nhan, Từ Ðiển Văn Học Cổ Ðiển Trung Quốc, NXB Văn Nghệ Thành Phố Hồ Chí Minh, 1999.
Phạm Thế Ngũ, Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên (3 tập), NXB Ðồng Tháp, 1996.
Trịnh Vân Thanh, Thành Ngữ Ðiển Tích Danh Nhân Từ-Ðiển, NXB Xuân Thu, Sàigòn, 1966.
Viện Ngôn Ngữ Học, Từ Ðiển Tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên, NXB Ðà Nẵng, 2000.
Vũ Quốc Ái - Quang Huy - Ðỗ Ðình Thọ - Kim Ngọc Diệu sưu tầm và tuyển chọn, Nguyễn Bính Tuyển tập, NXB Văn Học & NXB Long An, 1986.

Nguyễn Ước nhuận sắc và chú thích

_________________________
Tỳ bà truyện - Nguyễn Bính - Page 2 Signat21
Về Đầu Trang Go down
https://www.daovien.net
Sponsored content




Tỳ bà truyện - Nguyễn Bính - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tỳ bà truyện - Nguyễn Bính   Tỳ bà truyện - Nguyễn Bính - Page 2 I_icon13

Về Đầu Trang Go down
 
Tỳ bà truyện - Nguyễn Bính
Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Similar topics
-
» Truyện ma nguyễn ngọc ngạn - Bùa yêu
» Truyện Kiều - Nguyễn Du
» Lĩnh Nam Chích Quái
» Truyện cười Nguyễn Ngọc Ngạn
» Truyện ngắn -Nguyên Nhung
Trang 2 trong tổng số 2 trangChuyển đến trang : Previous  1, 2

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
daovien.net :: VƯỜN THƠ :: THƠ SƯU TẦM :: Thơ Cận Đại-