Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesVietUniĐăng kýĐăng Nhập
Bài viết mới
Chết rồi! by Phương Nguyên Today at 17:43

Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Today at 13:41

Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Today at 13:33

EM CHIM HÁT HAY QUÁ by mytutru Today at 10:50

Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 20:06

Nguyễn Thái Học 1902- 1930 (Nhượng Tống) by Ai Hoa Yesterday at 10:25

Cột đồng chưa xanh (2) by Ai Hoa Yesterday at 10:08

Một thoáng mây bay 13 by Ai Hoa Yesterday at 07:34

Quán Tạp Kỹ - Đồng Bằng Nam Bộ by Thiên Hùng Tue 14 May 2024, 13:15

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN by Trà Mi Tue 14 May 2024, 09:55

4 chữ by Tinh Hoa Mon 13 May 2024, 20:23

MÂY NGŨ SẮC 13.05.2024 by mytutru Mon 13 May 2024, 15:05

Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Mon 13 May 2024, 06:14

CÁC LOÀI CHIM ĐẸP by mytutru Sun 12 May 2024, 10:51

ĐÔI BÀN TAY NGHỆ NHÂN by mytutru Sun 12 May 2024, 00:04

Lục bát by Tinh Hoa Sat 11 May 2024, 14:33

QUY NHƠN TÔI YÊU by phambachieu Fri 10 May 2024, 16:51

Mái Nhà Chung by mytutru Thu 09 May 2024, 23:18

Lời muốn nói by Tú_Yên tv Thu 09 May 2024, 12:37

LỀU THƠ NHẠC by Thiên Hùng Sun 05 May 2024, 11:06

Tranh Thơ Viễn Phương by Viễn Phương Fri 03 May 2024, 19:13

Người Em Gái Da Vàng by Viễn Phương Fri 03 May 2024, 06:36

Những Đoá Từ Tâm by Việt Đường Wed 01 May 2024, 21:49

7 chữ by Tinh Hoa Tue 30 Apr 2024, 10:59

5 chữ by Tinh Hoa Sun 28 Apr 2024, 22:27

Thi tập "Chỉ là...Tình thơ" by Tú_Yên tv Thu 25 Apr 2024, 12:56

Trụ vững duyên thầy by Trà Mi Tue 23 Apr 2024, 07:34

THIỀN TUỆ (diệt trừ đau khổ) by mytutru Tue 23 Apr 2024, 00:07

Nhận dạng phụ nữ giàu có by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 08:36

Bức tranh gia đình by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 08:09

Tự điển
* Tự Điển Hồ Ngọc Đức



* Tự Điển Hán Việt
Hán Việt
Thư viện nhạc phổ
Tân nhạc ♫
Nghe Nhạc
Cải lương, Hài kịch
Truyện Audio
Âm Dương Lịch
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
Đăng Nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập: 
:: Quên mật khẩu

Share | 
 

 Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Chuyển đến trang : Previous  1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8  Next
Tác giảThông điệp
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7115
Registration date : 01/04/2011

55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng   55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 I_icon13Thu 02 Sep 2021, 12:01

TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG

Thuỵ Khuê

Đỗ Tốn và Đỗ Đình Đạo

Tên tuổi Đỗ Tốn, gắn liền với Hoa vông vang, một tác phẩm mà những người trưởng thành khoảng giữa thế kỷ XX, không mấy ai là không biết, không đọc. Nhưng chúng ta lại có rất ít tài liệu về Đỗ Tốn. Nhờ Bạch Thái Quốc[1], tôi có được một số thông tin về Đỗ Tốn và mối thâm giao giữa hai gia đình Nguyễn Tường và Đỗ Đình. Bạch Thái Quốc thường kể với tôi về Đỗ Tốn, người cậu ruột hào hoa, sống phiêu bồng như một lãng tử, thần tượng của mấy đứa cháu nhỏ.

Đỗ Tốn, Đỗ Đình Đạo có mối liên hệ chặt chẽ với gia đình Nhất Linh.

Đỗ Tốn (1921-1973) tên thật là Đỗ Đình Tốn, con ông Đỗ Đình Thông. Đỗ Đình Đạo, con ông Đỗ Đình Tiến, em ruột ông Thông. Hai người là anh em con chú con bác. Họa sĩ Tạ Tỵ tưởng họ là hai anh em ruột[2].

Gia đình họ Đỗ nổi tiếng giầu sang, phú quý: Đỗ Đình Tốn và Đỗ Đình Đạo là cháu nội quan Đô thống Đỗ Đình Thuật.

Bà Đỗ Đình Thông, mẹ Đỗ Tốn và bà Nguyễn Tường Nhu, mẹ Nhất Linh, rất thân nhau. Bà Thông đã giúp đỡ bà Nhu trong thời kỳ hoạn nạn, chồng mất ở tuổi 37 tuổi, một mình xoay sở nuôi mẹ chồng và bẩy người con.

Đỗ Đình Đạo (17/7/1911-29/7/1954) cũng là một thần tượng của tuổi thanh niên thời ấy, Nhất Linh đã dùng hình ảnh ông để vẽ chân dung Dũng trong Đoạn tuyệtĐôi bạn: đẹp trai, tài hoa, đàn giỏi, yêu nước, nguyên Tư Lệnh Đệ Tam chiến khu Vĩnh Yên của Quốc Dân Đảng, làm cách mạng cùng với Nhất Linh ngay từ những ngày đầu. Đồn điền của gia đình họ Đỗ ở Vĩnh Yên, không những đã là nền cho nhiều tiểu thuyết của Khái Hưng, Nhất Linh, mà còn là chỗ hội họp và ẩn náu, ban đầu của tổ chức cách mạng Đại Việt Dân Chính, sau trở thành Việt Nam Quốc Dân Đảng.

Tạ Tỵ viết: “Đỗ Tốn cho tôi biết trong những vụ hè họ thường hội họp và hoạt động ở đồn điền của gia đình họ Đỗ, ngụy trang bằng những cuộc đi săn ở Bắc Giang“[3].

Khi Đại Việt Dân Chính bị Pháp khủng bố những năm 1940-1941, Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí và Khái Hưng lần lượt bị bắt, giam ở Vụ Bản, Hoà Bình.

Đỗ Tốn trốn được sang Tầu, ở chung với thủ lãnh Nguyễn Tường Tam và các đồng chí trong ba năm (1942-1945) tại Quảng Châu.

Trong thời gian này ông viết Hoa vông vang. Phải chăng vì Đỗ Tốn gặp người vợ tương lai là Nguyễn Thị Như Băng (16/8/1925-19/6/2017)? Và Hoa vông vang phản ảnh mối tình thơ mộng đó?

Như Băng sinh tại Lạng Sơn, sang Trung Hoa từ năm 14 tuổi; sau học trường quân sự về ngành vô tuyến điện; hoạt động trong Quốc Dân Đảng và là đồng chí của Đỗ Tốn. Họ kết hôn năm 1945.

Năm 1945, Đỗ Tốn trở về nước.

Về Hà Nội, ông hoạt động và viết báo với Khái Hưng, Hoàng Đạo và Nguyễn Tường Bách.

Đỗ Tốn viết truyện ngắn Ả Hầu, đăng trên báo Việt Nam số 64, số Tết (30-1-46), kể lại chuyện ba năm, cùng các đồng chí và đảng trưởng sống trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, đói khát, trốn tránh, nhờ người phụ nữ tên Ả Hầu, là “bà ở” tình nguyện không công, nhịn ăn, nuôi các “ông chủ” trẻ làm cách mạng. Ả Hầu là một tác phẩm giá trị, đầy tính nhân bản lại có nhiều thông tin. Chúng tôi sẽ trở lại với Ả Hầu, khi viết về thời điểm Nhất Linh, Đỗ Tốn ở bên Tầu.

Tạ Tỵ kể lại: “Tôi biết Đỗ Tốn từ ngày ở Hà Nội. Anh là con một điền chủ có trang trại rất lớn ở miền trung du Bắc Việt. (…) Đỗ Tốn có gương mặt trí thức với bộ râu quai nón lúc nào cũng mọc lởm chởm chạy vòng theo khuôn mặt trông rất nghệ sĩ. Vóng dáng tầm thước mảnh mai, ăn nói dịu dàng mực thước, luôn luôn kéo theo nụ cười, nửa thân mật, nửa kiêu bạc. Vốn con nhà giầu nên anh tiêu xài rất sang. Khi nào gặp, anh lôi vào quán rượu Taverne Royale ở góc phố Tràng Tiền uống bất kể giá đắt rẻ. Anh thường cưỡi chiếc xe mô tô, coi có vẻ thể tháo gia, nhưng tình thực lúc đó, tuy mới trên dưới 30, anh đã nghiện.”[4]

Sau 1954, Tạ Tỵ gặp lại Đỗ Tốn ở Phòng Báo Chí Quân Đội (Quốc Gia Việt Nam) mới thành lập. Đỗ Tốn từ Bảo Chính Đoàn (thuộc Đại Việt Quốc Dân Đảng) được chuyển sang:

Phòng báo chí mới thâu nhận thêm một trung úy từ Bảo Chính Đoàn chuyển qua. Đó là nhà văn Đỗ Tốn, tác giả Hoa vông vang (…) Trong những tháng đầu, Đỗ Tốn làm việc bình thường như mọi sĩ quan khác, nhưng những khi rảnh rỗi, anh thường nói chuyện thì thầm với Lê Đình Thạch [Trưởng Phòng Báo Chí] về vấn đề đánh bạc làm sao cho khỏi thua. Đỗ Tốn, ngoài vấn đề nghiện hút, (cả Phòng chưa ai biết, ngoài tôi, nhưng tôi không nói) còn mê đánh bạc, cái mê này cũng không thua gì mê thuốc phiện“[5]. Bạch Thái Quốc cũng xác nhận như thế. Có lẽ đó là những lý do khiến sau này Đỗ Tốn không viết thêm được gì nữa.

Khi Nhất Linh tự vận ngày 7-7-63, Đỗ Tốn là một trong những đồng chí cuối cùng đến viếng thi hài người lãnh đạo.

Đỗ Tốn chết trong hoàn cảnh cực kỳ cô đơn, tăm tối, năm 1973, khi đang làm Phó Quản Đốc đài Tiếng Nói Quân Đội với cấp bậc Thiếu Tá.

Đỗ Đình Đạo, sau thời gian lưu vong ở Quảng Châu và Hương Cảng cùng với Nhất Linh, ông trở về nước, trong nhóm Quốc Dân Đảng cộng tác với chính phủ Bảo Đại.

Sau 1954, ông ở lại miền Bắc, tiếp tục hoạt động, và bị đầu độc chết ngày 29-7-1954. Các báo thời đó, đổ cho Thụy An giết người tình. Người ta dùng thoại này để đánh Thụy An, trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Cả Hoàng Văn Đào trong cuốn Việt Nam Quốc Dân Đảng cũng kết tội bà. Nhưng cái chết này có lẽ liên quan tới hoạt động chính trị của Đỗ Đình Đạo: ông là Tư lệnh Đệ Tam Chiến Khu Quốc Dân Đảng, cầm quân đánh nhau với Việt Minh trong thời kỳ hai đảng nội chiến 1945-1946. Sau đó, ông trốn sang Tàu rồi trở về nước năm 1950, làm Giám Đốc Quân Thứ Lưu Động của Quốc Dân Đảng. Theo Hoàng Văn Đào:

Đỗ Đình Đạo mưu củng cố lực lượng võ trang Đoàn Quân Thứ Lưu Động, và liên lạc kết hợp với các bộ phận quân sự Địa phương quân, với mục đích chiếm một chiến khu, rồi mở một mặt trận lưu động, tổ chức một cuộc hành quân bằng đường bộ, kéo cờ VNQDĐ tiến sâu vào khu vực CS qua Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa thẳng tới Trung Việt[6]

Hoàng Văn Đào cho rằng: “Thụy An phản bội, tiếp tay với thực dân Pháp và CS đầu độc Đỗ Đình Đạo”[7]. Nhưng đây cũng chỉ là những giả định, vô bằng cớ.

Dù sao chăng nữa, vì hoạt động chính trị và quân sự của ông, cái chết của Đỗ Đình Đạo gần như đã được định trước. Và có lẽ ta sẽ không bao giờ biết rõ sự thực bởi vì những người liên hệ đến việc này đều đã qua đời[8].

Nhắc lại Đỗ Đình Đạo, là để nhớ lại hình ảnh một người làm cách mạng, đối lập với Việt Minh mà chân dung dường như đã được Nhất Linh tiểu thuyết hoá.

Khi trốn sang Tầu, Nguyễn Tường Tam đổi tên là Nguyễn Tường Dũng[9]. Ông lấy lại tên Dũng, nhân vật trong các tiểu thuyết Thế rồi một buổi chiều, Đoạn TuyệtĐôi Bạn ngày trước.

Nguyễn Ngu Í hỏi: Dũng có thật không? Nhất Linh trả lời: “Tôi “tạo” Dũng sau khi đọc một tin toà án: một nhà cách mạng bi xử đày Côn Đảo“[10].

Trong một dịp nói chuyện, tôi hỏi Nguyễn Tường Thiết: anh nghĩ nhân vật Dũng của Nhất Linh là ai? Anh Thiết trả lời: Tôi cho Dũng là sự tổng hợp ba người: Nhất Linh, Khái Hưng và Đỗ Đình Đạo. Nhận xét của Nguyễn Tường Thiết rất sâu sắc, cho thấy sự ràng buộc sâu xa giữa ba nhà cách mạng: Nhất Linh, Khái Hưng và Đỗ Đình Đạo. Hơn thế nữa, những nhân vật này đã pha trộn cuộc đời, cách mạng và tiểu thuyết trong tác phẩm duy nhất là chính đời họ.

Đỗ Tốn, thành viên thứ tám của Tự Lực Văn Đoàn?

Trong bài trước, tôi đã nói về trường hợp tồn nghi của Xuân Diệu, bởi vì bản Thơ Thơ đầu tiên do Đời Nay in năm 1938, do Thư viện Quốc gia Pháp (BNF) lưu trữ, không có những chữ Trong Tự Lực Văn Đoàn. Ở đây ta bàn về trường hợp Đỗ Tốn.

Năm 1942, Đỗ Tốn dường như đã được Nhất Linh tuyển chọn vào Tự Lực Văn Đoàn với tập truyện ngắn Hoa Vông Vang, do chính Nhất Linh viết tựa, đoạn kết có câu:

Xem những truyện trong tập “Hoa vông vang” tôi không thể không đem Đỗ Tốn ra so sánh với một nhà viết truyện ngắn khác: Thạch Lam. Tôi thấy hai nhà văn này có nhiều chỗ giống nhau và tôi tin Đỗ Tốn sẽ là một Thạch Lam thứ hai trong văn giới nước ta”.

Nhất Linh, Quảng Châu tháng 12 năm 1942.

Nhận xét của Nhất Linh về văn chương Đỗ Tốn rất tinh tường. Vậy ta có thể kết luận rằng năm 1942, tại Quảng Châu, Đỗ Tốn, 21 tuổi, đã viết tập truyện ngắn Hoa vông vang, Nhất Linh đọc thấy hay, gợi nhớ đến bút pháp Thạch Lam, người em mới mất (ngày 27-6-1942), nên ông đã kết nạp Đỗ Tốn vào Tự Lực Văn Đoàn.

Đỗ Tốn cho biết: Hoa vông vang được Đời Nay xuất bản lần đầu năm 1945[11]. Trên báo Ngày Nay Kỷ nguyên mới, số 2, ra ngày 12/5/45, có in quảng cáo: Đời Nay đã xuất bản: Hoa vông vang của Đỗ Tốn. Hoa niên của Tế Hanh và Cô bé đuôi cá, Hoàng Đạo dịch. Nhà xuất bản Đời Nay lúc đó do Khái Hưng và Hoàng Đạo trông nom.

Chúng tôi tìm được bản Hoa vông vang do Đời Nay in năm 1945, trong Thư viện Quốc gia Pháp (BNF) không có những chữ Trong Tự Lực Văn Đoàn, giống như cuốn Thơ Thơ của Xuân Diệu:


55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Tlvd6710


Chúng tôi cũng lại có hai bản Hoa vông vang dưới đây, mua tại Hoa Kỳ, không đề năm, chụp lại bản Đời Nay và bản Phượng Giang, in ở Sài Gòn:


55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Tlvd6810

Bià Hoa Vông Vang của Đời Nay và của Phượng Giang


Trên bìa bản Đời Nay, Sài Gòn, dưới tên Đỗ Tốn có ghi năm chữ: Trong Tự Lực Văn Đoàn, nhưng trên bìa bản Phượng Giang, Sài Gòn, năm chữ này đã biến mất.

Vậy ta phải hiểu như thế nào?

Nguyễn Thạch Kiên, nhà văn, thành viên Quốc Dân Đảng viết về việc Nhất Linh tái bản Hoa vông vang ở Sài Gòn như sau:

Làm báo, viết văn, tôi cần nhiều tài liệu. Một người anh em, biết tính tôi cẩn thận và yêu sách báo, bèn giao cho tôi quản lý tất cả những số báo Chính Nghĩa và Việt Nam, cơ quan tranh đấu của VNQĐD do Khái Hưng chủ biên trong thời gian 1945-1946.

Một thời gian sau, nghe tin tôi còn giữ được một số sách báo của Tự Lực Văn Đoàn; nhà văn Đỗ Tốn đã đích thân tới tìm gặp và xin tôi tập truyện “Hoa vông vang” của anh (Xin những hai cuốn) để giao cho ông Nhất Linh tái bản.

Vài hôm sau, Đỗ Tốn lại tìm tôi để hỏi xin tờ báo Việt Nam số Xuân Bính Tuất [1946], trong đó có đăng bài của anh, một truyện ngắn nhan đề “Ả Hầu”.

Tôi vui lòng tặng cho Đỗ Tốn tờ báo này và khuyên Đỗ Tốn nên dùng truyện ngắn Ả Hầu để viết đầy đủ về cô gái Trung hoa ấy; tiếp nối những ngày cô còn kẹt lại, sống tại Liễu Châu sau khi các anh em cách mạng Việt Nam về nước, năm 1945-1946.

Đỗ Tốn cho là phải và đã viết thành truyện dài nhan đề “Người thiếu nữ kỳ dị”, được in thành sách vào cuối thập niên 60.”
[12]

Theo những lời trên đây của Nguyễn Thạch Kiên thì chính Đỗ Tốn đã xin ông bản Hoa vông vang do Đời Nay in năm 1945, để đưa cho Nhất Linh tái bản. Và trong danh sách của Đời Nay, Sài Gòn (in trên bìa sách Viết và đọc tiểu thuyết của Nhất Linh, năm 1961) cũng thấy có ghi cuốn Người thiếu nữ kỳ dị của Đỗ Tốn.

Khi về Hà Nội rồi vào Sài Gòn, năm 1951 Nhất Linh mở nhà xuất bản, giữ cả tên Đời Nay lẫn Phượng Giang. Nên có lẽ khi in lại tập Hoa vông vang lần đầu, dưới tên nhà xuất bản Đời Nay, Nhất Linh đã để những chữ Trong Tự Lực Văn Đoàn, vì ông nhớ theo ký ức là ông đã đưa hay đã đề nghị đưa Đỗ Tốn vào Tự Lực Văn Đoàn. Nhưng khi tái bản Hoa vông vang, dưới tên nhà xuất bản Phượng Giang, Nhất Linh lại bỏ những nhữ Trong Tự Lực Văn Đoàn đi, chắc với sự đồng ý của Đỗ Tốn. Tại sao? Tôi tạm đưa ra giả thuyết: Có thể vì Đỗ Tốn không viết thêm tác phẩm nào có tầm cỡ, để xứng đáng ở trong Tự Lực Văn Đoàn nữa, hay vì một lý do gì khác, cho nên năm chữ Trong Tự Lực Văn Đoàn đã bị Nhất Linh và Đỗ Tốn đồng ý bỏ đi.

Tóm lại, ta có thể hiểu rằng: năm 1942, Nhất Linh “hứa” kết nạp Đỗ Tốn vào Tự Lực Văn Đoàn, nhưng Hoa vông vang do nhà Đời Nay in năm 1945, không ghi Đỗ Tốn là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn. Trường hợp Xuân Diệu cũng vậy, Nhất Linh “hứa” cho Xuân Diệu vào Tự Lực Văn Đoàn, nhưng khi Đời Nay in Thơ Thơ, cũng không thấy ghi Xuân Diệu có trong Tự Lực Văn Đoàn.

Tuy nhiên, Nhất Linh đã không lầm: Xuân Diệu và Đỗ Tốn là nhà thơ, nhà văn có tài.

Đỗ Tốn là trường hợp đặc biệt: người của một tác phẩm. Chân giá trị của Hoa vông vang là nói ra những điều không thể nói. Người đọc tác phẩm này, ở tuổi 20 hay 70, dù ở thời nào cũng đều thấy một chút mình trong đó. Đó là tính cách cổ điển của một tác phẩm; vừa ra đời đã vượt thời gian để trở thành cổ điển cho nhiều đời sau.

Ngày nay, người ta yêu bạo hơn; về tình ái, người ta nói phắt hoặc làm lẹ những gì “phải làm”, văn chương về tình yêu cũng vậy, trắng trợn, đôi khi đến độ lõa lồ. Nhưng tôi chắc vẫn có, vẫn còn những đóa vông vang đâu đó, là những rung động ban đầu của con người khi mới lớn, không thể nào mất được khi con người còn đó, nhưng không mấy ai viết, bởi vì rất khó đó thôi. Còn những sấn sổ xông vào là giai đoạn thoái trào của tình yêu để thoả mãn dục vọng.

Đỗ Tốn mô tả giai đoạn yêu đầu của cái anh chàng ngày nào cũng đến trường “đứng đợi nàng về để lẳng lặng đi theo sau“. Khi đến nhà, nàng quay lại đóng cổng rồi đưa mắt lên nhìn trộm, thì sung sướng “đến run cả người”, “đến chết mất“. Hôm nào được đôi mắt đen lánh của nàng nhìn lại thì hát nghêu ngao rầm cả nhà! Nàng đi lễ nhà thờ thì sáng chủ nhật nào cũng dậy sớm đi lễ! Có khi đứng nói chuyện với bờ thang, ông chú bắt gặp bảo: “Đứng cười một mình thế thì chó nó cũng biết”.

Đỗ Tốn là như thế, là viết những điều chưa ai viết, những điều ta đã trải qua, mà không mấy ai viết được: “yên lặng xem những ngón tay chị cong cong nhanh nhẹn đưa kim: tôi trông rõ trên những đốt cuối cùng có những sợi lông tơ mọc lưa thưa trên da trắng muốt, từ thân thể chị tỏa ra một hương thơm nồng ấm mùi da thịt. Tôi ngồi yên lặng không nói” (Điệu thu ca). Tôi ở đây là cậu em họ của chị.

Chỉ cần có hai hình ảnh “những ngón tay cong cong”“những sợi lông tơ mọc lưa thưa” là đủ. Viết về tình dục “cao siêu” như thế chỉ có… Nhất Linh. Nhưng Cô Mùi trong Xóm Cầu Mới ra đời sau Hoa vông vang, nên không thể nói Đỗ Tốn chịu ảnh hưởng Nhất Linh.

Ảnh hưởng cuốn truyện nhỏ bé của Đỗ Tốn kéo dài nhiều thập kỷ trong văn chương Việt Nam: Hoa vông vang đã sống lại với Tố Chân, truyện ngắn của Nguyễn Mộng Giác, rồi với mối tình Diễm-Ngữ trong truyện dài Mùa Biển Động của Nguyễn Mộng Giác, bốn mươi năm sau.

Tất cả những lúng túng, rụt rè, cử chỉ thừa thãi… còn đó, như chưa hề có dấu vết thời gian che phủ đến tận hôm nay. Đóa vông vang của Đỗ Tốn cũng như Lá diêu bông của Hoàng Cầm, hiện hữu nhờ âm vang của chữ, nhờ sự tế nhị tuyệt vời trong cảm xúc. Ta không cần biết loài hoa, loài lá ấy như thế nào, nhưng vẫn cứ yêu, bởi ta lụy tình chữ.

Không chỉ với tình yêu, cả với hoa lá, mùi hương, mùi tiệm nhảy… và cả đến mùi con người, trong Hoa vông vang, cũng thế: “Trong lúc tiễn đưa tôi ra cổng, ông Kình đã lại luồn bàn tay vớ vẩn đưa trong nách và mắt lại chớp lia lịa, miệng há hốc một cách khoan khoái” (Một kiếp sống).

Chính sự tinh vi, sâu sắc của Đỗ Tốn đã khiến Nhất Linh đề nghị đưa Đỗ Tốn vào Tự Lực Văn Đoàn, ngay từ tác phẩm đầu tay Hoa vông vang, như ông đã từng làm với Thế Lữ, khi đọc Vàng và máu, mười năm trước.

(còn tiếp)
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7115
Registration date : 01/04/2011

55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng   55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 I_icon13Mon 06 Sep 2021, 10:51

TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG

Thuỵ Khuê

Chúc thư văn học của Nhất Linh: mở rộng Tự Lực Văn Đoàn

Văn bản dưới đây Nhất Linh viết trong đêm giao thừa năm Quý Tỵ, 1953, trang trọng in trong Giai phẩm Văn Hóa Ngày Nay, tập 8, Sài Gòn, số xuân 1959, trang 12 và được in lại trên báo Văn số 14 (7-7-1964), số Tưởng niệm Nhất Linh[13].

Bài chúc thư này được Nhất Linh chép tay làm 5 bản: 2 bản do Đỗ Đức Thu và Nhất Linh giữ, 3 bản gửi ba thành viên tương lai. Bản in trên Văn là bản số 3 của Nguyễn Thị Vinh, chúng tôi xin in lại dưới đây:

55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Tlvd6910

Chúc thư văn học, Văn số 14 (7-7-1964)

Bài này tựa đề là Giao Thừa năm Quý Tỵ 1953, được Nhất Linh coi là chúc thư văn học trong đó ông nói rõ dự định mở rộng Tự Lực Văn Đoàn đến thế hệ sau. Dưới đây là nguyên văn, được đánh máy lại theo bản viết tay:

Giao thừa năm Quý Tỵ 1953

Trong hương trầm của đêm 30 tết và mắt mờ đi vì thương cảm những người cũ đã khuất hoặc mất tích, lại nghĩ tới những nhân tài mới khả dĩ đem lại một nguồn sinh lực rồi rào [dồi dào] hơn làm cho Tự Lực Văn Đoàn thay đổi và mới trẻ mãi, tôi có mấy lời cảm súc này -và cũng là chúc thư luôn thể – với một bài thơ để gửi các anh em cũ (bất cứ ở khu nào) và mấy nhân viên tương lai của đoàn. Trong bẩy tám nhà văn mới chọn lựa được trong hai năm nay, tôi thấy có ba nhà văn chắc chắn là nhân viên Tự Lực Văn Đoàn và tôi tin là anh Đỗ Đức Thu cùng mấy anh mất tích sau này trở về; cũng như tôi sẽ bỏ phiếu bầu một khi ba nhà văn đó có đủ số sáng tác để sự quyết định có căn cứ. Ba người đó là Nguyễn Thị Vinh, Tường Hùng và Duy Lam.

Những lúc ngoảnh về quá khứ, kiểm điểm công việc mình đã làm, tôi thấy rõ ràng công việc tốt đẹp, lâu bền và có ích nhất của đời tôi là sự thành lập được Tự Lực Văn Đoàn và công việc sáng tác.

Nhưng Tự Lực Văn Đoàn không thể để ngừng lại ở số người cũ và đứng yên; người qua, nhưng đoàn phải đổi mới và tiến mãi. Ngoài sự cố gắng của anh em cũ còn lại, tôi mong những nhà văn tương lai của đoàn, trước và sau khi gia nhập, cùng đem hết tâm hồn và tài năng để làm rạng rỡ tên tuổi của đoàn mình, coi mình với Văn Đoàn là một, giữ được tinh thần cố hữu, trước kia đã sáng tỏ giữa mấy anh em quá cố: giúp đỡ nhau, cùng nhau suốt đời phụng sự văn nghệ và đoàn mình, nghiệp văn thực đã chung một kiếp người, đoàn văn cùng chung tiếng để đời mãi kiếp sau.

Đã bẩy năm tôi mới lại có dịp làm thơ và thơ tôi vốn không hay ho gì nhưng lòng và ý thành thực là đủ rồi:

Tự Lực, vườn văn mới trội tên
Bỗng dưng thời thế đảo huyên thiên
Thương dăm lá cũ vèo rơi xuống
Mừng mấy mầm tươi vụt nhú lên
Mạch cũ, nhựa non rồn rập chẩy
Vườn hoa xuân mới điểm tô thêm
Người qua, sách mọt, đời thay đổi
Tự Lực, danh chung, tiếng vẫn truyền!


Nhất Linh
2 giờ sáng, mồng 1 tết năm Quý Tỵ – 14-2-53


Từ Hồng Kông trở về Hà Nội, cuối năm 1950[14], Nhất Linh tuyên bố không thuộc đảng phái nào, không hoạt động chính trị. Tháng 4/1951, ông vào Nam, mở nhà xuất bản Đời Nay và Phượng Giang, tái bản những sách Tự Lực Văn Ðoàn, và in sách của một số người viết trẻ. Năm 1953 ông lên Ðà Lạt ở ẩn, sống với hoa lan ven suối Ða Mê.

Lá chúc thư viết đêm giao thừa Quý Tỵ (14-2-53) như để kết toán đoạn đường cũ và dựng con đường mới: ông hy vọng sẽ lập lại một Tự Lực Văn Đoàn với những người viết trẻ.

Năm năm sau, 1958, ông rời Ðà Lạt về Sài Gòn, chủ trương tờ Văn Hóa Ngày Nay, số 1 ra ngày 17-6-58, đến số 11, ra ngày 21-4-59, thì đình bản.

55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Tlvd7010

Văn Hóa Ngày Nay số 1

Trong bài viết mở đầu ở số 1, tựa đề Văn Hóa Ngày Nay với văn hóa Việt Nam, Nhất Linh khai bút bằng câu: “Văn Nghệ Việt Nam hơn mười năm nay vẫn ở trong một tình trạng ngưng đọng, chưa tìm được lối đi”, như một cách trả lời báo Sáng Tạo (ra đời tháng 10-1956) đã chủ trương… chôn sống Tự Lực Văn Đoàn (y hệt như Phong Hóa đối với Nam Phong ngày trước). Và đó cũng là lý do giải thích tại sao Nhất Linh không coi văn nghệ hôm nay (của nhóm Sáng Tạo) là một thành quả và ông muốn xây dựng một nền văn nghệ muôn thủa với Văn Hóa Ngày Nay.

Nhưng tại sao Nhất Linh lại công bố Lá chúc thư trên Văn Hóa Ngày Nay số xuân 1959?

Khiến khi đọc lá chúc thư này, ta thấy có mấy điều không ổn, sau đây:

Ngày 14-2-1953 khi Nhất Linh viết lá chúc thư, thì cả ba người Nguyễn Thị Vinh, Duy Lam, Tường Hùng mà ông chắc chắn xứng đáng là nhân viên Tự Lực Văn Đoàn đều chưa có tác phẩm trình làng:

– Nguyễn Thị Vinh, bắt đầu viết từ khi còn ở Hương Cảng (1948) nhờ Nhất Linh nâng đỡ. Về Sài Gòn, được Phượng Giang in tập truyện ngắn Hai chị em từ năm 1953.

– Tường Hùng có tập Gió mát, Phượng Giang in năm 1954.

– Duy Lam chỉ được công chúng biết đến trên Văn Hóa Ngày Nay, tức là từ tháng 6-1958.

Vậy nếu Nhất Linh đọc văn của hai người cháu, trong chỗ riêng tư, thấy họ xứng đáng là nhân viên Tự Lực Văn Đoàn, thì đó chỉ là việc trong gia đình; đối với công chúng, họ chưa thể gọi là nhà văn.

Một mặt khác, ta lại biết, năm 1953, Nhất Linh rất cô đơn, ông muốn làm báo mà không có ai, bạn cũ chỉ còn Nguyễn Gia Trí, nhưng Nguyễn Gia Trí là họa sĩ, vì thế, trong lá chúc thư này, ông đã nhắc đến Đỗ Đức Thu, như một người “trong” Tự Lực Văn Đoàn: “tôi tin anh Đỗ Đức Thu cũng như mấy anh [trong Văn Đoàn] mất tích sau này trở về; cũng như tôi sẽ bỏ phiếu bầu khi ba nhà văn đó có đủ một số sáng tác [chúng tôi nhấn mạnh] để sự quyết định có căn cứ”.

Đỗ Đức Thu do Tự Lực Văn Đoàn khám phá. Trên Ngày Nay số 16 (12-7-36) đã trích đăng truyện Ba của Đỗ Đức Thu, đoạt giải khuyến khích Tự Lực Văn Đoàn năm 1935. Ba tháng sau, Ngày Nay đăng truyện ngắn Nước, ba ông… (NN số 30, 18-10-36) một truyện kinh dị đặc sắc. Từ đó Đỗ Đức Thu hiện diện đều đặn trên báo Ngày Nay, nhưng Đỗ Đức Thu không phải là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn, vì không thấy nơi nào nói đến điều đó cả, và ông cũng không có sách in, dưới tên Đỗ Đức Thu, ghi năm chữ “Trong Tự Lực Văn Đoàn”.

Cho nên khi viết lá chúc thư này, vắng bóng tất cả các thành viên khác, Nhất Linh chỉ còn có Đỗ Đức Thu bên cạnh, nên ông đã coi Đỗ Đức Thu như một thành viên thực thụ, và mong họ Đỗ sẽ đồng ý “bỏ phiếu” cho ba “nhà văn” Nguyễn Thị Vinh, Tường Hùng và Duy Lam, để có một Văn Đoàn; tuy nhiên, ông cũng đã cẩn thận đặt điều kiện: “tôi tin anh Đỗ Đức Thu cũng như mấy anh mất tích sau này trở về; cũng như tôi sẽ bỏ phiếu bầu khi ba nhà văn đó có đủ một số sáng tác để sự quyết định có căn cứ”. Tức là ba người này chỉ được “bỏ phiếu công nhận” khi đã có “những tác phẩm xứng đáng”. Nhưng việc này chưa từng xẩy ra, nên những năm sau không thấy Nhất Linh phát biểu gì thêm về họ nữa.

Nếu bản chúc thư viết năm 1953, chỉ giữ trong gia đình, thì không có chuyện gì. Nhưng năm 1959, Nhất Linh công bố trên báo Xuân Văn Hóa Ngày Nay, khiến dư luận có cớ để đàm tiếu.

Vẫn trên báo Văn Hóa Ngày Nay số 1 (17-6-58) Nhất Linh còn làm hai việc khó hiểu nữa:

1- Ông đăng truyện ngắn Cúng Cơm của Đỗ Đức Thu, với lời giới thiệu: “Sau hơn mười lăm năm, nhà văn lão thành Đỗ Đức Thu trong Tự Lực Văn Đoàn mới lại có truyện đăng trên báo…” Và dưới tên tác giả, ông đề thêm hàng chữ: (Trong Tự Lực Văn Đoàn).

2- Ông viết lời giới thiệu truyện Gia đình tôi của Duy Lam, với những lời khen thái quá khiến ta nghi ngờ sự đánh giá tác phẩm của Nhất Linh:

…Duy Lam, một nhà văn mới bước chân vào làng văn lần đầu tiên cách đây sáu năm bằng truyện “Chồng con tôi” (có đăng ở kỳ này) tuy Duy Lam chỉ có một truyện đăng báo nhưng đã sáng tác được rất nhiều truyện và viết đủ mọi giọng; giọng Dostoievski như trong “Chồng con tôi” và giọng Dickens, Mansfield, Tolstoi, như trong các truyện khác. Tất cả những truyện này sẽ đăng dần trong Văn Hóa Ngày Nay.

Nhờ câu văn này mà ta biết, tại sao Nhất Linh “chọn” Duy Lam ngay từ năm 1953, hoá ra ông dựa vào truyện Chồng con tôi đăng trên Báo Mới, và sáu năm sau ông cho đăng lại truyện này trên Văn Hóa Ngày Nay, số 1, với lời giới thiệu nồng nhiệt trên đây.

Ở đầu truyện Chồng con tôi, ông còn có lời giới thiệu nồng hậu nữa: “Đây là một truyện ngắn có giọng Dostoievski (…) đọc truyện này ta không thể không nghĩ đến Sợi tóc của Thạch Lam”.

Tôi đã đọc kỹ Chồng con tôi và thấy không có gì là giọng Dostoievski cả. Còn giọng Dickens, Mansfield, Tolstoi, của Duy Lam trong các truyện khác thì tôi chưa được thấy.

Chồng con tôi rất giả tạo, không thể nào so sánh với Sợi tóc của Thạch Lam được. Duy Lam dựng một truyện rất khó tin: một người mẹ có một đứa con ghét bố, người bố ấy lại ghét mẹ mình và ngược đãi vợ, và người vợ cũng ghét chồng (không phải vì thế mà thành Dostoievski). Rồi người chồng chết. Một hôm, đứa bé ốm nặng, người mẹ chạy đến phòng mạch mời bác sĩ, mặc sự nài nỉ, van xin, bác sĩ bỏ đi, người nữ khán hộ tàn ác nói: nó có sắp chết cũng phải mang nó đến đây. (Bác sĩ không đi khám tại nhà). Thất vọng ra về, trên đường, người mẹ được một người đàn bà thương hại, tìm hộ bác sĩ khác, bởi vì bà này nửa tháng trước có đứa con bị chết, nguyên do vì bà vội vàng đến nhà người bạn mua bát họ, để con chơi một mình ở nhà, không đóng cửa sổ, thằng bé nghịch ngợm nhẩy qua cửa sổ rơi xuống sân chết!

Không chỉ có cốt truyện vá víu, chi tiết rời rạc từng mảnh, mà tâm lý các nhân vật đều giả tạo, không có gì ăn khớp với nhau, Duy Lam không biết gì về tâm lý của người mẹ, nên đưa ra những chi tiết kỳ khôi, viết những câu kỳ lạ: “Khi con tôi bắt đầu ốm, tôi đã biết là nó sẽ chết”.

Tóm lại ông đã bầy ra bao nhiêu cảnh trớ trêu, nhưng không tạo được cảm giác thương tâm nào cho người đọc ngoài sự bực mình vì thấy hoàn toàn vô lý.

Chẳng nên trách Nhất Linh khen cháu thái quá, vì lúc đó ông cần khuyến khích họ để có một ê-kíp giỏi làm Văn Hóa Ngày Nay; nhưng chung quanh ông chỉ có Đỗ Đức Thu và Bình Nguyên Lộc là hai nhà văn có kinh nghiệm, còn những người trẻ như Linh Bảo, Nguyễn Thị Vinh, Tường Hùng, Duy Lam, mới viết được mấy truyện ngắn nhẹ nhàng, họ không thể thay thế Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, cho nên Nhất Linh chỉ cầm cự được 11 số, rồi Văn Hóa Ngày Nay phải đình bản.

Sự hiểu lầm bản chúc thư văn học của Nhất Linh

Vì bản chúc thư này, và có lẽ vì cả những điều Nhất Linh giới thiệu Duy Lam nồng nhiệt quá trên Văn Hóa Ngày Nay, mà Đặng Trần Huân (và nhiều người khác) có lý do phê phán. Đặng Trần Huân viết trong bài Huyền thoại Tự Lực Văn Đoàn[15] như sau: “Trong số người mà Nhất Linh đề nghị thâu nhận vào TLVĐ chỉ có Nguyễn Thị Vinh là người ngoài còn Duy Lam và Tường Hùng là hai người cháu gọi Nhất Linh là bác ruột. Nếu chỉ kể sáu hội viên nguyên thuỷ thì một nửa thành phần đã là ba anh em ruột Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam”.

Người ta thường hay có ý so sánh như vậy. Nhưng so sánh như vậy là sai, bởi vì Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, là ba nhà văn tài ba có tác phẩm minh chứng. Còn Duy Lam và Tường Hùng lại khác. Đặng Trần Huân phê phán như vậy là hơi cố chấp, bởi vì ông thừa biết rằng: Nhất Linh đã “cho” ba người này vào Tự Lực Văn Đoàn đâu? Ông chỉ mới giao hẹn: “sẽ bỏ phiếu bầu khi ba nhà văn đó có đủ một số sáng tác để sự quyết định có căn cứ”, và lại chỉ bỏ phiếu “khi mấy anh mất tích sau này trở về” thế thì còn lâu!

Hoàng Đạo và Thạch Lam, hai em Nhất Linh -không phải Nhất Linh “cho vào”- mà họ đã ở trong nhóm những người làm báo Phong Hóa số 14, và sau đó họ xác định tài năng bằng tác phẩm văn học.

Đặng Trần Huân còn trách Tự Lực Văn Đoàn công bố tôn chỉ và đường lối, trên Phong Hóa số 87 (2-3-33) “nhưng lại không công bố thành phần gồm có những ai, bí mật như một đảng cách mạng”[16]

Trong bản tuyên ngôn của Tự Lực Văn Đoàn có câu: “Người trong Văn Đoàn có quyền để dưới tên mình chữ Tự Lực Văn Đoàn và bao nhiêu tác phẩm của mình đều được Văn Đoàn nhận và đặt dấu hiệu”[17]. Như vậy là rõ ràng lắm, không hề có chuyện bí mật như một đảng cách mạng như lời chỉ trích của Đặng Trần Huân.

Sự lựa chọn “nhân viên” của Tự Lực Văn Đoàn năm 1932, cũng không hề thiên vị anh em, như người ta chê trách: Nguyễn Tường Cẩm, người anh, được Nhất Linh giao chức chủ nhiệm Ngày Nay mấy số đầu, và Nguyễn Tường Bách, người em út rất có văn tài, đều bắt đầu viết trên Phong Hóa, nhưng không ai được vào Tự Lực Văn Đoàn cả. Trần Tiêu, em Khái Hưng, viết cho Phong Hóa từ số 18, cũng là một cây bút giá trị, nhưng cũng không được anh đưa vào Tự Lực Văn Đoàn. Những chỗ ghi Trần Tiêu trong Tự Lực Văn Đoàn đều sai cả.

Ra hải ngoại, trên bìa cuốn Na Uy và tôi, (Nxb Anh Em, 1994), bà Nguyễn Thị Vinh tự tiện đề thêm bốn chữ Tự Lực Văn Đoàn dưới tên tác giả. Và theo Đặng Trần Huân, bà còn tuyên bố[18] rằng bà làm như vậy vì bà thấy chủ trương của Tự Lực Văn Đoàn hay. Quái lạ, nếu ai thấy “chủ trương của Tự Lực Văn Đoàn hay” cũng làm như bà thì còn ra thể thống gì nữa?

Riêng Duy Lam, tôi mua được hai cuốn sách của ông in ở Mỹ, Gia đình tôiEm phải sống, do Văn Hóa Ngày Nay xuất bản năm 1996, dưới tên Duy Lam đều có ghi: Trong Tự Lực Văn Đoàn. Đây là một sự lạm dụng, Duy Lam làm việc này sau khi Nhất Linh mất ba mươi ba năm, thật đáng tiếc. Bởi vì nếu Nhất Linh “cho” ông vào Văn Đoàn, thì khi hai cuốn sách đầu tiên của ông là Chồng con tôiGia đình tôi, in năm 1960 và 1962, Nhất Linh còn sống, đã phải có những chữ Trong Tự Lực Văn Đoàn.

Duy Lam bắt đầu nổi tiếng khi Văn Hóa Ngày Nay đăng Gia đình tôi, từng kỳ trên báo, truyện vui, có duyên, về gia đình ông; nữ sinh Trưng Vương, Gia Long thời ấy rất thích. Nhưng Gia đình tôi (in năm 1962) chưa đủ chất lượng để Nhất Linh có thể “kết nạp”. Chồng con tôi (in 1960), như đã nói ở trên, khá tầm thường. Sau đó ông viết truyện Cái lưới (1964) vẫn về gia đình ông, nhưng hoàn toàn đối lập với Gia đình tôi, mô tả một gia đình bất hạnh vì người cha cộc cằn, độc đoán. Tất cả những tác phẩm này chưa thật đặc sắc. Trong gia đình bà Nguyễn Thị Thế, chỉ có bà và Thế Uyên là hai nhà có thể vào Tự Lực Văn Đoàn.

Thất Tinh trong Tự Lực Văn Đoàn

Khi nói đến Tự Lực Văn Đoàn, người ta hay dùng chữ: Thất Tinh (bẩy vì sao) để chỉ: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thế Lữ, Thạch Lam, Tú Mỡ và Xuân Diệu. Đếm vậy là cho đúng con số bẩy, nhưng không đúng sự thực.

Chữ Thất tinh, nếu có, đã chỉ xuất hiện trong thời kỳ đầu của Tự Lực Văn Đoàn, lúc các sao đang sáng, vì đến cuối năm 1938, khi Xuân Diệu được kết nạp (hay không), các sao kia đã lặn dần vì công việc cách mạng rồi, chỉ còn Thạch Lam ở lại thường trực tòa soạn. Tóm lại, trong bẩy vì “tinh tú” không thể có Xuân Diệu.

Phạm Thế Ngũ, trong bộ Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên (1961-1965), là người viết câu này:

“Trong tập Những Ngày Vui viết về sau, Khái Hưng có cho biết họ có ý định khi đó lập một thứ Pléiade” với “bẩy vì sao”. Đó là: Nhất Linh tức Nguyễn Tường Tam (cũng ký các biệt hiệu khác Nhị Linh, Bảo Sơn, Đông Sơn) Khái Hưng tức Trần Khánh Dư, Tú Mỡ tức Hồ Trọng Hiếu, Thế Lữ tức Nguyễn Thứ Lễ (cũng ký tên Lê Ta), Hoàng Đạo tức Nguyễn Tường Long (lúc đầu bút hiệu là Tứ Ly) Thạch Lam tức Nguyễn Tường Lân (lúc đầu cũng ký tên Việt Sinh) và Nguyễn Gia Trí, nhà hội họa chuyên môn”[19].

Đoạn văn này có hai điểm sai, tôi đều đã nói rồi, nhưng ở đây cần nhắc lại.

Điểm thứ nhất: ông tưởng Nhị Linh là bút hiệu của Nhất Linh.

Điểm thứ hai, ông viết: “Trong tập Những ngày vui viết về sau, Khái Hưng có cho biết họ có ý định khi đó lập một thứ Pléiade” với “bẩy vì sao”.

Tuy ông liệt kê đúng tên bẩy vì sao này, nhưng tôi đã đọc kỹ tác phẩm Những ngày vui, rà bản đăng trên báo Ngày Nay năm 1936 và cả bản Phượng Giang, do Nhất Linh in lại năm 1958 ở Sài Gòn, cũng không thấy chỗ nào nói đến Pléiade. Điều này chứng tỏ Phạm Thế Ngũ chưa đọc Những ngày vui.

Nhưng chuyện Thất tinh đã được “truyền tụng.” Không hiểu từ Phạm Thế Ngũ hay từ đâu, khiến Nhật Thịnh, trong Chân Dung Nhất Linh đã tiểu thuyết hóa thành câu chuyện sau đây:

Đầu năm 1932, Nhất Linh cùng Khái Hưng và Thế Lữ đi viếng động Tam Thanh ở Lạng Sơn. Ba người bàn tính nên đặt tên hiệu cho đoàn. Nhất Linh:

– Mình phải chọn cho nhóm một cái tên gần như nhóm Pléiade, Parnasse ở Pháp. Chẳng lẽ là mình cứ gọi là nhóm “Phong Hóa” mãi sao?

Khái Hưng tán thành:

– Hay là mình đặt quách cho nhóm cái tên “Thất Tinh”. Nhóm “Pléiade” có bẩy người, thì bọn mình cũng thế, có thua gì đâu.

Đó là Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ và Nguyễn Gia Trí (…)

Thế Lữ sau khi nghe Khái Hưng đề nghị nên đặt tên nhóm là “Thất Tinh”, có lẽ vì ông quên vai trò đóng góp của Nguyễn Gia Trí, đã vội bẻ lại:

– Bẩy đâu, sáu chứ! Này nhé: Nhất Linh, Tú Mỡ, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng, Thế Lữ, vị chi là sáu tất cả.

Nhất Linh chêm:

Các cậu quên Nguyễn Gia Trí rồi à? Thiếu hắn ta thì bọn mình “bất trí” hết
[20].

Như vậy, nếu hai chữ Thất tinh được truyền lại, thì chỉ do hai nguồn:

– Chính các thành viên Tự Lực Văn Đoàn, trong lúc chuyện gẫu, đã tự tôn mình là Pléiade.

– Công chúng, vì khâm phục tài năng của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nên đã tôn họ là Thất tinh.

Trong cả hai trường hợp, chữ Thất tinh đều chỉ bẩy người: Nhất Linh, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ và Thế Lữ. Vì đó là bẩy người đã có công trong việc xây dựng hai tờ Phong Hóa Ngày Nay, thực hiện sự đổi mới văn học, xác định con đường tranh đấu xã hội, tạo dựng uy tín cho Tự Lực Văn Đoàn. Ngoài ra, bốn thành viên chính: Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng và Nguyễn Gia Trí, đã tham gia Quốc Dân Đảng, tổ chức cách mạng chống Pháp. Vậy chữ Thất Tinh, nếu có, chỉ để vinh danh bẩy người: Nhất Linh, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ và Thế Lữ.

(Còn tiếp)

Thụy Khuê


[1] Bạch Thái Quốc, nguyên trưởng ban Việt ngữ đài RFI, cháu nội nhà kinh doanh Bạch Thái Bưởi. Mẹ Bạch Thái Quốc là bà Bạch Thái Chính, nhũ danh Đỗ Kim Khuê, em gái Đỗ Tốn. Bà qua đời ngày 21-5-2020, ở California, hưởng thọ 99 tuổi.

[2] Tạ Tỵ trong bài “Vài cảm nghĩ về cuốn hồi ký gia đình Nguyễn Tường của nữ sĩ Nguyễn Thị Thế” viết: Đỗ Tốn và Đỗ Đình Đạo là anh em ruột, thực ra là anh em con chú con bác ruột, bài Tựa cuốn Hồi ký của Nguyễn Thị Thế, Văn Hóa Ngày Nay tái bản lần thứ ba, 1996, trang 24.

[3] Tạ Tỵ, Vài cảm nghĩ về cuốn hồi ký gia đình Nguyễn Tường của nữ sĩ Nguyễn Thị Thế“, Tựa cuốn Hồi ký của Nguyễn Thị Thế, Văn Hóa Ngày Nay tái bản lần thứ ba, 1996, trang 24.

[4] Tạ Tỵ, Những khuôn mặt văn nghệ đã đi qua đời tôi, Hồi ký, Thằng Mõ, 1990, Hoa Kỳ, trang 198.

[5] Tạ Tỵ, Những khuôn mặt văn nghệ đã đi qua đời tôi, Hồi ký, Thằng Mõ, 1990, Hoa Kỳ, trang 198.

[6] Hoàng Văn Đào, Lịch sử đấu tranh cận đại 1927-1954, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Tân Việt tái bản kỳ 4, 2006, California, trang 421.

[7] Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng, trang 421.

[8] Về việc Thụy An và Đỗ Đình Đạo, xin xem: Thụy Khuê, Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc, Tiếng Quê Hương 2012, t.175-180, hoặc trên mạng: thuykhue.free.fr) và Trần Gia Phụng, Vụ án mạng chính trị gia Đỗ Đình Đạo và nghi án 60 năm, trên mạng Danchimviet.info, đăng ngày 20/7/2014.

[9] Hoàng Văn Đào, Lịch sử đấu tranh cận đại 1927-1954, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Tân Việt, California, tái bản kỳ 4, 2006, t. 184.

[10] Nguyễn Ngu Í, Sống và viết với… t. 13.

[11] Đỗ Tốn, Vài lời nói thêm, Hoa Vông Vang, Đời Nay, Sài Gòn, t. 181.

[12] Nguyễn Thạch Kiên, Đốt lò hương ấy, bài tựa sách Khái Hưng Kỷ vật đầu tay và cuối cùng, tập 1, Hồn bướm mơ tiên, Phượng Hoàng, California, 1997, trang 25-26.

[13] In lại trên báo Văn số 14 (7-7-1964) số Tưởng niệm Nhất Linh, cả bản chép tay và đánh máy. In lại trong Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường – Nhất Linh, Hoàng Đạo Thạch Lam của Nguyễn Thị Thế, Nxb Văn Hóa Ngày Nay tái bản lần thứ ba, năm 1996, tại Santa Ana, California, trang 259; và trong Kỷ yếu triển lãm và hội thảo về báo Phong Hóa Ngày Nay và Tự Lực Văn Đoàn, Người Việt, California 2014, trang 76-77.

[14] Nguyễn Tường Thiết, trong Nhất Linh cha tôi, Văn Mới, California, 2006, t. 13, ghi Nhất Linh về Hà Nội cuối năm 1950. Tiểu sử của Nguyễn Ngu Í ghi ông về năm 1951.

[15] Đặng Trần Huân, Huyền thoại Tự Lực Văn Đoàn, in trong cuốn Khái Hưng, Kỷ vật đầu tay và cuối cùng, Quyển 1, Hồn bướm mơ tiên, t. 282.

[16] Đặng Trần Huân, bđd, trang 274.

[17] Trích bài Tự Lực Văn Đoàn, PH số 87, 2-3-1934.

[18] Trên Phụ Nữ Diễn Đàn số 132, tháng 2-1995.

[19] Phạm Thế Ngũ, Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, tập III, Anh Phương Ấn quán, Sài Gòn, Đại Nam, California, in lại trang 433-434.

[20] Nhật Thịnh, Chân dung Nhất Linh, Đại Nam in lại ở Mỹ, không đề năm, trang 127, 129, 130.

(còn tiếp)
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7115
Registration date : 01/04/2011

55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng   55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 I_icon13Wed 08 Sep 2021, 09:15

TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG

Thuỵ Khuê

Trại Cẩm Giàng


Phần I

Nói đến cái nôi của Tự Lực Văn Đoàn là phải kể hai địa điểm: Trại Cẩm Giàng và số 80 Quan Thánh.

Cẩm Giàng là nơi chi nhánh gia đình Nguyễn Tường từ Hội An ra Bắc, định cư và lập nghiệp.

80 Quan Thánh là toà soạn báo Phong Hóa Ngày Nay và nhà xuất bản Đời Nay, từ 1934 đến 1946.

Tìm lại Cẩm Giàng cũng là nhận diện công lao của một người phụ nữ phi thường: Bà Nguyễn Tường Nhu nhũ danh Lê Thị Sâm, người mẹ goá trẻ, một mình nuôi bẩy con và một mẹ chồng, trong đó có ba người là thành viên xây dựng Tự Lực Văn Đoàn.

Những tư liệu về Tự Lực Văn Đoàn và gia đình Nguyễn Tường

Trước khi đi vào phần viết về gia đình Nguyễn Tường, chúng tôi muốn giới thiệu với độc giả, những tài liệu đúng đắn, có thể dùng được và cả loại tài liệu hư cấu, nhưng đã trá hình như tài liệu thật.

Ở miền Nam, tạp chí Văn làm bốn số đặc biệt về Tự Lực Văn Đoàn: Văn số 14 (7-7-64) Tưởng niệm Nhất Linh; Văn số 22 (15-11-64) Tưởng niệm Khái Hưng, Văn số 36 (15-6-65) Tưởng niệm Thạch LamVăn số 107-108 (15-6-68) Tưởng niệm Hoàng Đạo.

Bốn số báo này có nhiều bài viết giá trị, nghiên cứu, nhận định, hồi ức, của các tác giả, đã từng nghiên cứu hoặc gặp gỡ Tự Lực Văn Đoàn, như: Nguyễn Mạnh Côn, Nguyễn Văn Trung, Thế Uyên, Thư Trung, Trần Khánh Triệu, Hồ Hữu Tường, Dương Nghiễm Mậu, Mai Chi, Nguyễn Thạch Kiên, Đinh Hùng, Đỗ Đức Thu, Huyền Kiêu, Võ Hồng, Mai Thảo. Riêng Nguyễn Văn Xuân có viết trong số Văn Tưởng niệm Hoàng Đạo hai bài cực lực chỉ trích và hạ bệ Hoàng Đạo đồng thời cả Tự Lực Văn Đoàn, chúng tôi sẽ nói đến sau. Nhìn chung, bốn số báo Văn trên đây, đã có thể làm nền cho việc nghiên cứu Tự Lực Văn Đoàn.

Ra hải ngoại, gia đình Nguyễn Tường cung cấp thêm nhiều tài liệu giá trị khác. Trước hết về Nhất Linh, có một số bài in trong cuốn Nhất Linh người nghệ sĩ, người chiến sĩ, (Nxb Thế Kỷ, 2004, Cali) do Phạm Phú Minh biên soạn. Năm 2013, báo Người Việt tổ chức cuộc hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn ở California, trong hai ngày 6 và 7 tháng 7 năm 2013, sau đó những bài viết được tập hợp và in trong tập Kỷ yếu triển lãm và hội thảo về báo Phong Hoá Ngày Nay và Tự Lực Văn Đoàn (Nxb Người Việt, 2014) do Phạm Phú Minh biên soạn.

Đáng chú ý hơn cả là những bài của con cháu Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam viết về những người phụ nữ trong gia đình Nguyễn Tường, những người con dâu đã gánh vác gia đình thay chồng vắng mặt vì hoạt động chính trị, hoặc chết yểu như Thạch Lam.

Nhưng tác phẩm giá trị là cuốn Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường: Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam của Nguyễn Thị Thế, đến nay vẫn là tập tài liệu ngắn gọn, đầy đủ nhất về gia đình Nguyễn Tường mà người nghiên cứu không thể bỏ qua.

Nguyễn Thị Thế là người con gái độc nhất của ông bà Nguyễn Tường Nhu, con thứ năm, bà là em Nhất Linh, Hoàng Đạo, chị Thạch Lam và mẹ của hai nhà văn Duy Lam và Thế Uyên. Bà đã viết cuốn Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường: Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam[1] thuật lại những thăng trầm của gia đình bà trong nửa thế kỷ.

Ngoài ra, còn phải kể đến bộ hồi ký của Nguyễn Tường Bách, người con út: Việt Nam những ngày lịch sử[2] và Việt Nam một thế kỷ qua (hai tập)[3] bao quát chuyện gia đình và thế sự.

Và nhà văn Nguyễn Tường Thiết, con út Nhất Linh, tác giả hai cuốn hồi ký Nhất Linh cha tôi[4] và Căn nhà An Đông của mẹ tôi[5], cung cấp những thông tin và kỷ niệm về gia đình ông, sách đã in lại ở trong nước.

Về những bài viết, Thế Uyên có ba bài Người bác (viết về Nhất Linh)[6], Tìm kiếm Thạch Lam[7]; Hoàng Đạo hay sự trở về quê cũĐọc và đặt lại vị trí Hoàng Đạo[8], đều là những bài có giá trị, đã in trên báo Văn nói ở trên.

Trần Khánh Triệu (tức Nguyễn Tường Triệu) con ruột Nhất Linh, con nuôi Khái Hưng, là người cung cấp nhiều thông tin nhất về Khái Hưng, qua hai bài Ba tôi, Papa toàn báo[9].

Nguyễn Tường Nhung[10] (vợ Trung tướng Ngô Quang Trưởng) viết hai bài Mẹ tôi, bà Thạch Lam Nguyễn Tường LânBà nội và trại Cẩm Giàng, đều có những chi tiết hiếm quý về mẹ và bà.

Và nhà thơ Nguyễn Tường Giang[11] con út Thạch Lam trong tập Khói hồ bay (thơ, văn) viết ba bài Thạch Lam cha tôi trong trí tưởng, Mộ biaBuổi chiều đi chơi với Thạch Lam, ký ức tâm tưởng sâu sắc về người cha mất mấy ngày sau khi ông chào đời.

Các tác phẩm nói trên, vừa là những sử liệu, vừa là tác phẩm văn chương, chứng tỏ văn tài của gia đình Nguyễn Tường và điểm đáng quý nhất, ngoài giá trị văn chương, là sự thẳng thắn và chân thật của gia đình này, không thể tìm thấy được ở một số bài viết của các nhà văn, nhà thơ “bên ngoài” khi họ viết về Tự Lực Văn Đoàn, thi sĩ Anh Thơ là một trường hợp.

Trong cuốn Nhất Linh người nghệ sĩ người chiến sĩ do Phạm Phú Minh biên soạn và gia đình Nguyễn Tường giúp sức, do Người Việt xuất bản năm 2004 tại Cali, trong có bài Nữ sĩ Anh Thơ viết về Nhất Linh do nhà văn Phạm Phú Minh trích dẫn từ cuốn hồi ký Từ bến sông Thương của Anh Thơ. Cuốn hồi ký này, tôi đã mua và đọc từ thập niên 90, đến năm 2004, khi sách Nhất Linh người thi sĩ người chiến sĩ ra đời, tôi vẫn ngạc nhiên một cách thích thú vì thấy những trang sách của Anh Thơ được Phạm Phú Minh góp lại thành một bài viết dài như những trang tiểu thuyết về Nhất Linh và gia đình, với những chi tiết lạ, không thấy ở đâu.

Nhưng từ khi tìm hiểu về Tự Lực Văn Đoàn, tôi mới thấy được những gì ẩn sau sự “thật thà ngây thơ khôn khéo” có thể đánh lừa được tất cả mọi người, kể cả những người trong gia đình Nhất Linh, của loại tư liệu hoàn toàn hư cấu này.

Thi sĩ Anh Thơ (1921-2005) được giải khuyến khích thơ Tự Lực Văn Đoàn năm 1939. Khi phong trào đổi mới bắt đầu ở Việt Nam, Anh Thơ là một trong những người đầu tiên dành cho Tự Lực Văn Đoàn nhiều trang hồi ức trong tập Từ bến sông Thương do nxb Văn Học, Hà Nội, in năm 1986, khiến người đọc cảm động, nghĩ rằng Anh Thơ còn nhớ đến người xưa.

Về giải thưởng Tự Lực Văn Đoàn năm 1939, theo lời Thạch Lam, mặc dù số tiểu thuyết và thơ gửi đến dự thi nhiều hơn hai năm trước (37 và 38), vậy mà chỉ có tiểu thuyết được giải thưởng, đó là hai cuốn: Làm lẽ của Mạnh Phú Tư và Cái nhà gạch của Kim Hà. Không có giải kịch và thơ. (Năm 1938, không có giải thưởng gì hết, vì không có tác phẩm hay). Hai tập thơ Bức tranh quê của Anh Thơ và Nghẹn ngào của Tế Hanh chỉ được ban giám khảo chú ý, và “muốn khuyến khích phái nữ lưu, ban giám khảo định tặng riêng tác giả tập Bức tranh quê một số tiền là 30 đồng. Còn đối với tập thơ Nghẹn ngào, nếu tác giả bằng lòng, sẽ lựa các bài đăng trên báo Ngày Nay” (theo Ngày Nay số 208, 18-5-40). Tóm lại, vì Anh Thơ là con gái (lại mới 18 tuổi) nên đặc biệt được tặng tiền, còn Tế Hanh chỉ được đăng thơ trên báo Ngày Nay thôi. Xem thế việc được Ngày Nay đăng thơ đã là một thứ “giải thưởng” rồi.

Ngày Nay số 208, tuyên bố kết quả, kèm với bài của Thạch Lam viết về Những tác phẩm dự thí giải thưởng văn chương Tự lực Văn Đoàn 1939 Tiểu thuyết, kịch và phóng sự. Ngày Nay số 209 (25-5-40), lại có bài Giải thưởng văn chương Tự Lực Văn Đoàn Thi ca của Nhất Linh viết về thơ của Anh Thơ và Tế Hanh; tuy ông có chê nhiều chỗ, nhưng như vậy đã là trân trọng lắm.

Cho nên, tôi rất ngạc nhiên khi thấy trong hồi ký Từ bến sông Thương, Anh Thơ viết:

Mặc dầu giải thưởng từ năm 1939 nhưng đến tờ báo số 200 ra ngày 25 tháng 5.1941, mới có bài nhận xét của ban giám khảo. Nhất Linh viết: Bức tranh quê của cô Anh Thơ…

Nghĩa là Anh Thơ trích dẫn đúng bài viết của Nhất Linh mà tại sao lại đổi số báo từ 209 (25-5-40) ra số 200 ra ngày 25 tháng 5.1941, tức là cùng ngày nhưng đúng một năm sau. Còn số báo 200 của Ngày Nay thì đã ra ngày 24-2-1940 kia mà! Tôi cho là cô ghi nhầm ngày.

Nhưng đọc đến trang 106, mới hiểu là cô không nhầm, bởi vì cô chép lại lá thư này:

Ma-đơ-moa den (Mademoiselle) Anh Thơ,

Thi phẩm “Bức tranh quê ” đã in xong ngày 5 Mars 1941. (…) Sáu mươi lăm cuốn sách quý này, cần có chữ ký của tác giả. Chúng tôi trân trọng kính mời cô đến thứ năm này hoặc sớm hơn nữa càng hay, xin mời cô đến chơi tại nhà xuất bản ký vào những cuốn đó để gửi cho những người đã đặt tiền mua trước.
(trang 106)

Cô Anh Thơ còn viết tiếp: “Ngày 25 tháng 4 năm 1941″ trên chuyến xe lửa tốc hành thứ nhất, từ một tỉnh lỵ bé nhỏ miền trung du, tôi đã đến kinh đô giữa một ngày hè tươi đẹp, để ký vào tác phẩm đầu tiên của mình” (trang 112).

Vậy có lẽ cô đã đổi ngày bài Nhất Linh viết về cô và Tế Hanh in trên Ngày Nay số 209 (25-5-40) thành ngày 25-5-41 để cho phù hợp với chuyện cô được mời lên toà soạn ký sách ngày 25- 4-41.

Rồi từ trang 114 đến trang 119, cô kể lại câu chuyện cô tới nhà xuất bản được ông Giám đốc đón ở đầu cầu thang, mời cô uống nước trà và tận tay ông giở từng trang sách cho cô ký. “… thấy tôi vừa ký lại vừa giở sách, ông sốt ruột, đến trước bàn, mở giúp tôi từng tập, vui vẻ nói: “Cô để tôi mở giúp và tập ký nhanh tay cho quen”.

Cảnh thật đẹp và thơ mộng, nhưng tiếc thay, cô lại không biết ông Nhất Linh đã trốn sang Tầu từ mùa thu năm 1940.

Cô kể tiếp, vài năm sau, tức là vào khoảng 1942, 43, cô trở thành phóng viên báo Đông Tây, cô đến phỏng vấn bà Nhất Linh. Đoạn này, từ trang 199 đến trang 205, có mấy chỗ rất lý thú, xin trích lại sau đây.

Cô tưởng bà Nhất Linh là gái tân thời như cô Loan trong Đoạn tuyệt, nhưng không ngờ bà lại là “một bà tuổi đã nạ dòng, răng vẩu, mặc quần đen áo đen, dáng tất bật”. Bà Nhất Linh nói:

Xin lỗi cô, tôi phải vừa bán hàng, vừa tiếp khách, vì hôm nay tuy chủ nhật, nhưng nhà tôi và các cháu đều bận đi thăm khu nhà “Ánh Sáng” ở bên Phúc Xá, nên chả có ai trông hàng cô ạ.

Khi viết câu này, cô vẫn không biết năm 1942, 43, ông Nhất Linh đã ở bên Tầu được 2, 3 năm rồi và cô cũng không biết chương trình nhà Ánh Sáng đã bị bỏ từ năm 1939. Cao hứng, cô kể tiếp chuyện cô đang phỏng vấn bà Nhất Linh thì:

Có tiếng còi ô tô, rồi một chiếc ô tô rất lịch sự chạy đốn đỗ trước cửa hàng. Một bày thiếu nữ, mặc quần áo lơ muya, màu sắc rực rỡ như đàn bướm, phất phới, uà vào cửa hàng, tiếng gọi ríu rít:

– Anh Nhất Linh ơi, đi thôi.

Bà Nhất Linh nhìn họ, một cái nhìn “kẻ cả”, miệng vẫn cười:

Anh ấy đi từ sáng sớm rồi. Các cô xuống ngay nhà “Ánh Sáng” thì sẽ gặp.

– Thế ạ! Thôi chúng cháu đi!


Câu này có ác ý, cô chê bà Nhất Linh già và ông Nhất Linh lăng nhăng, nhưng bậy nhất là câu này:

Tôi hỏi bà:

– Tôi có nghe ông bà đem cho bạn nuôi một con trai. Vậy bà có vui lòng về việc ấy không?

– Tôi phải chiều theo ý tốt của nhà tôi, vì anh Khái Hưng là bạn thân nhất của nhà tôi, mà lại không có con, trong khi chúng tôi có những bẩy cháu.
(trang 202).

Cô lại cũng không biết rằng Nhất Linh cho Khái Hưng người con trai thứ nhì Nguyễn Tường Triệu (sinh 15-11-1932) vào khoảng 1934, 1935. Lúc đó, ông bà Nhất Linh có thể chưa có người con trai thứ ba Nguyễn Tường Thạch (sinh năm 1935) thì làm gì đã có những bẩy cháu!

Cô Anh Thơ đã chuyển một động tác cao quý giữa hai người bạn, thành tầm thường: thừa con cho bớt!

Sau đó cô tiếp tục “phỏng vấn” bà Khái Hưng. Rồi cô kể Thạch Lam không bằng lòng cho cô phỏng vấn vợ. Chắc cô cũng không biết Thạch Lam đã mất (năm 1942). Và cô bảo Hoàng Đạo còn độc thân, cô lại cũng không biết Hoàng Đạo cưới vợ từ năm 1933 và năm 42, 43 đang bị tù ở Vụ Bản.

Cái lối viết “hồi ký” như thế không phải là hiếm, nhưng vì Anh Thơ là nhà thơ “có tên tuổi” và Nhất Linh còn tên tuổi hơn, cho nên cô cứ việc hư cấu, tưởng chuyện qua lâu rồi, không ai biết, bằng chứng là hồi ký của Anh Thơ được “đánh giá cao” được nhiều nơi trích dẫn, đến cả gia đình Nguyễn Tường và Phạm Phú Minh cũng lầm tưởng cô viết thật tình, nên đã cho in lại trong cuốn sách Nhất Linh người chiến sĩ, người nghệ sĩ.

Gia đình Nguyễn Tường từ Hội An ra Bắc

Quan Binh Bộ Thượng Thư Nguyễn Tường Vân, là nhân vật nổi tiếng đầu tiên của dòng họ Nguyễn Tường, có công được ghi vào sử sách.[12]

Ông theo vua Gia Long từ buổi đầu[13] lập nhiều công trạng, làm quan đến chức Thượng thư Bộ Binh, ông mất cùng năm với vua Gia Long (1820).

Nguyễn Tường Vân có hai con trai được ghi tên trong Liệt truyện.

Con trưởng Nguyễn Tường Vĩnh, đỗ phó bảng năm Minh Mạng thứ 19 (1838), làm quan tới chức Án sát Định Tường, rồi Khánh Hoà, sau thăng Tuần phủ Định Tường, bị ốm chết ở đây.

Con thứ Nguyễn Tường Phổ, đậu cử nhân năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), đậu tiến sĩ khoá Nhâm Dần (1842), làm trong Hàn Lâm viện biên tu (quan viết sử), rồi thăng tri phủ Hoằng An (thuộc tỉnh Vĩnh Long), có tiếng thanh liêm.[14]

Nguyễn Tường Phổ sinh Nguyễn Tường Tiếp (còn có tên là Trấp). Theo Liệt Truyện, Tường Tiếp đỗ tú tài, làm đến chức Đồng tri phủ.

Nguyễn Tường Tiếp, là người đầu tiên đã đem gia đình ra Bắc, khi ông nhậm chức Đồng tri phủ huyện Thủy Nguyên[15].

Nguyễn Tường Tiếp là cha Nguyễn Tường Nhu, là ông của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam.

Trong vài trang Hồi ký của Nhất Linh: Đời thi sĩ, ở phần chú thích 1, Nhất Linh có ghi: “Trích ra đây bài thơ thầy tôi làm khi rời huyện Chí Linh“[16].

Như vậy ông Nguyễn Tường Nhu đã từng sống ở Chí Linh.

Một mặt khác, Nguyễn Thị Thế (em Nhất Linh), và Nguyễn Tường Nhung (con gái Thạch Lam), đều ghi ông nội và cụ nội làm tri huyện Cẩm Giàng.

Như vậy, ông Nguyễn Tường Tiếp, ông nội Nhất Linh, đã làm tri huyện ở ba nơi: Thuỷ Nguyên (Hải Phòng), Chí Linh (Hải Dương) và Cẩm Giàng (Hải Phòng).

Tại Cẩm Giàng, Nguyễn Tường Nhu (còn có tên là Chiếu) (1881-1918) kết duyên cùng cô Lê Thị Sâm, con trưởng Tổng Lãnh Binh Lê Quang Thuật, gốc Huế, ra Bắc đã ba đời.

Cuộc nhân duyên này sinh bẩy người con:

Nguyễn Tường Thụy (1903-1974).

Nguyễn Tường Cẩm (1904-1947).

Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) (1906 -1963) sinh tại Cẩm Giàng.

Nguyễn Tường Tư tức Long (Hoàng Đạo) (1907- 1948) sinh tại Cẩm Giàng.

Nguyễn Thị Năm tức Thế (1909-1997) sinh tại Thái Hà Ấp.

Nguyễn Tường Sáu tức Vinh tức Lân (Thạch Lam) (1910- 1942) sinh tại Thái Hà Ấp.

Nguyễn Tường Bẩy tức Bách (1916- 2013) sinh tại Cẩm Giàng.

Ông Nguyễn Tường Nhu làm thông phán (thông ngôn) toà sứ, ông mất năm 1918 ở tuổi 37.

Theo hồi ký Nguyễn Thị Thế[17], đầu thế kỷ XX ông bà Nguyễn Tường Nhu cư ngụ tại Ấp Thái Hà, nơi ông Nhu làm việc.

Xem lại năm và nơi sinh của các con, ta thấy: Nhất Linh, sinh năm 1906 và Hoàng Đạo sinh năm 1907, tại Cẩm Giàng; Nguyễn Thị Thế sinh năm 1909 và Thạch Lam sinh năm 1910 tại Thái Hà Ấp. Nguyễn Tường Bách sinh năm 1916 tại Cẩm Giàng.

Vậy gia đình Nguyễn Tường Nhu lên Hà Nội trễ lắm là năm 1909, cư ngụ tại Thái Hà Ấp nơi ông Nhu làm thông ngôn, có thể trong dinh Hoàng Cao Khải, lúc đó đã về hưu.

Đến năm 1914, dọn về số 10 Hàng Bạc. Bốn người con lớn (Thụy, Cẩm, Tam và Tư tức Long) đều học tư ở trường Mã Mây, gần nhà. Được ít lâu, ông Nhu bị mất việc, ở Hà Nội không nhờ cậy được ai, bà Nhu thu xếp đưa chồng con về nhà mẹ ở Cẩm Giàng để tìm cách buôn bán.

Theo hồi ký Nhất Linh: “Năm mười tuổi [tôi] phải rời bỏ Hà Nội về huyện Cẩm Giàng”[18].

Nhất Linh chắc không dùng tuổi ta, vậy có thể xác nhận đó là năm 1916, gia đình rời Hà Nội về Cẩm Giàng. Tại Cẩm Giàng, bà Nguyễn Tường Nhu sinh thêm người con út, Nguyễn Tường Bách (1916).

(còn tiếp)
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7115
Registration date : 01/04/2011

55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng   55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 I_icon13Thu 09 Sep 2021, 09:55

TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG

Thuỵ Khuê

Ông Nguyễn Tường Nhu

Nhất Linh là người duy nhất viết về cha, người đã sửa cho ông bài thơ đầu tiên, làm khi phải rời Hà Nội về Cẩm Giàng. Nhớ Hà Nội, cậu bé Nhất Linh 10 tuổi, tả cảnh Hồ Gươm như sau:

Chung quanh cây cối rườm rà
Giữa hồ có một chùa ta đây này.


Thầy tôi biết ngay là thơ không xuôi nên đổi ra:

Giữa hồ có một chùa là Ngọc Sơn.

Tôi còn bé nhưng cũng biết ngay câu thơ của thầy tôi hay hơn.
(…)

Thầy tôi vốn hay làm thơ và thích thơ đúng niêm luật.

(Trích ra đây bài thơ thầy tôi làm khi rời huyện Chí Linh:

Lên ngựa chia tay luống ngại ngùng
Tình xưa bát ngát với non sông
Ai về nhắn nhủ giang sơn ấy
Sự tới nghìn thu vẫn đỉnh chung.)
[19]

Thơ của cha Nhất Linh ẩn “chí lớn”:

Ai về nhắn nhủ giang sơn ấy,
Sự tới nghìn thu vẫn đỉnh chung.


Và sau này trong truyện Thương chồng, viết năm 1949, tại Hương Cảng, Nhất Linh kể lại đoạn đời cha mẹ mình những ngày còn hàn vi, người cha tên Bích, cũng đã từng lên Yên Thế gặp Đề Thám:

Sau khi đã lên gặp Đề Thám và biết rõ ràng, chàng chán nản hết cả mọi sự. Gặp anh em đến nhà, chàng cùng anh em chỉ nói những chuyện vẩn vơ hoặc làm thơ làm phú than thân trách phận sinh không gặp thời; vì họ nói chuyện với nhau bao giờ cũng nói thì thầm nên Nhung tưởng chồng vẫn hằng lo những việc “đại sự” mình là đàn bà không được dự bàn vào. Tình thế ấy khiến người vợ kính phục chồng và giúp người chồng có thể điềm nhiên ngồi nhàn nhã ở nhà mà không sợ ngượng với vợ cùng họ hàng nhà vợ.[20]

Thương chồng là truyện duy nhất phản ảnh rất rõ cảnh ngộ gia đình Nhất Linh: ông Nhu thất nghiệp liên miên, bà Nhu phải học cân gạo, với sự phụ giúp của anh người nhà tên Tráng. Trong hồi ký, Nguyễn Thị Thế cũng viết những dòng xúc động về anh Tráng này, là người giúp việc chân thành của bà Nhu, chết yểu.

Việc gặp Đề Thám có lẽ chỉ xẩy ra trong “suy tính” của ông Bích, bởi vì Nhất Linh kết luận: “đầu óc chàng lúc đó không để ý đến chuyện gì cả nhưng hai con mắt chàng, có lẽ vì thói quen từ lâu, nên có vẻ như đương trầm ngâm suy tính những việc “đại sự” không bao giờ đến trong đời chàng“[21].

Tóm lại, trong truyện Thương chồng, Nhất Linh đã vẽ chân dung người cha, bất lực với hoàn cảnh, nhàn nhã ở nhà, hoàn toàn để mặc vợ xoay sở, tranh đấu với đời.

Nguyễn Thị Thế không viết gì về cha khi ông còn sống, nhưng bà viết về cái chết của cha:

Một hôm thầy tôi đi Hà Nội đem tiền học lên cho các anh. Ông gặp ông Công Sứ Hải Trường hồi xưa thầy tôi có làm thông ngôn cho ông ấy một thời gian. Bây giờ ông ta đổi sang tỉnh Sầm Nứa bên Lào, ông hỏi thầy tôi có muốn sang làm không, lương cao và nếu mẹ tôi có muốn sang buôn bán cũng dễ. Thế là thầy tôi nhận lời ngay. (Hồi ký Nguyễn Thị Thế, trang 48).

Ông Nguyễn Tường Nhu sang làm thông ngôn cho ông Công sứ Hải Trường ở Sầm Nứa, được tám tháng, thì bị bệnh, qua đời ngày 23-10 năm Mậu Ngọ (26-11-1918) [22], ở tuổi 37.

55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Tlvd7110

Bà Nguyễn Tường Nhu nhũ danh Lê Thị Sâm, ảnh Nguyễn Tường Giang

Bà Nguyễn Tường Nhu lập nghiệp tại Cẩm Giàng

Như trên đã nói, khoảng năm 1916, ông Nhu mất việc ở Hà Nội, gia đình phải dọn về Cẩm Giàng, nhờ vả bên ngoại. Bà Nhu xin được một mảnh đất ở giữa phố huyện Cẩm Giàng, một bên là mấy hiệu khách lớn, sau lưng là đường xe hỏa, bà dựng căn nhà đầu tiên, một căn nhà tre năm gian, lợp lá gồi, hai gian mở cửa ra phố để bán các thứ lặt vặt và thuốc lào” (Nguyễn Thị Thế, trang 32) rồi đón chồng con ở nhà bà ngoại về.

Bà Nhu trộn thuốc lào rất ngon, nên việc buôn bán khá phát đạt. Cửa hiệu của bà tên là Cẩm Lợi, sau này con dâu bà là Phạm Thị Nguyên, vợ Nguyễn Tường Tam, sẽ lấy lại tên Cẩm Lợi làm tên cửa hiệu bán cau khô.

Bà Phạm Thị Nguyên sẽ trở thành bà Cẩm Lợi trong hai cuốn hồi ký Nhất Linh cha tôiCăn nhà An Đông của mẹ tôi của nhà văn Nguyễn Tường Thiết, con út Nhất Linh.

Đến vụ gặt tháng mười, bà Nhu đi cân gạo bán, đời sống càng thêm sung túc. Từ đây, việc cân gạo, cân thóc để bán lại, sẽ trở thành nghề để nuôi con. Thụy, Cẩm, trọ ở Hà Nội, học trường Bưởi; Tam, Tư, học trường Huyện, rồi xuống Hải Dương trọ học.

Vài năm sau, vì một biến cố[23], bà Nhu đành phải xin mẹ một miếng đất khác để dỡ nhà về đó:

Nhà mới mẹ tôi làm mặt trước trông ra vườn rau bà ngoại: mặt sau làm thêm một căn nhà ba gian trông ra chợ. Chái nhà làm nơi đun bếp nấu ăn”. (Nguyễn Thị Thế, trang 54).

Đó là căn nhà thứ hai. Lần này bà Nhu dựng nhà trong đất của mẹ, phải chung đụng với mấy người em, nên có sự bất hoà. Bà Nhu tiếp tục tần tảo buôn bán nuôi chồng, con. Cuộc sống khó khăn, cửa hàng vắng dần khách, bà để hai chị em Thế và Vinh (Thạch Lam) mới chín, tám tuổi trông hàng, bà cùng anh Tráng (người làm trung thành) đi cân gạo ở các tỉnh, có khi một, vài tháng mới về nhà. (Nguyễn Thị Thế, trang 46).

Những hình ảnh về Cẩm Giàng và hai đứa trẻ trông hàng ban đêm được Thạch Lam viết lại trong truyện ngắn hay nổi tiếng Hai đứa trẻ. Và ở Hương Cảng, sau khi Hoàng Đạo mất, năm 1949, Nhất Linh viết truyện ngắn Thương chồng, với lời đề tặng: “Thân tặng Mẹ, để kỷ niệm những ngày nghèo khó ở Cẩm Giàng, mẹ phải thức khuya dậy sớm đi cân gạo để nuôi chúng con ăn học.” N.L.

Nhất Linh mô tả cử chỉ và tâm trạng người mẹ, ngày đầu tiên “thực tập” nghề cân gạo như sau:

Nhung giơ tay xê dịch quả cân: tuy chưa quen nhìn gạo mà biết được đúng số cân nhưng nàng cũng đoán hai bị gạo của bác Đạt độ bốn mươi cân. Nàng xê quả cân đến nấc năm mươi vẫn thấy cân bổng lên; nàng vừa xê quả cân vừa lẩm bẩm:

Bác Đạt còn khoẻ nhỉ gánh nổi hơn năm mươi cân tây gạo”
(Thương chồng, trang 11).

Bác Đạt phản đối vì gạo của bác chỉ độ bốn mươi cân thôi! Hoá ra vì bác tựa người vào đòn gánh mà đòn lại chống lên mặt cân, nên gạo của bác mới nặng thế! Và Nhung đã đoán đúng: bốn mươi cân. Sự thông minh của người đàn bà này sẽ là kim chỉ nam dẫn đường cho nàng trong cuộc đời còn lại. Hình ảnh người phụ nữ cân gạo nuôi gia đình, bàng bạc trong tác phẩm của Nhất Linh, ngoài cô Nhung trong Thương chồng, sẽ còn có cô Mùi trong Xóm Cầu Mới.

Goá phụ nuôi con

Năm 1918, Bà Nhu sang Lào chôn cất chồng rồi trở về Cẩm Giàng, lo cho bẩy con và một mẹ chồng.

Một năm sau, bà đưa di cốt chồng về chôn tại thôn Trữ La, huyện Cẩm Giàng.

Năm 1919, Nguyễn Thị Thế đang học lớp nhì trường Huyện, mới 10 tuổi phải nghỉ học, giúp bà và mẹ. Những năm sau đó, đầy khó khăn, nợ nần chồng chất, nhưng bà Nhu không bao giờ chùn bước phấn đấu để các con trai được học hành đến nơi đến chốn.

Khi hai người con đầu lòng Thụy và Cẩm, đậu bằng Cao Tiểu[24], làm giáo viên tiểu học, nhà đỡ túng hơn, nhưng bà Nhu vẫn đi cân gạo.

Năm 1923, Thụy, người con cả, lên làm đốc học trường tiểu học Tân Đệ (Thái Bình), bà đưa các con về Tân Đệ ở với Thụy trong một thời gian, nhưng vẫn tiếp tục buôn bán.

Nguyễn Tường Cẩm, người con thứ nhì, thi đỗ vào trường Cao đẳng Canh Nông, học xong ba năm, ra làm Tham tá Canh Nông, thường phải đổi đi nhiều nơi, thỉnh thoảng mới về Hà Nội.

Năm 1923, Nguyễn Tường Tam đậu bằng Cao tiểu, xin được việc làm ở sở Tài Chính[25].

Bà Nhu dọn về Hà Nội. Nguyễn Tường Tam viết Nho Phong (1924), in tại Nghiêm Hàm ấn quán, năm 1926. Sau đó viết Người quay tơ (1927).

Cũng trong thời gian này, Nguyễn Tường Tam đặt lại tên cho các em: Ngày trước người cha đặt tên các con là: Thụy, Cẩm, Tam, Tư, Năm, Sáu, Bẩy. Nguyễn Thị Thế kể lại: “Năm đó, tôi nhớ anh Tam đã viết Nho Phong và tôi khoảng 14, 15 tuổi, bấy giờ anh Tam mới nghĩ tới việc đặt tên anh em chúng tôi theo bộ chữ [Thụy, Cẩm, Tam, Long, Vinh, Bách, Thế (Ba con rồng bằng gấm đẹp muôn đời)]. Tôi là con gái nên lấy chữ cuối” (Nguyễn Thị Thế, trang 39). Sau này Nguyễn Tường Vinh đổi tên một lần nữa, thành Nguyễn Tường Lân (trùng tên với họa sĩ Nguyễn Tường Lân).

Anh em Nguyễn Tường học rất giỏi, thường tự học, nhảy lớp, nên luôn luôn bị thiếu tuổi khi xin nhập học, do đó phải làm giấy khai sinh giả để lên tuổi: Nhất Linh sinh ngày 25-7-1906, nhưng giấy khai sinh ghi ngày 1-2-1905[26].

Bình thường phải học 4 năm trung học, mới đỗ bằng Cao Tiểu, nhưng Thụy, Cẩm, Tam chỉ học ba năm; Long, hai năm và Lân phá kỷ lục, tự học, có một năm[27].

55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Tlvd7210

Trại Cẩm Giàng, ảnh Nguyễn Tường Giang

Lập trại Cẩm Giàng

Lập trại Cẩm Giàng là đoạn đường thứ hai của bà Lê Thị Sâm, khi các con đã lần lượt trưởng thành, đi làm, hàng tháng đóng góp tiền giúp mẹ.

Sau khi Nguyễn Tường Tam ở Pháp về. Năm 1931, bà dựng trại Cẩm Giàng; định mua đất, thì có người bạn đi buôn trước vay tiền, nay có hai mẫu ruộng muốn gán để trừ nợ. Bà nhận.

Bắt đầu đào ao để lấy đất làm nền nhà. Xung quanh có hàng rào trồng toàn trúc. Nhà làm bằng gỗ lợp rơm, cột vuông, xung quanh nhà bốn mặt đều là hàng hiên rộng. Nhà có ba gian, gian đầu làm phòng khách, ở giữa thờ ông bà, gian trong để ở. Trần nhà lát nứa đập thẳng. Mái lợp rơm rất dầy, tới nửa thước, xén đều rất đẹp. Quanh nhà có lan can gỗ, trông đẹp như nhà Nhật Bản, ai đi qua cũng khen nhà lợp bằng gì mà đẹp thế.

Cây cối rất khó trồng vì đất xấu. Ban đầu mẹ tôi trồng toàn chuối để đất xốp đã. Những đêm có trăng, ánh trăng chiếu xuống vườn sáng như tráng bạc. Cây cối trong vườn lần lần tốt, bờ rào trúc đã gần kín (…) Tôi cũng không ngờ rằng trại Cẩm Giàng sau này sẽ là nơi tụ họp đông đảo của nhóm Tự Lực Văn Đoàn và thân hữu, nó còn là bối cảnh cho nhiều cuốn tiểu thuyết nổi danh của các nhà văn nổi tiếng bạn bè của anh em tôi”
(Nguyễn Thị Thế, trang 108-109).

Trại Cẩm Giàng, như thế, đã được xây dựng từ trước khi có báo Phong Hoá. Sau này sẽ được bà Nhu sửa sang, xây thêm nhà gạch, và sẽ là chỗ hội họp của Tự Lực Văn Đoàn và các văn hữu. Dường như người mẹ này đã tiên đoán và dự trù tất cả: ở chỗ nào, bà cũng tạo cho các con đầy đủ phương tiện để phát triển đường đi của mình.

Năm 1942, sau khi Thạch Lam mất, bà Nhu đón vợ con Thạch Lam về Cẩm Giàng.

Nhưng cảnh mẹ chồng nàng dâu không dễ sống. Người con dâu đã phải chịu nhiều cay đắng.

Ít lâu sau, bà Nhu quy y, để trại Cẩm Giàng cho Nguyễn Thị Sói, vợ goá Thạch Lam trông nom. Tường Nhung kể: “Phần nhà trên [nhà gạch bà] khoá lại, mấy mẹ con chúng tôi dọn xuống căn nhà Ánh Sáng [nhà tranh][28].

(Còn tiếp)

Thụy Khuê


[1] Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường: Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam của Nguyễn Thị Thế, nxb Sống in lần đầu (1974), tại Sài Gòn. Văn Hóa Ngày Nay, tái bản lần thứ ba, 1996, tại Hoa Kỳ.

[2] Việt Nam những ngày lịch sử của Nguyễn Tường Bách, Nhóm Nghiên cứu sử địa xuất bản, Montréal, 1981.

[3] Việt Nam một thế kỷ qua I và II, của Nguyễn Tường Bách, Thạch Ngữ, California, 1999 và 2000.

[4] Nhất Linh cha tôi, Văn Mới, California 2006, đã tái bản ở trong nước.

[5] Căn nhà An Đông của mẹ tôi, Văn Mới, California 2012.

[6] In trên báo Văn số 14 (7-7-1964) Tưởng Niệm Nhất Linh, trang 45-72.

[7] In trên Văn số 36 (15-6- 65) Tưởng niệm Thạch Lam.

[8] In trên báo Văn số 107-108 (15-6-68) Tưởng niệm Hoàng Đạo.

[9] In trên báo Văn số 22 (15-11-1964) Tưởng niệm Khái Hưng, trang 17-22. Sau ông viết lại thành bài Papa toà báo, in trên Kỷ yếu triển lãm và hội thảo về báo Phong Hóa Ngày Nay và Tự Lực Văn Đoàn, NXB Người Việt, 2014, California, trang 30-33. Hai bài không hoàn toàn giống nhau.

[10] Bài này in trong tập Kỷ yếu triển lãm và hội thảo về báo Phong Hóa Ngày Nay và Tự Lực Văn Đoàn, NXB Người Việt, 2014, California, trang 218-229. Sau sửa lại và viết thêm thành Bà Nội và trại Cẩm Giàng, in trên Internet, nhà thơ Nguyễn Tường Giang gửi cho tôi làm tài liệu. Tiếc rằng Nguyễn Tường Nhung trong Mẹ tôi, bà Thạch Lam và Từ Dung trong bài Mẹ tôi, in trong tập Kỷ yếu, đều không ghi tên mẹ. Sự trọng nam khinh nữ vẫn còn dấu vết đến ngày nay chăng?

[11] Khói hồ bay của Nguyễn Tường Giang, nxb Thạch Ngữ, 2012.

[12] Sách Đại Nam Liệt truyện viết về ông như sau: “Người huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam, trước ngụ ở Gia Định“[12]; lại ghi: “Năm Bính Thìn (1796) [Vân] đi thi, trúng cách nhị trường, được bổ lễ sinh ở phủ, nhắc lên viện thị thư.” Nguyễn Tường Vân thi kỳ tháng 3 năm Bính Thìn (4-5-1796), tức là thi Chính đồ, mà ông lại trúng cách nhị trường, tức là đỗ sinh đồ, tương đương với tú tài được bổ làm lễ sinh ở phủ.

[13] Năm 1796, Gia Long còn là Nguyễn Vương, đang đánh nhau với Trần Quang Diệu ở Quy Nhơn, đến năm 1802 ông chinh phục toàn thể đất nước và lên ngôi vua.

[14] Năm Tự Đức thứ sáu (1852), được bổ Giáo thụ Điện Bàn (Quảng Nam), ít lâu sau làm Quản lý nhà in phủ Học Chính.

[15] Huyện Thủy Nguyên ở gần Hải Phòng, ngày trước thuộc tỉnh Quảng Yên; năm 1950, thuộc tỉnh Kiến An; ngày nay thuộc thành phố Hải Phòng.

[16] Theo mấy trang Hồi ký của Nhất Linh: Đời thi sĩ, in trong Văn học nghệ thuật của Võ Phiến, Bộ Mới, số 3, tháng 7-1985, California, trang 313.

[17] Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường: Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam của Nguyễn Thị Thế, nxb Sống in lần đầu (1974), tại Sài Gòn. Văn Hóa Ngày Nay, tái bản lần thứ ba, 1996, tại Hoa Kỳ.

[18] Trích theo mấy trang Hồi ký của Nhất Linh:Đời thi sĩ, in trong tập san Văn học nghệ thuật của Võ Phiến, Bộ Mới, số 3, tháng 7-1985, California, trang 310.

[19] Trích từ mấy trang Hồi ký của Nhất Linh:Đời thi sĩ, in trong Văn học nghệ thuật của Võ Phiến, Bộ Mới, số 3, tháng 7-1985, California, trang 310.

[20] Thương chồng, Đời Nay, in lại ở Mỹ, không đề năm, trang 25.

[21] Thương chồng, Đời Nay, in lại ở Mỹ, không đề năm, trang 30.

[22] Theo ngày giỗ, do Nguyễn Tường Nhung ghi lại, trong bài Bà nội và trại Cẩm Giàng (tài liệu của Nguyễn Tường Giang).

[23] Một chuyền tầu đêm bắn than vào mái tranh làm cháy cả một dẫy nhà, chủ nhân đòi bồi thường, nên sở hỏa xa trả đũa, bắt các nhà cạnh đường rầy phải dời xa đường xe lửa 10 thước (Nguyễn Thị Thế, trang 44).

[24] Bằng Cao Tiểu, tức Cao Đẳng Tiểu Học, hay bằng thành chung, tương đương với bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp, thời VNCH. Sau khi đỗ bằng Cao Tiểu, học sinh có thể học lên đệ nhị cấp, để thi tú tài, hoặc đi làm, hoặc thi vào các trường Cao đẳng như: Y dược (ban y dược Đông dương), Thú y, Sư phạm, Canh nông, Công chánh, Thương mại. (Đặng Hữu Thụ, Làng Hành Thiện thời Tây học cho đến năm 1954, quyển thượng, tác giả tự xuất bản, Melun, Pháp, 1999, trang 146).

[25] Cùng sở với Tú Mỡ.

[26] Theo tài liệu của Nguyễn Tường Thiết, gửi qua email 15-5-2020.

[27] Theo Tiểu Sử Nhất Linh của Nguyễn Ngu Í, Sống và viết với… nxb Bách Khoa, Xuân Thu tái bản ỏ Hoa Kỳ, không đề năm, trang 20.

[28] Nguyễn Tường Nhung, Bà nội và trại Cẩm Giàng, tài liệu của Nguyễn Tường Giang.


Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7115
Registration date : 01/04/2011

55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng   55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 I_icon13Fri 10 Sep 2021, 11:07

TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG

Thuỵ Khuê

Trại Cẩm Giàng


Phần II


55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Tlvd7310


Bẩy anh chị em Nguyễn Tường

Sở dĩ tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn có hấp lực lớn lao với độc giả, vì, ngoài tài năng của các nhà văn, còn có sự hậu thuẫn bằng chất liệu lấy ra từ chính đại gia đình họ: ở Khái Hưng là một gia đình quyền quý, đa thê, mẹ ghẻ, con chồng. Và ở Nhất Linh là nhà nghèo, các con phải tự học để lập thân, là bi kịch mẹ chồng nàng dâu, trọng nam khinh nữ và sự phân chia giai cấp trong chính gia đình ông.

Vì vậy, tìm hiểu gia đình Nguyễn Tường cũng là một cách tìm hiểu cuộc đấu tranh quyết liệt của Tự Lực Văn Đoàn để thay đổi những xấu xa trong xã hội, xuất phát từ gia đình, trong tác phẩm văn học.

Gia đình Nguyễn Tường có bẩy anh chị em.

1- Nguyễn Tường Thụy, con cả, sinh năm 1903, tại Cẩm Giàng. Sau khi đậu bằng Cao tiểu (tức Cao đẳng Tiểu học hay bằng Thành chung, tương đương với bằng Trung Học sau này), ông phải đi dậy học để giúp đỡ mẹ nuôi các em. Ông Thụy được mẹ cưới vợ năm 1926.

Nguyễn Tường Bách, người em út viết về người anh cả:

Nhà đông anh em, anh là người từ lúc còn trẻ đã phải ra làm giáo viên để chia đỡ gánh nặng trong gia đình, đã góp phần cung dưỡng các em ăn học thành người. Nhất là đối với tôi, anh là người giúp đỡ nhiều nhất. Tôi ở với anh mấy năm, trong khi tôi học tiểu học tại huyện Thư Trì (…) nhờ sự dạy dỗ và săn sóc của anh (…). Ở Thư Trì anh xung đột với viên tri huyện, không chịu làm trái, để chiều lòng tay này. Khi cãi nhau, anh nói độp vào mặt hắn: “Thằng đếch nào cũng chẳng làm gì được thằng nào… và chẳng bao lâu sau, anh bị nha Học chính đổi đi Bắc Cạn.

Trong thời gian này, người vợ đầu tiên của anh ở lại Hà Nội, lúc sinh con đầu lòng đẻ khó đã chết cả mẹ lẫn con
[theo Nguyễn Thị Thế, thì con chết ba tháng sau mẹ] trong khi anh còn ở xa trên mạn ngược. Lúc anh về được đến nhà thì chị Cả đã được chôn cất xong rồi. Tuy còn bé nhưng tôi cũng cảm thấy anh đau thương vô hạn. Tôi hết sức đồng tình với anh, nhất là vì trong nhà bất hoà với tấn kịch mẹ chồng nàng dâu bi đát. Hình như là chị đã mang cả cái oan ức xuống suối vàng, người chị dâu hiền lành ít nói của tôi. Lúc còn sống chị chỉ biết ngậm ngùi một mình.[1]

Đây là bi kịch đầu tiên trong gia đình được Nguyễn Tường Bách ghi lại trên giấy: Sự xung đột mẹ chồng nàng dâu. Sẽ được Nhất Linh tiểu thuyết hoá trong Đoạn tuyệt sau này.

“Trong cuốn nhật ký của anh, ngẫu nhiên tôi đọc được mấy hàng chữ Pháp: “me plonger dans l’étude comme dans une mer de l’oubli…” (ta dấn mình vào học tập như vào một bể cả lãng quên…)”. Sau bi kịch đó, Nguyễn Tường Thụy dấn mình tự học, đỗ tú tài, thi vào ngạch công chức Pháp, sau này làm tới chức Giám Đốc Bưu Điện.

Năm 1930, bà Nhu cưới vợ lần thứ hai cho ông Thụy, gia đình giầu có nhất nhì ở phố hàng Gai, người vợ rất đảm đang, buôn bán giỏi. Gia đình ông Thụy giầu sang. Việc này trở thành cái hố chia cách sâu xa giữa người anh cả và các em. Nguyễn Tường Bách viết: “Cuộc đời công chức khá giả của anh so với cuộc đời tương đối lãng mạn của các anh em khác, đã là một nguyên nhân của sự cách biệt giữa anh em. Mà đối với mẹ tôi thì như khó xoá nhòa được những mâu thuẫn, trong đó vần đề mẹ chồng nàng dâu vẫn còn dưới hình thức khác. Vì thế có khi anh cũng buồn và tức. Anh giận mọi người lãnh đạm với anh. Có một lần trong ngày Tết, anh chỉ vào mặt tôi mà nói: “Còn thằng này nữa, tôi đã nuôi nấng dạy dỗ nó mà nó cũng thế cả. (…) Tới những năm 39-40, chúng tôi bước vào con đường đấu tranh, tuy anh không đả động gì đến hay không can dự gì cả nhưng tôi cảm thấy rõ ràng trong thâm tâm anh, sự tán thành và đồng tình đối với lòng ái quốc.” [2]

Những hàng trên đây của Nguyễn Tường Bách không chỉ tóm tắt cuộc đời của người anh cả, hiểu tại sao ông không tham dự vào những hoạt động của các em mà còn vẽ lại bi kịch của một con người, đã vượt qua tất cả những bất công trong một xã hội thối nát từ trong ra ngoài: nhà nghèo phải nghỉ học sớm để kiếm tiền phụ mẹ nuôi em. Đi dạy học bị quan huyện sách nhiễu, cưỡng lại, bị đầy lên Bắc Cạn. Ở nhà vợ bị cảnh áp chế mẹ chồng nàng dâu. Vợ con chết. Uất ức, tự học để lập thân. Rồi trở thành nhà giầu, quyền cao chức trọng. Bị anh chị em lạnh nhạt: Cuộc đấu tranh giai cấp cũng nằm trong gia đình. Bắt đầu với người anh cả, sau tới người anh thứ tư Nguyễn Tường Long, qua lời Thế Uyên.

Ông bà Nguyễn Tường Thụy sinh các con: Nguyễn Tường Hùng, Nguyễn Tường Bá, Nguyễn Thị Nguyệt, Nguyễn Tường Lưu, Nguyễn Thị Nhật, Nguyễn Tường Quý, Nguyễn Thị Hồng, Nguyễn Tường Cường.

Người con trưởng là nhà văn Tường Hùng, có tác phẩm Gió mát, do Đời Nay in năm 1954 tại Sài gòn. Tường Hùng cộng tác đắc lực với Nhất Linh trong tạp chí Văn Hóa Ngày Nay. Ông sang Pháp du học ngành kiến trúc, sau này thỉnh thoảng có viết truyện ngắn gửi đăng báo Văn ở Sài Gòn. Tường Hùng có đủ yếu tính văn nghệ của Nhất Linh và Thạch Lam: văn thơ mộng có cấu trúc thơ, ý lạ, nhận xét tinh vi, cảm xúc khác thường. Tiếc rằng ông viết ít, và viết rất tài tử nên không đào sâu vào những ngõ ngách ông đã khơi ra, đọc truyện ông người ta không khỏi có cảm giác như còn dang dở, chưa viết hết.

2- Nguyễn Tường Cẩm, sinh năm 1904 tại Cẩm Giàng. Giống anh, đậu bằng thành chung xong, ông cũng phải đi dạy học để kiếm tiền giúp đỡ mẹ nuôi các em. Sau ông tự học thi đỗ vào trường cao đẳng canh nông, trở thành kỹ sư canh nông.

Cuộc đời tình cảm của ông có nhiều thăng trầm: ba đời vợ. Ông phải thuyên chuyển đi khắp nơi vì nghề canh nông, nhưng có lẽ ở Sài Gòn nhiều hơn cả. Nguyễn Tường Cẩm thích văn chương, đã có bài đăng Phong Hóa, mấy số đầu, như: Thomas Bata, nhà đóng giầy trứ danh mới từ trần (PH số 16, 6-10-32), truyện ngắn Bích Châu (PH số 67, 6-10-33).

Ông bị bệnh hen nặng. Cuối năm 1934, về Hà Nội chữa bệnh, đúng dịp Nhất Linh định ra báo Ngày Nay có hình ảnh, bèn giao cho ông làm giám đốc Ngày Nay từ số 1 (30-1-35) đến số 5 (10-3-35). Nhưng Ngày Nay bị lỗ lã trầm trọng, cứ ra được vài số lại phải nghỉ. Nhất Linh thay anh làm giám đốc tờ báo, Nguyễn Tường Cẩm trở về với nghề kỹ sư canh nông.

Trong thời gian phụ trách Ngày Nay, ông ký tên Minh Trúc, viết bài Nền Mỹ thuật Việt Nam (NN số 3, 20-2-35), nhiệt tình giới thiệu trường Mỹ Thuật Đông Dương và giáo sư Victor Tardieu. Trong gia đình, ông là người trực tiếp sống với dân quê nhiều hơn cả, ông viết bài xã luận Dân quê (NN số 4, 1-3-35) cũng là bài xã luận đầu tiên trên Ngày Nay, tố giác đời sống hủ lậu, mê tín và khốn khổ của dân quê và đặt câu hỏi: “Có thể khác thế được không? Họ có thể sống một đời đáng sống hơn được không?” Bài này đi cùng với bài phóng sự Nhà cửa Annam của Việt Sinh (Thạch Lam), là hai bài mở đường cho chương trình Nhà Ánh Sáng của Tự Lực Văn Đoàn sau này.

Mặc dù Nguyễn Tường Cẩm đã bỏ báo Ngày Nay từ số 6 (2-4-35), và theo lời Nguyễn Tường Bách, ông không dính líu gì đến Quốc Dân Đảng; nhưng đến năm 1947, Nguyễn Tường Cẩm vẫn bị Việt Minh bắt đi mất tích. Ông có một người con trai duy nhất là Nguyễn Tường Tâm, được bà nội nuôi dưỡng.

3- Nguyễn Tường Tam sinh ngày 25-7-1906, tại huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương. Là chủ soái Tự Lực Văn Đoàn. Đảng trưởng đảng Hưng Việt, đổi thành Đại Việt Dân Chính sau sát nhập vào Việt Nam Quốc Dân Đảng.

Thích văn chương từ nhỏ, mười tuổi đã tập làm thơ. Năm 16 tuổi, có thơ đăng báo Trung Bắc Tân Văn, và năm 18 tuổi, viết bài Mấy lời bình luận về văn chương truyện Kiều, ký Nguyễn Tường Tam, được đăng trên Nam Phong số 79 (tháng 1-1924). Bài này chưa có gì đặc sắc nhưng đưa ra một ý lạ: nên lấy truyện Kiều làm mẫu để viết văn quốc ngữ:

Nhưng nói đến cái hay của văn Kiều thì chưa biết đến thế nào mà kể được. Ta chỉ nên nhận rằng văn chương Kiều có thể làm cái mẫu rất tốt cho văn chương quốc ngữ, và người nào làm văn cũng nên theo cách làm văn trong truyện Kiều, vì những câu thơ trong truyện đó đã tới được điểm. Tôi xin nói quyết một điều rằng: “Mong được một quyển truyện nào hay hơn truyện Kiều là mộng tưởng”. Cái trình độ thơ quốc ngữ [quốc âm] đến như thế là tuyệt đích rồi. Cái phần ngang thì họa may, cái phần hơn thì không có nữa. (Nam Phong số 79, trang 30).

Năm 1923, Nguyễn Tường Tam đậu bằng Cao Tiểu (Thành chung), vào làm việc ở sở Tài Chính, gặp Tú Mỡ, viết Nho Phong (1924), rồi Người quay tơ (1927).

Năm 1924, Nguyễn Tường Tam học một năm Y khoa rồi bỏ[3].

Năm 1925, ông thi đỗ vào trường Mỹ Thuật Đông Dương, khoá đầu tiên, học cùng lớp với Nam Sơn, Nguyễn Phan Chánh, Lê Phổ, Lê Văn Đệ, Mai Thứ… Nhờ năm học này mà ông có nhóm bạn họa sĩ và kiến trúc, sau này, họ sẽ hợp tác chặt chẽ với Phong Hoá Ngày Nay, để vẽ hý họa trên báo và đưa mỹ thuật vào đời sống. Chúng tôi sẽ nói đến việc này trong chương viết về trường Mỹ thuật Đông Dương và Nhà Ánh Sáng.

Nhưng chỉ học được hơn một năm, Nguyễn Tường Tam bỏ trường Mỹ Thuật. Trả lời phỏng vấn của Nguyễn Ngu Í, ông cho biết: “Mang giá, cọ màu, về nhà quê vẽ, tôi thấy đời sống dân khổ quá, tối tăm quá, cần phải làm gì cho lớp đồng bào ấy. Mà giá, cọ, màu không giúp được, thì phải bỏ qua bên”.[4]

Lý do bỏ vẽ được trình bày sâu sắc và đầy đủ trong tiểu thuyết Tối tăm! Bùn lầy nước đọng, ký tên Nhất Linh và Khái Hưng, in trên Ngày Nay năm 1936[5].

Năm 1925, ông cưới cô Phạm Thị Nguyên (1907-1981)[6], nhà bán cau khô ở phố Hàng Bè.

Bà Nguyễn Tường Nhu thuê nhà ở phố Cầu Gỗ, gần đó, để làm đám cưới cho con:

Đám cưới xong, mẹ tôi lại đi cân gạo cùng các bà bạn. Anh Tam cũng thôi đi làm, xin vào học trường Cao Đẳng hội họa. Chị Tam dọn hàng bán cau ngay ở nhà (…) Anh Cả tôi dạy ở Phượng Xuyên, anh hai vào học Canh Nông, anh Tư học trường Luật. Ngày chủ nhật các anh mới ra gặp nhau. Bà nội và tôi phụ giúp chị Tam bán cau (…) Cau khô được gửi từ Quảng Nam, Quảng Ngãi ra, vỏ cau vàng xấu trông không đẹp, chị tôi phải xây một cái lò cho cau vào, ở dưới đốt diêm sinh dòng dã một ngày cho miếng cau trắng ra. Ôi cái mùi diêm sinh tôi cũng không chịu nổi! (Nguyễn Thị Thế, trang 96).

Gia cảnh lúc đó khá sung túc, được Nguyễn Thị Thế mô tả như sau:

Bà nội già yếu vẫn ở trông hàng phụ với chị Tam. Mẹ tôi cũng nghỉ cân gạo vì anh Tư học xong trường Luật ra làm sở kho bạc nên bắt mẹ nghỉ buôn bán cho khoẻ. Bà thuê một căn nhà ở Hậu Giám[7] nhà Tây hai từng, đằng trước có đường tầu điện chạy Hà Đông, bên kia là Văn Miếu (…) Về ở với mẹ tôi lúc đó có anh Tư, anh Hai (lúc đó làm ở sở Công Nông) em Sáu, em Bẩy (…) Trong nhà tương đối đầy đủ, anh Tư đi làm bằng xe nhà có người kéo… cơm thì có bếp nấu (…) Gia đình xum họp được hơn hai năm, anh Tư phải đổi vào Sài Gòn. Mẹ tôi không đi theo được, nhưng thấy anh Tư buồn nên cho em Sáu đi theo (…) Được ít lâu sau, anh Hai cũng đổi vào Sài Gòn, sau lấy vợ ở Sài Gòn luôn, nhưng chị Hai lại là người Bắc. Anh tôi thuê một miếng đất, làm nhà gỗ, ba anh em về ở với nhau. (Nguyễn Thị Thế, trang 99-100).

Ở Hà Nội, bà Nhu thuê căn nhà nhỏ ở Đỗ Hữu Vị, mỗi tháng 60 đồng, để ở với Thế và Bách.

Ngày 17-8-1926, bà Nguyễn Tường Tam sinh đôi hai gái đầu lòng: Nguyễn Thị Kim Thư[8] và Nguyễn Thị Kim Thanh. Bé Thanh bị rơi xuống ao chết đuối hồi nhỏ ở Cẩm Giàng[9]. Bà Tam sinh 13 lần nhưng chỉ nuôi được 7[10]. Sau khi chồng đi du học Pháp trở về, bà sinh các con: Nguyễn Tường Việt (19-9-1931), Nguyễn Tường Triệu (15-11-1932), sẽ là con nuôi Khái Hưng, Nguyễn Tường Thạch (6-10-1935), Nguyễn Thị Kim Thoa (5-3-1938)[11] và nhà văn Nguyễn Tường Thiết (23-10-1940)[12].

Theo tiểu sử Nhất Linh của Nguyễn Ngu Í: “Vốn tính thích phiêu lưu”, năm 1926, Nguyễn Tường Tam vào Nam, gặp Trần Huy Liệu, Vũ Ðình Di định cùng làm báo, nhưng vì Liệu và Di dự đám tang Phan Chu Trinh [cụ Phan mất ngày 24-3-1926, tang lễ ngày 4-4-1926], đã bị bắt, Nguyễn Tường Tam chạy sang Cao Miên vẽ tranh cho các vị quan ở Cao Miên, kiếm tiền đi Pháp. Tường Lân cũng muốn đi du học cùng với anh, nhưng vì xin đi học chữ nên bị bác đơn, còn Tam xin học nghề chụp ảnh nên được chấp nhận[13].

Nguyễn Thị Thế viết:

Bên chị Tam thì anh Tam tôi bỏ học vẽ, vào Sài Gòn được ít tháng, anh về khoe với mẹ tôi là anh vào Sài Gòn rồi đi sang Lào vẽ phông cho rạp hát được ít tiền, anh xin phép mẹ tôi qua Pháp, bà bảo qua bên đó những mấy năm lấy tiền đâu ăn học. Anh bàn là nghe nói trong Huế có một cái hội gọi là Hội Du học Bảo trợ, do các quan đại thần lập ra để cho con cháu các quan đại thần hoặc các vị có công với nước. Vì vậy cả nhà lo giấy tờ xin học bổng, cho cả em Sáu nữa. (…) Chỉ có anh Tam được, còn em Sáu họ nói nhỏ quá không nên cho đi (…) Một tháng ăn tiêu bên Pháp mỗi tháng phải mất một trăm sáu chục đồng. Hội cấp cho tám mươi đồng, còn lại nhà phải lo lấy. Chị Tam lúc đó đã hai con lại phải phụng dưỡng bà nội nên mẹ không bắt chị lo nữa, chỉ thỉnh thoảng gửi thêm một ít tiền để mua sách vở quần áo hoặc gửi thức ăn sang.
(Nguyễn Thị Thế, trang 104-105).

Việc này chứng tỏ:

Bà Nhu kiểm soát toàn diện đời sống các con, kể cả khi đã lấy vợ, làm gì cũng xin phép mẹ.

Bà Tam hoàn toàn để chồng tự do bay nhẩy: khi ông vào Nam định làm báo, bà đã có mang con đầu lòng, đến tháng 8-1926, bà sinh đôi, vừa coi cửa hàng cau, vừa trông nom bà nội chồng. Rồi khi chồng được mẹ cho phép đi du học, bà được “miễn” việc gửi tiền hàng tháng cho chồng bên Tây tiêu (vì nặng gánh gia đình?)

Nguyễn Tường Tam học ở Montpellier, cùng trọ một nhà với Nguyễn Mạnh Tường[14]. Gần ba năm sau, đỗ bằng cử nhân vật lý, ông trở về nước cuối năm 1930.

Ba mẹ con (bà Nhu, Tam và Thế) cùng về Huế tạ ơn các quan đã cấp học bổng, rồi vào Sài Gòn thăm anh Hai và anh Tư, trở ra Hà Nội đúng ngày 4 Tết (tức ngày 17-2-1931) (Theo Nguyễn Thị Thế, trang 106).

Nguyễn Tường Tam với bằng cử nhân, được mời dạy học ở trường tư Thăng Long (do ông Phạm Hữu Ninh sáng lập từ năm 1925), ở đây, gặp Khái Hưng, cùng xây dựng Tự Lực Văn Đoàn và Phong Hóa Ngày Nay.


55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Tlvd7410


Bà Thế viết:

Sau khi tờ báo đã vững vàng rồi. Các anh thấy mẹ tôi ở Cẩm Giàng có chuyện xích mích với bà hàng xóm xấu miệng, nên thuê nhà ở đường Quan Thánh gần toà báo, đón mẹ tôi lên ở, cùng với anh Tư, chú Sáu, chú Bẩy và hai vợ chồng tôi.

Tiền nhà Anh Tam lo, tiền ăn anh Tư làm tham tá lo, lương được một trăm mười bốn đồng, một tháng. Trại Cẩm Giàng để cho người nhà trông nom.
(Nguyễn Thị Thế, trang 117).

Toà soạn dọn về Quan Thánh từ Phong Hóa số 126 (30-11-1934). Vậy việc đón mẹ lên Hà Nội chỉ có thể xẩy ra năm 1935. Còn Hoàng Đạo cưới vợ năm 1933 và ở gửi rể, nên không ở chung với mẹ và các em nữa. Điều này chứng tỏ anh em Nhất Linh, Hoàng Đạo, không hề sao lãng bổn phận gia đình.

4- Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long sinh ngày 16-11-1907, tại làng Hàn Giang, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Thuở nhỏ học trường huyện, tên cha đặt cho là Nguyễn Tường Tư (chính ra là Tứ, nhưng vì trùng tên một người bạn của cha, nên đổi là Tư). Khoảng 1924, Nguyễn Tường Tam đặt lại tên cho các em, Tư trở thành Long.

Năm 1924, đậu bằng Cao tiểu, học Luật. Tốt nghiệp năm 1927, làm tham tá Ngân khố Hà Nội. Tiếp tục học thêm, đậu tú tài Pháp và chuyển sang ngạch Tư pháp, làm tham tá lục sự từ năm 1929, trong các toà “Tây án” ở các tỉnh Trung, Nam, Bắc. Lương Hoàng Đạo một trăm mười bốn đồng một tháng, theo Nguyễn Thị Thế. Trong thời gian này, có lần đã được bổ tri huyện, nhưng ông từ chối. Năm 1932, Nguyễn Tường Long đang làm việc ở Sài Gòn được đổi về Hà Nội, giúp anh làm báo và trở thành lý thuyết gia của Tự Lực Văn Đoàn.

Nguyễn Tường Long lập gia đình năm 1933 với cô Marie Nguyễn Bình. Gia đình giầu, có bốn cái nhà ở Hà Nội và một biệt thự ở Sầm Sơn. Cô Marie con một, học trường Pháp. Đám cưới do bà nội chủ trì, vì bà Nhu không tha thiết lắm. Hoàng Đạo đi xem mắt, bằng lòng, ông nhận lời ở rể (Nguyễn Thị Thế, trang 118-119).

Bà Hoàng Đạo (1913-1975), tên khai sinh là Marie Nguyễn Bình, nhà gọi là Nhã, trong gia phả họ Nguyễn Tường ghi tên Nguyễn Thị Nhã. Bà qua đời năm 1975 vì bệnh ung thư tại Sài Gòn. Trên mộ, bà dặn các con ghi tên Nguyễn Nhã, vì không thích chữ Thị. Cha là Nguyễn Bình, làm tham tá công chánh, quốc tịch Pháp. Villa của gia đình ở Sầm Sơn cũng tên Villa Nguyễn Bình. Sau bà đổi sang quốc tịch Việt.[15]

Sự giầu sang phú quý của gia đình bà hiện rõ trong bài Mẹ tôi của Từ Dung[16], con út Hoàng Đạo, với những lời ghi về mẹ: thuộc “gia đình quý phái, trưởng giả“, bà ngoại là “mệnh phụ đài các“, v.v…

Ông bà Nguyễn Tường Long có bốn con: Nguyễn Minh Thu (1934), Nguyễn Tường Ánh (1935) Nguyễn Lan Phương tức Nguyễn Lân (1937) và Nguyễn Từ Dung (1946)[17]. Nhà văn Đặng Thơ Thơ là con bà Minh Thu.

Sự giầu có của gia đình Hoàng Đạo gây chia rẽ vì nó tương phản với cái nghèo của gia đình Nguyễn Thị Thế và Thạch Lam.

Trong bài hồi ức Hoàng Đạo hay sự trở về quê cũ, in trên báo Văn số tưởng niệm Hoàng Đạo (Văn số 107-108, 15-6-68), Thế Uyên, đã nhớ về người bác: “ông là người trong họ tốt nhất và tử tế nhất”, nhưng ngay từ nhỏ, cậu bé Thế Uyên đã cảm thấy “cái khoảng cách” giữa các gia đình. Với các con của Nhất Linh, là bạn chơi từ nhỏ, cậu vẫn thấy mình xa cách với “các anh các chị“, còn “đối với gia đình Hoàng Đạo, thì không bao giờ có những loại giao thiệp như thế”. Gặp nhau ở một ngày giỗ, cậu thấy thích A, con trai duy nhất của Hoàng Đạo, đòi mẹ dẫn lên chơi nhà “bác Long” nhưng mẹ không bằng lòng [nhà Hoàng Đạo ở số 18 Amiral Courbet]. Nài nỉ mãi, mẹ cũng cho đi, nhưng gặp nhau, “tôi cũng e dè nhiều vì A. không hoàn toàn tự nhiên và mẹ tôi luôn luôn lừ mắt. Vài tuần sau, tôi lại đòi đi nữa nhưng mẹ tôi không chịu”. Thế là cậu bé đi tìm bạn một mình.

Tìm được đến cửa nhà, tôi với mãi mới tới cái chuông. Cánh cổng không mở, chỉ có một người đàn bà mở chiếc cửa nhỏ ra ngó tôi rồi gắt: “Mày làm cái gì mà kéo chuông ầm ỹ lên thế! Muốn cái gì?” Một đứa bé lên tám lên chín đi kiếm bạn, tính lại dút dát như tôi làm sao mà diễn tả được, cho một người lớn gọi nó bằng mày với giọng bực dọc như thế, điều mà nó muốn kiếm. Tôi lủi thủi đi về và từ đó về sau tôi xếp A. cùng gia đình vào một thế giới có chuông ở cổng, có chó bẹc-giê sủa vang, nghiã là một thế giới không có chỗ cho một đứa bé đen thui nghịch ngợm như-con-thuyền-chài. Không những không bao giờ tôi trở lại thăm gia đình ấy, ngay cả A. tôi cũng tìm cách lảng tránh trong những ngày gặp ở trại của bà ngoại: mẹ tôi cấm tôi chơi cùng và bác gái cũng không thích để A. giao thiệp“[18].

Đoạn văn này của Thế Uyên ghi ấn sâu đậm trong lòng người đọc. Bởi nó phanh phui trần trụi vấn đề phân chia gia cấp, mà không một lý thuyết nào có thể diễn đạt rõ và hay hơn. Người đọc hời hợt có thể tưởng rằng Thế Uyên “nói xấu” gia đình. Không, ông chỉ nói lên sự thực mà người khác không dám nói, không dám viết ra và đó là dấu ấn của một nhà văn đích thực. Trong suốt thời tuổi trẻ, ông đã xếp “bác Long” vào cái thế giới trưởng giả, nhà có chó béc- giê, một thế giới đáng nghi, không thể tiếp xúc. Nhưng từ khi tìm hiểu tác phẩm của Hoàng Đạo, ông lại càng bỡ ngỡ, đặt câu hỏi: “Gia đình thì như vậy mà tranh đấu và tư tưởng lại như thế kia”. Câu hỏi này vẫn còn có giá trị hôm nay, với những ai muốn nghiên cứu về Hoàng Đạo: Tại sao một người sống trong hoàn cảnh trưởng giả như thế, mà lại viết được Bùn lầy nước đọng, đào sâu vào nội tạng đen tối trăm mặt của đời sống dân quê, mà lại viết được Vấn đề cần lao, phanh phui tất cả tội ác thực dân trong những đồn điền cao su rừng sâu nước độc?

Thế Uyên đã có một lời kết thật hay:

Đem so sánh với các cuốn sách tôi đã viết, thì thấy tất cả ba tập tiểu luận đã xuất bản, tôi không dành cho quê hương cũ một số đề tài bằng nửa số đề tài của riêng cuốn Bùn lầy nước đọng và nỗi tha thiết cũng không sao bằng một góc (…) Quê hương đã biến đổi hay chúng ta đã trở thành kẻ tha hương trên chính đất nước mình?

Lời này Thế Uyên viết tháng 11 năm 1967, thật là cay đắng nhưng không xa sự thực. Không chỉ riêng Hoàng Đạo là người tranh đấu mãnh liệt hơn cả, mà Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam cũng vậy, như thể họ đã chia nhau phận sự viết về quê hương dưới thời Pháp thuộc. Khiến ngày nay, chỉ cần đọc họ, là chúng ta thấy rõ mọi khía cạnh tàn ác, hủ lậu, của một thời đại với những vấn nạn cần phải sửa đổi và họ đã thức thời, đã nhìn ra con đường tranh đấu, trước và trên những người khác. Thế hệ sau ở Sài Gòn, dường như không mấy ai quan tâm đến việc “đất nước” nữa, mà phần nhiều đi vào cá nhân con người, khám phá cuộc hiện sinh, tác phẩm của họ chứng minh nhận xét của Thế Uyên.

Vẫn trên báo Văn, số tưởng niệm Hoàng Đạo, ngoài bài Hoàng Đạo hay sự trở về quê cũ, còn có bài Đọc và đặt lại vị trí Hoàng Đạo cũng của Thế Uyên và bài Hoàng Đạo một vận động lịch sử của Dương Nghiễm Mậu. Đây là hai bài nghiên cứu sâu sắc đầu tiên về Hoàng Đạo.

Nhưng số báo tưởng niệm này bị ba bài viết của nhà nghiên cứu thời danh Nguyễn Văn Xuân áp đảo, mà hai bài có chủ đích hạ bệ Hoàng Đạo và Tự Lực Văn Đoàn:

Vài nét về giòng họ Nguyễn Tường

Từ phong trào Duy Tân đến Tự Lực Văn Đoàn.

Hoàng Đạo với Con đường sáng.

Bài đầu viết về tiểu sử dòng họ, không có gì đáng phàn nàn.

Trong bài thứ ba viết về tiểu thuyết Con đường sáng, ông Nguyễn Văn Xuân đã không ngần ngại tự khen mình: “Kể ra, có đủ can đảm ngồi đọc lại quyển Con đường sáng, tôi tự thấy vì một công tác phải hoàn thành chứ tình thực không sao tiếp tục nổi. Tôi không hiểu người đọc ngày nay tìm thấy niềm hứng thú nào khi xem quyển ấy tái bản“.

Một nhận định chủ quan và kiêu ngạo. Chủ quan vì ông nghĩ hộ người đọc. Kiêu ngạo vì cho rằng mình đầy can đảm và có một “công tác” phải hoàn thành. Công tác gì? Đó là vấn đề.

“Công tác” ấy hiển hiện trong việc ông cố tìm cách vạch ra những “cái dở” của Hoàng Đạo:

“Nói về việc phá rừng, phá rẫy, ông [Hoàng Đạo] có vẻ nhỏ nhoi cạnh Lê Văn Trương”.

“Nói về đồng quê, dân quê, nỗi khổ của đồng bào ta thì ông chỉ biết một cách lù mù, tổng quát, bên cạnh một khối những Ngô Tất Tố, Nam Cao, Tô Hoài.”

Ông Nguyễn Văn Xuân có quyền có những “nhận định” như trên, nhưng ông không nên viết một câu như thế này:

“Và cho đến ngày nay, dù Hoàng Đạo đã chết nhưng bọn Duy ấy, Minh ấy, Yến ấy đã chết chưa? [Duy, Minh, Yến là những nhân vật trong Con đường sáng] Đây là một câu văn thâm độc, trù ểm, đầy thù hận về một người mà ông Xuân không biết, không hiểu tác phẩm, vì ông chưa từng đọc Hoàng Đạo một cách đàng hoàng cẩn thận.

Bài thứ hai Từ phong trào Duy Tân đến Tự Lực Văn Đoàn, là một bài lập thuyết công phu, có ý thức, tác giả giới thiệu Hoàng Đạo bằng những lời rất hoa mỹ, phỉnh phờ:

Trong ý muốn tìm hiểu Hoàng Đạo như lý thuyết gia của một Văn Đoàn lớn, có ảnh hưởng vào một lớp thanh niên học thức (…) đường lối, chủ trương chính sách của Văn Đoàn đều do một tay ông tung hoành trong nhiều năm trời. (…) Tìm hiểu cho hết tính cách đa dạng và tài năng của Hoàng Đạo (…) cần phải đọc lại hết Phong Hoá Ngày Nay, Chủ Nhật… và tự đặt mình vào thời Pháp thuộc mới thấy rõ ông hơn.

Sau khi đọc lại hết Phong Hoá Ngày Nay, Chủ Nhật (chúng tôi chưa biết Chủ Nhật là báo nào, của ai), ông Xuân nhận thấy rằng: “Mười điều tâm niệm phản ánh tất cả chủ trương, đường lối của Hoàng Đạo và Tự Lực Văn Đoàn và của các biên tập viên hai báo Phong Hoá Ngày Nay: “Mười điều tâm niệm có thể xem như kim chỉ nam để mọi nỗ lực dồn vào và tiến lên bắt kịp nó bằng đủ phương tiện văn học, nghệ thuật và cả hoạt động xã hội nữa (áo tân thời Lemur, nhà ánh sáng, hôi chợ từ thiện, v.v… ”

Sau khi tôn vinh Mười điều tâm niệm, ông so sánh từng điểm một trong mười điều này với chính sách của phong trào Duy Tân và ông kết luận:

Không phải ngẫm nghĩ nhiều, bạn đọc thấy ngay là Tự Lực Văn Đoàn và Hoàng Đạo là lý thuyết gia, trên nhiều điểm tư tưởng và hành động còn sút kém xa phong trào Duy Tân 1904. (…) Tính chất của Tự Lực, từ tư tưởng đến hành động, gần như mang hẳn tự Tây phương về, quá nặng chủ nghiã cá nhân tiêu cực (…) Không phát xuất tự quần chúng rồi trở về quần chúng như phong trào Duy Tân. (…) Chủ nghiã cá nhân hẹp hòi và lạc lõng của Tự Lực Văn Đoàn đã tự giam mỗi con người một nơi trong môi trường ích kỷ nên không bao giờ họ biết quần chúng là ai. Lại thêm nhiễm tư tưởng trào phúng của Tự Lực Văn Đoàn, thanh niên chẳng biết cái gì là không đáng cười cợt. Ác hại là cái cười ấy thường chĩa mũi nhọn về phiá những người đáng thương yêu: quần chúng, nên cái nhìn của thanh niên thời ấy đối với quần chúng rất lệch lạc (…) So với phong trào Duy Tân cách nó đã ba mươi năm và cùng đúng một xu hướng với nó, là nguồn gốc của nó, thì mười điều tâm niệm chưa có điểm gì mới hơn mà còn thua sút những điểm căn bản cũ (…) Bây giờ ai cũng thấy Tự Lực Văn Đoàn chỉ còn vang bóng thời nào… Người ta tìm đọc văn phẩm của Tự Lực Văn Đoàn như tìm những truyện tình không hạ cấp. Thế thôi!

Nguyễn Văn Xuân là một nhà nghiên cứu danh tiếng, với tác phẩm Phong trào Duy Tân, ông được người đọc mọi miền kính trọng. Nhưng ông lại nặng đầu óc địa phương, ghét những trào lưu văn học nổi tiếng, đặc biệt Sáng Tạo, vì ông cho rằng Sáng Tạo là nhóm người Bắc di cư độc chiếm văn đàn miền Nam. Trong bài viết này, ông dồn toàn lực đánh Hoàng Đạo và Tự Lực Văn Đoàn.

Ông cho biết cần phải đọc lại hết Phong Hoá Ngày Nay, Chủ Nhật… thì mới có thể thấy rõ Hoàng Đạo, vậy mà sau khi “đọc hết” Phong Hoá Ngày Nay, và Chủ Nhật, ông lại chỉ thấy có mỗi cuốn Mười điều tâm niêm là đáng nói, còn những văn phẩm khác của Tự Lực Văn Đoàn, theo ông, chỉ là những truyện tình không hạ cấp, nên ông không thèm “đọc thật”.

Để phê bình tư tưởng Hoàng Đạo, ông chỉ đọc có cuốn Mười điều tâm niệm, một cuốn sách mỏng, loại guide, viết riêng cho tuổi trẻ, khuyên họ nên rèn thân thể, luyện chí khí. Ông đem cuốn guide này so sánh với phong trào Duy Tân, một sự so sánh khập khiễng giữa hái cái không thể so sánh được: như ta so sánh một bài huấn luyện đức dục thiếu niên với một hành trình cách mạng.

Ông mổ xẻ cuốn guide đó, so sánh “từng điểm” (10 điểm) với phong trào Duy Tân, để quyết đoán rằng: Người được gọi là lý thuyết gia của Tự Lực Văn Đoàn, thực ra, chẳng có tư tưởng gì cả, những điều đưa ra trong sách còn kém xa phong trào Duy Tân và ông đóng khung họ trong mấy cái khuôn: “chủ nghiã cá nhân hẹp hòi”, “ích kỷ không bao giờ biết quần chúng là ai”, “về tranh hài hước, văn trào phúng thì ngay trong… Nhị thiên đường đã có.” “Người ta tìm đọc văn phẩm của Tự Lực Văn Đoàn như tìm những truyện tình không hạ cấp. Thế thôi!”

Đây là lối đọc một biết mười của một số nhà nghiên cứu mà Thanh Lãng đi đầu.

Hoàng Đạo không chỉ phải chịu những nhận định sai lầm và mù quáng của Thanh Lãng. Tiếp đến là Nguyễn Văn Xuân, nhà nghiên cứu “không đọc” mà kịch liệt miệt thị Hoàng Đạo và Tự Lực Văn Đoàn. Sau cùng, Phạm Thế Ngũ, có lẽ vì ảnh hưởng Thanh Lãng, đã bỏ hẳn Hoàng Đạo ra ngoài, khi viết về Tự Lực Văn Đoàn, chỉ kể: Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ và Thạch Lam.

5- Nguyễn Thị Thế không ghi rõ năm nào bà lập gia đình, chỉ vắn tắt: “Trước hôm mẹ tôi đi, tôi thấy chú Sáu và anh Hoàn tới nhà. Tôi cũng chẳng để ý, chỉ thấy anh Hoàn cầm một chén trà hương mời mẹ tôi và nói: “Mẹ nhận con là rể xin phép mẹ uống chén trà này” (Nguyễn Thị Thế, trang 202).

Ba chữ mẹ tôi đi trong câu trên đây, chỉ chuyến về Huế, cuối năm 1930, để cám ơn các quan đã cấp học bổng cho Nguyễn Tường Tam đi Pháp.

Ta lại biết rằng người con trưởng của bà Thế là Nguyễn Kim Tuấn (nhà văn Duy Lam) sinh năm 1932. Vậy bà Thế lấy chồng năm 1931[19]. Chồng bà là Nguyễn Kim Hoàn, lúc đó làm chủ bút báo Phụ Nữ (Nguyễn Thị Thế, trang 227). Năm 1939, ông Hoàn đổi việc, về làm quản lý nhà in báo Ngày Nay, kể từ số 166 (17-6-1939).

Ông bà Nguyễn Kim Hoàn-Nguyễn Thị Thế sinh các con: Nguyễn Kim Tuấn (Duy Lam) (1932-2021), Nguyễn Kim Dũng (Thế Uyên) (1935-2013), Nguyễn Kim Sơn, Nguyễn Thị Tuyết và Nguyễn Cao Thị Liễu.

Nguyễn Thị Thế có lối thực thà, thẳng thắn và sống động. Cuốn hồi ký đã xác nhận văn tài của bà. Không ai có thể nhận định về hồi ký của Nguyễn Thị Thế hay và đúng hơn Viễn Sơn Nguyễn Tường Bách:

Những hình ảnh trung thực và sinh động với ngòi bút chất phác, đã phản ảnh được đời sống của gia đình Nguyễn Tường dưới một khiá cạnh riêng, với con mắt nhìn của một người phụ nữ duy nhất trong bẩy anh chị em.

Chị tôi đã viết ra những điểm mà anh em trai chúng tôi không thể thấy được hay ít để ý tới.

Người chị thân mật nhất của tôi đã từng săn sóc cho tôi từ lúc còn bé. Cũng như trăm nghìn phụ nữ Việt khác, đã sống một cuộc đời âm thầm so với các anh em trai. Chị chỉ được đi học mấy năm, trong khi chúng tôi ai cũng đỗ đạt khá cao, nhưng chị đã viết bằng tấm lòng mình hơn là bằng ngòi bút.

Những ngày đầu thế kỷ, gia đình gặp cảnh sa sút, phải dọn về quê ngoại phố huyện nhỏ Cẩm Giàng, chung quanh đồng không mông quạnh. Những ngày đông rét mướt, gió bấc thổi trên cánh đồng, trên những căn nhà tranh lụp xụp, mà tối đến, chỉ có vài ngọn đèn dầu le lói. Dân nghèo xác xơ, mà ngay chính nhà chúng tôi, đến ba mươi Tết phải lẩn trốn chủ nợ đến đòi, một cái bánh chưng cũng không có mà ăn. Nhưng đó mới là cái nôi của gia đình Nguyễn Tường. Không có cảnh trạng như vậy thì không có những nhà văn xuất chúng hay những chủ trương cải cách xã hội, và óc cách mạng dân tộc, dân chủ, đã gây ảnh hưởng mạnh trong cả một giao đoạn lịch sử sau này.

Hối ấy, chị là một người vất vả nhất trong gia đình. Coi cửa hàng, nấu, giặt, săn sóc các em. Sáng chị là người dậy sớm nhất và cũng là người ngủ muộn nhất. Nhiều khi không đủ thịt cá ăn, chị cũng nhường cho bà nội già yếu và cho chúng tôi. (…)

Khi thành gia thất, hai vợ chồng vẫn nghèo, nhưng chị vẫn nhịn ăn nhịn mặc để nuôi sống mấy đứa con đi học. Tôi thường lên đê Yên Phụ để thăm gia đình chị và gia đình anh Thạch Lam, hai gia đình nghèo và thiếu thốn thường xuyên. Nhưng chị vẫn quan tâm đến Thạch Lam, có lúc nghèo đến nỗi không đủ mền bông đắp, hai chị em vẫn giúp đỡ lẫn nhau khi cần thiết.
[20]

Những lời của Nguyễn Tường Bách trên đây đã tóm tắt cuộc đời của người chị duy nhất, nói lên cảnh nghèo khổ của Nguyễn Thị Thế và Thạch Lam, tố cáo sự trọng nam khinh nữ trong gia đình, mà chủ động từ người mẹ. Chính người mẹ, bà Nguyễn Tường Nhu, đã bạc đãi, hất hủi con gái: Vậy chuyện trọng nam khinh nữ phát xuất từ đàn bà, hoặc đàn bà đồng lõa, vì ngu dốt, nhắm mắt tuân theo “truyền thống”.

Nguyễn Thị Thế cũng đã viết rất thực về nhiều chuyện gia đình, về người chồng cờ bạc, ghen tuông, nghiện ngập. Nhưng khó nhất là người mẹ cư xử độc ác, bất công với chính con gái. Nguyễn Thị Thế đã không chùn tay, không mảy may giấu diếm, không tô hồng mẹ theo thói thường, vì vậy, bà là một nhà văn đích thực, cũng như Khái Hưng đã vạch trần bộ mặt dì ghẻ con chồng, thảm kịch của chính mình, trong Thoát ly.

6- Thạch Lam Nguyễn Tường Lân sinh ngày 7-7-1910 tại Thái Hà Ấp. Thủa nhỏ học trường sơ học Cẩm Giàng tới 14 tuổi. 15 tuổi, đỗ bằng cơ thủy (tiểu học). Tự học một năm thi đậu bằng Thành chung lúc 16 tuổi. Đỗ vào trường Canh nông, học một năm, xin thôi. Vào trường Albert Sarraut. Sau khi đỗ tú tài I, quyết định nghỉ. Từ 1932, bắt đầu làm báo, viết cho Phong Hoá từ số 14 (22-9-1932).

Sau đám cưới Nguyễn Tường Long (1933), vợ chồng bà Nguyễn Thị Thế thuê nhà ở với chú Sáu (Thạch Lam) tại làng Yên Phụ, bên Hồ Tây. Chú Bẩy (Nguyễn Tường Bách) học thuốc, ở nội trú. Bà Nhu lại trở về Cẩm Giàng, một mình.

Thạch Lam là người đầu tiên trong gia đình tự cưới vợ, rồi mới đem về trình mẹ, năm 1935. Nhìn ảnh, người vợ đẹp và hiền, tên bà là Nguyễn Thị Sói (như hoa sói và bà cũng thích hoa sói), khi quy y có pháp danh Diệu Tự. Bà sinh năm Ất Tỵ (1905), nguyên quán xóm Thanh Vân, thôn Vân Thị, xã Đa Tân, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Cha là ông Tứ. Lấy Thạch Lam là con thứ Sáu nên các cháu đều gọi là thím Sáu. Khi vào Nam năm 1954, bà khai tên Nguyễn Thị Sáu trong thế vì khai sinh[21].

Về tình cảnh gia đình Thạch Lam, Nguyễn Thị Thế viết:

“Lương mỗi người có ba mươi đồng, với vật giá hồi đó phải ăn tiêu dè sẻn. Anh Tam đã có chị Tam buôn bán phụ vào, anh Tư đi làm có lương, chỉ mình chú Sáu là đói và nghèo nhất. Nhà tranh vách đất, thậm chí đến cái mền cũng không có tiền mua. Một hôm sang sớm kêu chú có việc, thấy nằm đắp cái chăn dạ mỏng, vì lạnh quá đắp thêm cả cái khăn giải bàn và áo mưa nữa. Nhà ờ ven Hồ Tây mùa đông lạnh giá làm sao chịu nổi.

Tôi hỏi thím Sáu cái mền bông đã đặt tiền cùng với chị đâu không đem ra đắp. Thím nói cái mền có ba đồng, đặt trước một đồng rồi, còn lại hai đồng thôi mà em vay không được nên đành bỏ mất, có lấy được đâu.

Sau mẹ tôi phải mua cho chú ấy cái mền bông khác kẻo sợ lạnh quá sinh bệnh.”
(Nguyễn Thị Thế, trang 120).

Tuy làm báo, Nhất Linh vẫn đi dạy học, ông chỉ nghỉ dạy trong khoảng 1935-1936. Lương ông rất cao 300 đồng một tháng (theo Khái Hưng trong Những ngày vui). Hoàng Đạo cũng làm tham tá đến khi bị bắt (1941). Những sách của Khái Hưng, Nhất Linh bán rất chạy. Giải thưởng văn chương Tự Lực Văn Đoàn lúc đầu là tiền bán sách Nửa chừng xuân của Khái Hưng.

Thạch Lam nghèo vì chỉ lĩnh lương nhà báo, 30 đồng một tháng, và sách của Thạch Lam in ra bán không chạy bằng sách Khái Hưng, Nhất Linh. Và có lẽ còn do một lý do khác: Thạch Lam rất hào phóng với bạn bè, (theo Thế Lữ và Đinh Hùng) và ông nghiện thuốc phiện từ rất trẻ, Đinh Hùng viết: “Anh [Thạch Lam] sẽ viết “Thập niên đăng hỏa” một thiên hồi ký kể lại thời kỳ suốt mười năm anh dan díu với ả Phù dung. Hiện anh đã ly dị cùng ả rồi, nhưng “mười năm đèn lửa biết bao nhiêu tình”[22].

Sau khi Phong Hóa bị đóng cửa vĩnh viễn, tất cả “lực lượng” Tự Lực Văn Đoàn dồn vào Ngày Nay, từ số 16 (12-7-36). Ngày Nay tiếp tục ra đến số 224 (7-9-40). Nhưng từ khoảng số 100 trở đi, Khái Hưng cũng dần dần vắng mặt, tờ báo do Thạch Lam trông nom.

Tóm lại, kể từ năm 1938, khi Nhất Linh lập đảng Hưng Việt, thì Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí, cũng ít thấy xuất hiện trên báo, Hoàng Đạo vẫn viết nhưng về sau đổi tên thành Tường Vân. Nhất Linh sống trong bí mật, để lại tiểu thuyết Bướm Trắng cho Thạch Lam đăng hàng tuần. Rồi Khái Hưng có việc phải sang Tầu. Kể từ số 211 (8-6-40) Ngày Nay yếu hẳn đi, hầu như không còn người cộng tác. Chỉ còn lại một mình, Thạch Lam kiêm cả tờ báo lẫn nhà xuất bản Đời Nay, quá sức, ông bị lao, lao tâm, lao lực.

Ngày Nay bắt buộc phải đóng cửa ở số 224 (7-9-40). Thạch Lam mất ngày 27-6-1942[23] tại nhà riêng ở Yên Phụ, cạnh Hồ Tây, ở tuổi 32. Trong chiến tranh, mộ ông ở nghĩa trang Hợp Thiện được chuyển lên Yên Kỳ. Năm 2004, Nguyễn Tường Giang về Hà Nội tìm lại được mộ cha.

Bà Thạch Lam mất tại Sài Gòn ngày 4-2-1970 vì bệnh ung thư bao tử, chôn cất tại nghiã trang Giác Minh. Sau 1975, nghiã trang bị giải toả, tro cốt bà được đưa về nghiã trang Yên Kỳ, Bất Bạt, Sơn Tây, gần mộ chồng.[24]

Thạch Lam và Nguyễn Thị Sói có ba con: Nguyễn Tường Nhung (1936) (vợ Trung tướng Ngô Quang Trưởng, nguyên Tư lệnh quân đoàn I, VNCH), Nguyễn Tường Đằng (1939) và Nguyễn Tường Giang (1942) bác sĩ y khoa. Nguyễn Tường Giang ra đời được ba ngày thì cha mất, ông là tác giả tập thơ văn giá trị Khói hồ bay[25]. Cho đến nay, Nguyễn Tường Giang là nhà thơ duy nhất của dòng họ Nguyễn Tường.

7- Viễn Sơn Nguyễn Tường Bách, người con út, sinh năm 1916 tại Cẩm Giàng. Học tiểu học tại Cẩm Giàng, Thái Bình và trường Hàng Vôi, Hà Nội. Học trường Bưởi một thời gian rồi bỏ. Tự học, đậu tú tài Pháp, ban triết. Năm 1944, tốt nghiệp y khoa bác sĩ. Nguyễn Tường Bách viết bài thơ đầu tiên, Xuân, ký tên Tường Bách, đăng trên PH Xuân, số 85 (11-2-1934). Có văn tài, nhưng chọn y khoa, nên chỉ thỉnh thoảng góp bài trên Phong Hoá. Ông viết thường xuyên hơn, trên Ngày Nay.

Khi Thạch Lam mất năm 1942, Nguyễn Tường Bách đang học y khoa, nhưng đã thay anh quản lý nhà xuất bản Đời Nay cho đến khi Khái Hưng, Hoàng Đạo được tha về năm 1943.

Năm 1945, khi Tự Lực Văn Đoàn quyết định ra lại báo Ngày Nay kỷ nguyên mới (5-5-1945) với Khái Hưng, Hoàng Đạo và Nguyễn Gia Trí; Nguyễn Tường Bách giữ chức Giám đốc. Ngày 19-8-1945, Việt Minh lên nắm chính quyền. Ngày Nay kỷ nguyên mới ra số 16 (18-8-1945) là số chót.

Nguyễn Tường Tam từ Trung Hoa trở về nước tháng 11-1945[26]. Tháng 3-1946, ông tham dự chính phủ Liên Hiệp (cùng với Nguyễn Tường Long).

Tháng 4-1946, ông cầm đầu phái đoàn Việt Nam đi dự hội nghị Đà Lạt. Hội nghị thất bại. Ông từ chối không dự hội nghị Fontainebleau, lên Đệ Tam Chiến khu Vĩnh Yên, rồi đi Trung Quốc.

Tường Bách theo Vũ Hồng Khanh lãnh đạo lực lượng Quốc Dân Đảng rút lên Yên Bái. Giao chiến với Việt Minh, Quốc Dân Đảng thua trận. Tháng 7-1946, Tường Bách được lệnh rút sang Trung Hoa cầu viện.

Khi còn tập sự tại bệnh viện Phủ Doãn, Nguyễn Tường Bách gặp Hứa Bảo Liên, một học sinh Hoa kiều, sinh tại Hà Nội, làm việc thiện nguyện tại đây. Khi chạy sang Trung Hoa, gặp lại Hứa Bảo Liên, đang học ban văn chương đại học Côn Minh; cưới nhau cuối năm 1946.

Tháng 8-1948, Hoàng Đạo mất đột ngột trên xe lửa từ Hồng Kông về Quảng Châu.

Năm 1948, Nguyễn Tường Bách và Hứa Bảo Liên lựa chọn theo xã hội chủ nghiã, chia tay với Nhất Linh, ở lại Trung Quốc. Từ 1950, hành nghề bác sĩ tại Phật Sơn.

Hồi ký Việt Nam những ngày lịch sử[27] và Việt Nam một thế kỷ qua (hai tập)[28] của Nguyễn Tường Bách, thuật lại chuyện gia đình và cuộc tranh đấu trong Việt Nam Quốc Dân Đảng.

Hồi ký Nguyễn Tường Bách và tôi (1998) của Hứa Bảo Liên, cho biết về cuộc đời thăng trầm của ông bà trong thời gian ở Trung quốc.

Nguyễn Tường Bách-Hứa Bảo Liên có một trai Nguyễn Hứa Kiên và năm gái: Nguyễn Hứa Lan, Nguyễn Hứa Linh, Nguyễn Hứa Loan, Nguyễn Hứa Anh, Nguyễn Hứa Trân.

Năm 1988, cả gia đình sang định cư Mỹ. Ông mất ngày 11-5-2013, tại California, Hoa Kỳ.

Gia đình tan tác

Cuối năm 1946, chiến tranh Pháp Việt bùng nổ. Đại gia đình Nguyễn Tường tan tác: vừa chạy loạn, vừa tránh sự lùng bắt của Việt Minh.

Vì là mẹ Nguyễn Tường Tam, bà Nhu phải lánh ở chùa Đào Xuyên (Gia Lâm, Hà Nội), phải đổi tên chuyển sang chùa sư nữ Bối Khê (Thanh Oai, Hà Nội). Sau cùng bà về được Hà Nội.

Vợ con Thạch Lam bỏ trại Cẩm Giàng, tản cư đến xóm Đìa, cách Nhã Nam sáu, bẩy cây số, trong ba năm. Đời sống rất cơ cực. Bà Thạch Lam phải chôn đốt dĩ vãng, hình ảnh gia đình, đổi họ các con, Nguyễn Tường thành Nguyễn Thạch[29].

Bà Nhất Linh đưa con về lánh ở nhà người anh cả làng Phượng Vũ, phủ Thường Tín, quê mình, nhưng vẫn bị bắt, bị giải đi với con trai cả Nguyễn Tường Việt, 15 tuổi cùng với Nguyễn Tường Cẩm, anh chồng và Phạm Hoàng Tín, em ruột.

Nhờ vụ Pháp bỏ bom, Việt dẫn mẹ chạy thoát, về trú ở nhà người làm công thủa trước, rồi chạy lên mạn ngược. Ông Cẩm và ông Tín bị xích với nhau, nên không dám trốn. Cả hai bị đưa đi mất tích. Bà Nhất Linh Phạm Thị Nguyên phải đổi tên thành Phạm Thị Liên[30].

Năm 1949, bà Nguyễn Tường Nhu thuê người đi tìm vợ con Thạch Lam, họ tìm đến được xóm Đìa, dẫn hai bé trai về Hà Nội, cô con gái cùng mẹ về qua Cẩm Giàng. Sáng hôm sau, Tường Nhung có người bạn cùng tên Nhung đến đón đi chơi:

“Vừa đi nó vừa kéo tay tôi đi qua nhà ga hướng về hướng trại của gia đình tôi. Đi mãi mà tôi chẳng nhìn thấy trại, chỉ thấy toàn là ruộng và ruộng. Đi thêm một quãng nữa, nó dắt tôi lên ngồi trên đường rầy tầu hoả, rồi nó chỉ tay về trước mặt nói “Trại Cẩm Giàng của mày ở đấy”. Rồi nó nói tiếp, khi Việt Minh rút lui họ đặt mìn giật xập hết. Ngay cả trường học của tao với mày cũng bị phá. Vì vậy, ngồi ngay trước cổng trại mà không thấy vết tích gì còn lại, chỉ toàn cỏ hoang. Nếu con Nhung không đưa đến đây thì không thể nào nhận được trước đó là một trang trại rộng lớn, đẹp đẽ có tiếng cả một vùng.”[31]

Trại Cẩm Giàng đã trở thành bình địa.

Gia đình Thạch Lam trở về Hà Nội, sống nhờ cô Năm (Nguyễn Thị Thế) một thời gian. Bà Nguyễn Thị Sói đã phải xoay sở, tần tảo buôn bán, nuôi con.

Rồi năm 1953, bà nội Lê Thị Sâm lại “đích thân” đến gặp ông Nguyễn Khắc Thám, Tổng Giám Đốc Bưu Điện, xin cho con dâu vào làm việc ở sở Bưu Điện, từ 1953 đến khi về hưu năm 1967. Từ đó, các con Thạch Lam được sống yên bình đầy đủ, tới khi trưởng thành.

Người mẹ, người bà

Bà Nguyễn Tường Nhu nhũ danh Lê Thị Sâm là một nhân vật ngoại khổ. Không những nuôi chồng, nuôi con, từ khi chồng còn sống, bà còn lo cả đến các cháu, bà không bỏ sót ai.

Khi Nhất Linh cho Khái Hưng người con trai thứ hai là Nguyễn Tường Triệu. Khái Hưng muốn đổi tên chính thức cho con thành Trần Khánh Triệu, nhưng bà nội cấm[32].

Bà mất ngày 16-7 năm Tân Sửu[33] (26-8-1961) ở Sài Gòn. Chôn ở nghiã trang chùa Giác Minh[34] (Gò Vấp). Sau, các cháu đưa tro cốt bà về nghiã địa Trữ La, Cẩm Giàng bên cạnh mộ ông.

Một người bình tĩnh lạ thường, khi chồng chết, mẹ chồng khóc lóc, bà thản nhiên bảo: “Người chết đã yên phận rồi, bây giờ bà phải thương các cháu lo sao cho khỏi chết đói, để yên con còn phải lo buôn bán chứ cứ ngồi khóc hoài sao, người chết cũng chả sống lại được, mà người sống thì chết đói”. Từ đó bà tôi thôi không khóc và chỉ khóc khi nào mẹ tôi đi vắng” (Nguyễn Thị Thế, trang 53).

Bà dịu dàng với con trai, âu yếm với các cháu. Nhưng bà cũng là người mẹ chồng cay nghiệt, Nguyễn Tường Bách viết:

“…Vì trong nhà bất hòa với tấn kịch mẹ chồng nàng dâu bi đát. Hình như là chị đã mang cả oan ức xuống suối vàng, người chị dâu hiền lành ít nói của tôi.”[35]

Bà đầy quyền uy và độc đoán, ai cũng sợ, không dám gần, kể cả người con gái duy nhất:

Tôi là người rất chịu đựng. Khi nhỏ đã từng chịu đựng mấy đứa em khó tính và bà mẹ nghiêm khắc mà tôi rất sợ ít khi dám dàng mặt. Hễ làm cái gì hỏng là bà cụ cốc lên đầu mắng nhiếc đủ điều. Tôi chỉ nhờ vào tình thương của bà nội tôi thôi, cái bánh cái kẹo gì, bà nội cũng giấu bớt cho tôi (…) Dù tôi đã có chồng có con nhưng vẫn kính sợ mẹ tôi như hồi còn bé, mẹ bảo sao nghe vậy không bao giờ dám nói sai lời. (Nguyễn Thị Thế, trang 222, 243).

Nguyễn Tường Bách, cũng chỉ thương bà nội:

Cái chết của bà tôi, cái chết làm cho tôi xúc động sâu xa, rất lâu mãi về sau này vẫn không ngớt. Từ lúc còn nhỏ, tôi luôn luôn đồng tình với bà tôi, vì bà sống chịu đựng, cay đắng hơn ai hết trong phần cuối đời, người con trai duy nhất đã mất, tất cả đều do con dâu tần tảo làm ăn. Bi kịch mẹ chồng nàng dâu không một gia đình nào lúc đó tránh khỏi. Niềm an ủi duy nhất của bà là lòng thương mến của các cháu: và sáng nào bà cũng thắp hương, châm ngọn đèn con trên bàn thờ, rồi ngồi yên niệm Phật với chuỗi tràng hạt đen bóng.[36]

Nguyễn Tường Bách không viết gì về mẹ.

Người mẹ của Nhất Linh khác xa người mẹ của Nguyễn Thị Thế, dù cùng một mẹ.

Điều này chứng tỏ sự phân biệt đối xử lạ lùng giữa con trai và con gái: với Nhất Linh, người con “thành công” bà yêu thương và kính trọng, nhưng bà đối xử khác hẳn với người con gái duy nhất, bắt phải bỏ học, quán xuyến việc nội trợ, hầu hạ mẹ và lo cho các em, từ lúc 10 tuổi.

Đối với các cháu, nhất là con Thạch Lam, người con trai thông minh nhất nhà, bà yêu quý, chết yểu: “Bà không bao giờ đánh mắng và rất yêu thương các cháu, nhưng tôi rất sợ bà, nhất là khi phải ngồi ăn cơm chung với bà”, Tường Nhung kể lại.[37]

Nguyễn Thị Thế mô tả tình anh em bền chặt, vẽ chân dung chính xác các anh và hai em, nhưng đã viết những trang hồi ký cay đắng về Tình mẹ con, thuật lại hình ảnh người mẹ nghiệt ngã, toàn trị trong gia đình, với một ngòi bút thản nhiên, chân thật.

Vần đề trọng nam khinh nữ, không cho con gái đi học, mẹ chồng nàng dâu, của xã hội cũ, là mấu chốt tất cả, trở thành vấn nạn hàng đầu trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn, phải đạp đổ. Nguyễn Tường Bách diễn tả đầy đủ thực trạng này trong câu:

Chính những xung đột nghiệt ngã trong gia đình chúng tôi giữa mấy lớp mẹ chồng nàng dâu, cùng với nhiều nỗi bất hạnh của phụ nữ bị trói buộc trong lễ giáo phong kiến lạc hậu trên xã hội, đã là đề tài cho nhiều tác phẩm sau này – thí dụ như cuốn Đoạn tuyệt của Nhất Linh“[38].

(Còn nữa)

Thụy Khuê


[1] Hồi ký Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, do Nhóm nghiên cứu lịch sử xuất bản, Montréal, Canada, 1981, trang 44-45.

[2] Hồi ký Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, trang 45.

[3] Theo tiểu sử Nhất Linh của Nguyễn Ngu Í. Sống và viết với… nxb Bách Khoa, Xuân Thu tái bản ỏ Hoa Kỳ, không đề năm, trang 21.

[4] Trả lời phỏng vấn của Nguyễn Ngu Í, in trong Sống và viết với… nxb Bách Khoa, trang 16.

[5] Ngày Nay từ số 27 (27-9-36) đến số 32 (1-11-36), sau in thành sách chỉ giữ tên Tối Tăm và bỏ tên Khái Hưng.

[6] Bà Nhất Linh mất ngày 6-5-1981, tại Orsay, Pháp.

[7] Bây giờ là đường Nguyễn Thái Học.

[8] Bà Nguyễn Thị Kim Thư mất ngày 6-5-1976.

[9] Theo điện thư của Nguyễn Tường Thiết ngày 15-5-2020.

[10] Theo Trương Bảo Sơn, Những kỷ niệm riêng với Nhất Linh, in trong Nhất Linh người nghệ sĩ, người chiến sĩ, Thế Kỷ, 2004, trang 81).

[11] Bà Nguyễn Thị Kim Thoa mất ngày 6-2-2006 tại Marseille, Pháp. Sang Pháp từ 1966, bà đã từng trông người già, trong nhiều năm săn sóc ông bà Hoàng Xuân Hãn, đến lúc giáo sư mất, năm 1996. (Theo Chị Thoa của Nguyễn Tường Thiết, in trong Nhất Linh cha tôi, Văn Mới, 2006; nxb Phụ Nữ tái bản trong nước, 2020).

[12] Ngày sinh các con của ông bà Nguyễn Tường Tam chép theo luận án Nguyễn Tường Tam sống và viết của Maria Strakovova, Tiệp Khắc, 2011.

[13] Theo Tiểu sử Nhất Linh của Nguyễn Ngu Í, Sống và viết với… trang 21.

[14] Theo lời dẫn nhập bài Nói chuyện với ông Nguyễn Mạnh Tường, do Nguyễn Tường Tam viết, trên Phong Hóa số 16 (6-10-1932).

[15] Theo điện thư của nhà văn Đặng Thơ Thơ, cháu ngoại Hoàng Đạo, ngày 4-7-2020.

[16] In trong Kỷ yếu triển lãm và hội thảo về báo Phong Hóa Ngày Nay và Tự Lực Văn Đoàn, NXB Người Việt, 2014, California, trang 212-217.

[17] Theo bài Mẹ tôi của Từ Dung, in trong Kỷ yếu triển lãm và hội thảo về báo Phong Hóa Ngày Nay và Tự Lực Văn Đoàn, nxb Người Việt, 2014, California.

[18] Văn, Tưởng niệm Hoàng Đạo, số 107-108 (15-6-68), trang 14-15.

[19] Tiểu sử Nguyễn Thị Thế in bìa sau cuốn hồi ký, ghi bà lập gia đình năm 1933, là sai.

[20] Trích Vài cảm nghĩ về cuốn hồi ký của chị tôi: Nguyễn Thị Thế của Viễn Sơn Nguyễn Tường Bách, in trong Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường của Nguyễn Thị Thế, Văn Hoá Ngày Nay, 1996, Hoa Kỳ, trang 255-256.

[21] Chúng tôi viết theo thông tin của nhà thơ Nguyễn Tường Giang.

[22] Đinh Hùng, Tìm hiểu Thạch Lam thêm một vài khiá cạnh, Văn số 36 (15-6-1965), Tưởng niệm Thạch Lam, trang 58.

[23] Những chổ khác thường viết 28-6-1942, chúng tôi sửa lại theo tư liệu của nhà thơ Nguyễn Tường Giang.

[24] Theo điện thư của Nguyễn Tường Giang ngày 6-7-2020.

[25] Nxb Thạch Ngữ, 2012, Hoa Kỳ.

[26] Nguyễn Tường Bách, Tưởng nhớ Khái Hưng, trong cuốn Khái Hưng, kỷ vật đầu tay và cuối cùng, tập 1, Hồn bướm mơ tiên, nxb Phượng Hoàng, California, 1997, trang 166.

[27] Việt Nam những ngày lịch sử của Nguyễn Tường Bách, Nhóm Nghiên cứu sử địa xuất bản, Montréal, 1981.

[28] Việt Nam một thế kỷ qua I và II, của Nguyễn Tường Bách, Thạch Ngữ, California, 1999 và 2000.

[29] Nguyễn Tường Giang, Thạch Lam cha tôi trong trí tưởng, in trong tập Khói hồ bay, trang 303.

[30] Nguyễn Tường Thiết, Bà Cẩm Lợi, in trong Nhất Linh cha tôi, trang 241.

[31] Mẹ tôi, bà Thạch Lam Nguyễn Tường Lân của Nguyễn Tường Nhung, in trong sách Kỷ yếu triển lãm và hội thảo về báo Phong Hóa Ngày Nay và Tự Lực Văn Đoàn, nxb Người Việt, 2014, California.

[32] Theo lời ông Nguyễn Tường Triệu nói với chúng tôi qua điện thoại, ngày 17-6-2017.

[33] Theo ngày giỗ, do Nguyễn Tường Nhung ghi lại trong bài Bà Nội và trại Cẩm Giàng. Có chỗ ghi 15-8-62.

[34] Nghiã trang này là nơi chôn thân nhân gia đình Nguyễn Tường: ông Nguyễn Tường Thụy, ông Nguyễn Kim Hoàn (chồng bà Nguyễn Thị Thế) và bà Thạch Lam, đều chôn ở đấy. Sau tro cốt ông bà Nhất Linh được đưa về Hội An. Tro cốt bà Lê Thị Sâm và bà Nguyễn Thị Sói được đưa ra Bắc.

[35] Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, Nhóm Nghiên cứu sử địa, Montréal, 1981, trang 45.

[36] Nguyễn Tường Bách, Việt Nam một thế kỷ qua, cuốn I, 1916-1946, Nxb Thạch Ngữ, 1988, Hoa Kỳ, trang 44.

[37] Bà Nội và trại Cẩm Giàng của Nguyễn Tường Nhung, tài liệu của Nguyễn Tường Giang.

[38] Nguyễn Tường Bách, Việt Nam một thế kỷ qua, cuốn I, 1916-1946, Nxb Thạch Ngữ, 1988, Hoa Kỳ, trang 44.

(còn tiếp)
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7115
Registration date : 01/04/2011

55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng   55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 I_icon13Wed 15 Sep 2021, 08:57

TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG

Thuỵ Khuê


Số 80 Quan Thánh

Phần I: Quan Thánh hay Quán Thánh?

Trước khi vào bài, chúng tôi muốn trả lời câu hỏi: Quán Thánh hay Quan Thánh?

Tây Hồ, xưa là Lãng Bạc. Lý Thánh Tông (1023-1072) dựng hành cung ở đây, gọi tên là Dâm Đàm, nhà Lê đổi thành Tây Hồ[1].

Trong bài Tụng Tây Hồ phú của Nguyễn Huy Lượng (1750-1808), cựu thần nhà Lê, sau theo Tây Sơn, làm khoảng năm 1800, vịnh cảnh Tây Hồ đồng thời ca tụng công đức nhà Tây Sơn[2], có hai câu, nói đến quán Trấn Vũ và bia [ở chùa] Trấn Quốc, sau đây:

Đền Mục-lang hương hỏa chẳng rời, tay lưới phép còn ghi công bắt hổ; quán Trấn-vũ nắng mưa nào chuyển, lưỡi gươm thiêng còn để tích giam rùa.

(…)

Toà kim-liên sóng nổi mùi hương, bia Trấn-quốc tưởng in vùng tĩnh phạm; hàng cổ thụ gió rung bóng lộc, tràng Phụng- thiên nhận sẵn thú Nghi Vu.
Dấu Bố-cái rêu in nền miếu, cảnh Bà-Đanh hoa khép cửa chùa.


Phạm Thái (1777-1813) -con Thạch Trung Hầu Phạm Đạt, cựu thần nhà Lê, hai cha con đều cầm quân chống lại nhà Tây Sơn, nhưng thất bại–sáng tác bài Chiến Tụng Tây Hồ phú, nói lên cảnh điêu tàn của Hà thành thời Tây Sơn, đồng thời mắng Nguyễn Huy Lượng là người phản bội, thờ hai chúa. Phạm Thái viết lời dẫn như sau:

Năm canh thân [1800] mùa hạ, ta đến chơi với bạn ở Tràng An [Hà Nội], nghe bạn ngâm bài “Tụng cảnh Tây-hồ”. Hỏi ai làm bài ấy mà hay thế? Bạn rằng: Chương lĩnh hầu Hữu-Hộ-Lượng [Nguyễn Huy Lượng] làm ra. Ta rằng: Chao ôi! Hữu-Hộ-Lượng a! Xưa hắn làm tôi triều Lê, nay ra làm ngụy, lại còn tụng Tây-hồ mà chẳng thẹn mặt, ghét đứa nịnh làm sao! Nhớ xưa có bài thơ “chiến cổ” nay nhân bỉ kẻ làm bài tụng, ta cũng làm bài “chiến tụng” để góp một chút trò cười với đời.

Chiến Tụng Tây Hồ phú của Phạm Thái, có hai câu liên hệ tới đền Trấn-võ (tức Trấn-vũ) và đường Quán Thánh (sau gọi là Quan Thánh, gần đây đổi lại thành Quán Thánh):

Lưới Mục-lang au nát mất cả giường, gian chẳng bắt nữa hoài công bắt hổ; gươm Trấn-võ chỉ còn trơ những sống, giặc không giam mà có sức giam rùa.

(…)

Ông Đá dãi dầu hình tượng miếu; Bà Đanh vắng ngắt tiếng chuông chùa.
Nhà tranh đua đều khấn bụt cầu ma, đường Quán Thánh khéo lăng nhăng lít nhít; chợ xao xác những buôn hùm bán quỷ, mái Trường-lương nghe lếu láo ỷ o”
[3]

Bài phú của Nguyễn Huy Lượng ca tụng cảnh Hà thành nhờ ơn Tây Sơn càng thêm hoa mỹ.

Bài phú của Phạm Thái, ngược lại, tả Hà thành điên đảo tàn tạ dưới thời Tây Sơn. Cả hai đều là áng văn chương trác tuyệt, nhưng lời Phạm Thái cay đắng, mỉa mai, thâm trầm hơn lời Nguyễn Huy Lượng.

Ngày nay, vì ý niệm độc tôn vua Quang Trung, trở thành độc tôn Tây Sơn, mặc dù Quang Toản không có công nghiệp gì, người ta ca tụng bài phú của Nguyễn Huy Lượng và chê bai bài phú của Phạm Thái.

Phạm Thái, cũng là nhân vật chính của Khái Hưng trong Tiêu Sơn tráng sĩ.

Theo lời phú của Nguyễn Huy Lượng thì đền Trấn Vũ (hay Trấn Võ) ngày trước là quán Trấn Vũ. Theo lời phú của Phạm Thái, con đường chạy ngang qua quán Trấn Vũ được gọi là đường Quán Thánh.

Đại Nam Nhất Thống Chí, ghi rõ quán Trấn Vũ dựng thời nào, thờ ai:

Quán Chân Vũ: ở phường Thụy Chương, huyện Vĩnh Thuận, thờ Trấn Thiên Chân Vũ Đại Đế dựng đời Lê Vĩnh Trị [Lê Hy Tông, niên hiệu Vĩnh Trị, 1678-1680], lại đúc tượng đồng cao 8 thước 2 tấc, chu vi 8 thước 7 tấc, nặng 6.600 cân, rất linh ứng. Nguyên tên là quán Trấn Vũ, bản triều năm Minh Mệnh thứ 2 [1821], vua Bắc tuần, cho 50 lạng bạc, năm thứ 21 [1840] đổi tên hiện nay.[4]

Chân Vũ Đại Đế là vị thần trong huyền thoại Trung Quốc, trấn giữ sao Bắc Cực, còn gọi là Bắc cực tinh quân. Với Việt Nam, Chân Vũ giúp An Dương Vương diệt tinh (quái vật) ở Tây Hồ.

Sau hòa ước Giáp Thân (1884), nước ta chịu sự bảo hộ của nước Pháp, Hà Nội là đất nhượng địa, nên họ thay đổi tên đương phố thành tên Pháp, bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX, và có lẽ trong thời kỳ này, họ đã đổi tên đường Quán Thánh thành Le Grand Bouddha.

Báo Phong Hóa số 123 (9-11-34) quảng cáo: Kể từ 1-11 tòa báo Phong Hóa dọn lại số 80 đường Quan Thánh (80, Avenue du Grand Bouddha). Như vậy, hai tên Pháp-Việt được dùng song song cho tới năm 1934 chăng? Những số báo Phong Hóa kế tiếp vẫn còn đề tên Le Grand Bouddha, phải đến Phong Hóa số 127 (7-12-34), mới chuyển hẳn sang tên Việt: 80 đường Quan Thánh.

Từ đó về sau, trên Phong Hóa Ngày Nay, địa chỉ tờ báo luôn luôn đề: 80 Quan Thánh. Và đối với người Hà Nội, tên đường Quan Thánh vẫn còn giữ đến năm 1954.

Vì thế chúng tôi giữ nguyên cách viết này trên Phong Hoá Ngày Nay.

Sự khó khăn khi tìm tài liệu về Khái Hưng

Thư Trung trong bài Khái Hưng, thân thế và tác phẩm, soạn cho báo Văn số 22 (15-11-64) tưởng niệm Khái Hưng, đã viết: “Tìm hiểu thân thế Khái Hưng là một việc khó. Khó vì tài liệu rất hiếm, sơ sài hoặc khó tin. Khó vì những người sống gần gũi với Khái Hưng hiện nay không có được mấy người, trong số lại có những người, vì lý do này hay nguyên cớ khác, không muốn viết về người đã khuất”[5].

Nhà văn Nguyễn Thạch Kiên (1926-2008) đến Hoa Kỳ cuối năm 1992, theo diện HO, mất ngày 13-12-2008 ở California, là đồng chí và đàn em Khái Hưng, cũng là người sưu tầm và giữ được nhiều tài liệu về Khái Hưng, đã giúp Trần Đình Phong, thực hiện báo Văn số 22, tưởng niệm Khái Hưng. Nguyễn Thạch Kiên cho biết: “Ngay từ năm 1945-1946, và sau ngày toàn quốc khói lửa, tôi vẫn còn được “quản lý “một số tài liệu quý, có cả những bài Khái Hưng viết. Tôi còn được biết thêm là ngay từ hồi đó, Khái Hưng đã dịch xong toàn bộ cuốn “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng Linh và đã cho một thân hữu mượn. Người bạn đó là ai, hiện [1966] còn giữ nguyên bộ “Liêu trai chí dị” của Khái Hưng như lúc văn sĩ cho mượn nữa hay không, tôi xin miễn kể. Câu chuyện đã trở thành riêng tây và đã đi vào quá khứ “im lặng như một nấm mồ” rồi.”[6]

Sang Hoa Kỳ 1992. Năm 1997-1998, Nguyễn Thạch Kiên in bộ sách Khái Hưng, Kỷ vật đầu tay và cuối cùng, 2 cuốn, Nxb Phượng Hoàng, California[7].

Bộ sách này tập hợp tiểu thuyết đầu tiên Hồn bướm mơ tiên cùng với những truyện ngắn và kịch bản cuối cùng của Khái Hưng đã in trên hai tờ Việt NamChính Nghiã trong hai năm 1945 và 1946, giúp ta biết rõ hoàn cảnh chính trị và nhất là tư tưởng của Khái Hưng trong hai năm cuối đời.

Ngoài ra, Nguyễn Thạch Kiên còn cổ động các đồng chí trong Quốc Dân Đảng, ai còn giữ được kỷ niệm gì về Khái Hưng thì viết ra, vì vậy, bộ sách này hữu ích cho những ai muốn nghiên cứu về con người Khái Hưng, tìm hiểu toàn diện nhà văn, nhà trí thức, nhà cách mạng.

Khi sang California nói chuyện về Tự Lực Văn Đoàn, năm 2002, chúng tôi được ông trao tặng bộ sách quý này, đến nay đã mười chín năm. Vì hoàn cảnh thiếu thốn tư liệu ở hải ngoại, chúng tôi đã không thể làm gì được, trước khi sưu tập Phong Hóa Ngày Nay được đưa lên thư viện điện tử năm 2012, bốn năm sau khi Nguyễn Thạch Kiên qua đời.

Viết chương sách này chúng tôi không khỏi ngậm ngùi tri ân ông, nhờ sự sưu tầm của ông mà chúng ta có thêm một số tài liệu mới, so với năm 1964, khi báo Văn số 22 ra đời, đặt mốc đầu tiên cho việc nghiên cứu Khái Hưng.

Một câu của Nguyễn Thạch Kiên làm tôi chú ý khi mở đầu tập sách:

Địa điểm 80 phố Quan Thánh, Hà Nội là một ngôi biệt thự lịch sử không những của nền văn học Việt Nam cận đại (1930-1946) mà còn là trụ sở của các lực lượng cách mạng “vì quốc gia dân tộc Việt Nam” suốt từ đầu thập niên 30 đến cuối năm 1946 nữa.[8]

Câu này bắt buộc người nghiên cứu không chỉ bằng lòng với sự đọc tác phẩm Tự Lực Văn Đoàn, mà còn phải tìm hiểu cơ sở hoạt động của họ, thì mới có thể hiểu rõ tư tưởng của họ. Và 80 Quan Thánh là cơ sở chính.

Trước khi tìm về 80 Quan Thánh, chúng ta nên trở lại cơ sở đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn.

Đâu là những cơ sở đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn? Đó là vấn đề chưa thể biết tường tận. Ở thời điểm này, tôi chỉ xin đưa ra một số giả thuyết.

55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Tlvd7510

1 Avenue Carnot (phố Phan Đình Phùng), tháng 12-2017, ảnh Nguyễn Huy Thiệp

Địa chỉ số 1 Avenue Carnot

Số 1 Boulevard Carnot là địa chỉ chính thức đầu tiên của tòa soạn Phong Hóa trong hơn hai năm từ tháng 6-32 đến tháng 10-34[9].

Số 1 Boulevard Carnot còn là địa chỉ các nhà xuất bản:

Annam xuất bản cục, nhà xuất bản đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn, ra đời năm 1933, được quảng cáo trên Phong Hóa số 45 (5-5-33)[10].

Một năm rưỡi sau, nhà xuất bản Đời Nay sẽ thay thế cho Annam xuất bản cục, được quảng cáo trên Phong Hóa số 114 (7-9-34)[11].

Vậy số 1 Boulevard Carnot là địa chỉ chính thức của Phong Hóa, của Annam xuất bản cục và nhà xuất bản Đời Nay, trong hơn hai năm, từ 16-6-32 đến 19-10-34.

Địa chỉ số 1 Boulevard Carnot sẽ bị bỏ hẳn, khi tòa soạn và trị sự dời về số 80 Avenue du Grand Bouddha (Quan Thánh), kể từ Phong Hóa số 124 (16-11-34).

Số 1 Boulevard Carnot, thực ra, chỉ là địa chỉ gửi thư và ngân phiếu; bởi vì trên Phong Hóa, kể từ số 1, đều ghi: ngân phiếu và thư tín gửi M. Phạm Hữu Ninh, quản lý Phong Hóa Tuần báo, số 1 đường Carnot, Hà Nội.

Tóm lại, số 1 đường Carnot, không phải là nơi làm việc của ban biên tập, vì không thấy ai nói đến nơi này như một tòa soạn thực thụ, mà có thể chỉ là nhà ông Phạm Hữu Ninh.

Vậy ban biên tập làm việc ở đâu?

Điạ chỉ đường Quần Ngựa

Trong tiểu thuyết Những ngày vui, Khái Hưng cho biết hạt nhân đầu của nhóm Tự Động (Tự Lực) gồm có ba người: Nguyễn Văn Duy (Nguyễn Gia Trí), Trần Đình Điển (có thể là nhân vật hư cấu, vì không tìm thấy dấu vết trên báo Phong Hóa) và Đỗ Như Phương (Khái Hưng).

Vẫn theo Những ngày vui, khi Phương (Khái Hưng) lên Hà Nội, thì Duy (Nguyễn Gia Trí) đã thuê sẵn cho Phương một căn nhà có 5 phòng, thuê 40 đồng một tháng. Căn nhà này có thể là hư cấu, và cũng có thể nó tượng trưng căn nhà số 1 Boulevard Carnot.

Tuy nhiên, phải có một nơi đầu tiên Khái Hưng ở, khi bỏ Ninh Giang lên Hà Nội, cuối năm 1930 (trong truyện ngắn Tây xông nhà, in trên báo Việt Nam, số Tết Bính Tuất, 1946, Khái Hưng cho biết ông lên Hà Nội cuối năm 1930). Căn nhà này có thể là căn nhà ở đường Quần Ngựa, Khái Hưng ở trước khi dọn đến 80 Quan Thánh, như lời Trần Khánh Triệu viết: “Còn nhớ trong cuốn sách hồng Bông cúc huyền, viết hồi ba tôi ở Quần Ngựa Hà Nội“[12]. Như vậy trước khi dọn đến 80 Quan Thánh, Khái Hưng đã từng ở đường Quần Ngựa (nay là phố Đốc Ngữ (?)).

Đường Quần Ngựa cũng là nơi, khi Nguyễn Gia Trí được tha từ Vụ Bản trở về năm 1943 đã mở xưởng vẽ. Trần Khánh Triệu viết: “Chú Trí vẫn mải mê với tranh sơn mài trên đường Quần Ngựa”[13].

Nhưng như trên vừa nói: Khái Hưng năm 1930 đã ở đường Quần Ngựa, và Nguyễn Gia Trí năm 1943, cũng ở đường Quần Ngựa, có lẽ chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên mà thôi.

Địa chỉ gia đình Nhất Linh rất rõ ràng: Cả nhà ở số 9 phố Hàng Bè, nơi bà Nhất Linh có tiệm bán cau (thừa hưởng cửa hàng buôn tạp hoá của mẹ) đến cuối năm 1946. Sau khi tản cư trốn sự truy lùng của Việt Minh; năm 1947, gia đình hồi cư về Hà Nội, ở số 15, Hàng Bè[14].

Tú Mỡ đưa ra địa chỉ ở Ấp Thái Hà, ông viết: “Anh Tam nộp đơn xin Chính phủ cho phép ra tở bào “Tiếng cười” và chuẩn bị bài vở cho số báo ra mắt. Anh thuê một căn nhà nhỏ trong Ấp Thái Hà, lấy nơi tĩnh mịch để làm việc“[15].

Lời Tú Mỡ, như chúng tôi đã nói, có nhiều chỗ sai, riêng câu: “Anh thuê một căn nhà nhỏ trong Ấp Thái Hà, lấy nơi tĩnh mịch để làm việc”, không biết thế nào. Bởi vì, Nhất Linh có thói quen thích ở riêng, ông hay thuê nhà hoặc phòng, để làm việc cho yên tĩnh, sau này ở trong Nam cũng vậy. Nhưng căn nhà ở Thái Hà Ấp, nếu có thuê, chắc Nhất Linh chỉ dùng trong thời gian đầu, lúc dự định ra báo Tiếng Cười. Còn khi tòa soạn dọn về Quan Thánh, Trần Khánh Triệu cho biết: Nhất Linh và Hoàng Đạo viết trong phòng khách của tòa báo ở đường Quan Thánh[16].

Địa chỉ số 25, Boulevard Henri d’Orléans (nay là Phùng Hưng)

55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Tlvd7610

25 Bd Henri d’Orléans (nay là Phùng Hưng) tháng 12-2017, ảnh Nguyễn Huy Thiệp

Trên đầu Phong Hóa số 14 (22-9-32) ghi rõ: Toà soạn: 25 Boulevard Henri d’Orléans, Trị sự: 1 Boulevard Carnot.

Địa chỉ 25 Boulevard Henri d’Orléans (nay là Phùng Hưng) ở ngay đầu ngã tư Phùng Hưng-

Đường Thành bây giờ. Vậy 25 Boulevard Henri d’Orléans và căn nhà ở phố Đường Thành mà Khái Hưng hay nhắc đến, chắc là một. Và chính là nơi làm việc của ban biên tập Phong Hóa từ số 14, cũng có thể ngay từ số 1. Vì có những dấu hiệu sau đây:

– Trong Những ngày vui, Khái Hưng viết: “Trong khi ấy thì ở phố Đường Thành hẻo lánh, các nhân viên tòa soạn báo Tự Động làm việc để xuất bản số đầu kịp vào ngày đã định” (trang 105).

– Trong truyện ngắn Tôi không ngờ ký tên Bán Than, in trên PH số 7 (28-7-32), Khái Hưng lại viết: “Hồi ấy tôi thuê một cái buồng nhỏ ở phố Henri d’Orléans”.

– Thế Lữ cũng ghi: “Lần đầu tiên tôi gặp anh [Tú Mỡ] là ngày tòa soạn còn ở đường Henri d’Orléans, một cái nhà không có vẻ tòa báo một chút nào hết”[17].

– Phố Đường Thành còn được Khái Hưng nhắc đến nhiều lần, trong truyện dài Xiềng Xích sau này, là nơi ông có những người bạn tốt đã cưu mang ông, khi ông trốn mật thám Pháp, năm 1941.

Nhưng địa chỉ 25 Henri d’Orléans chỉ được in trên mặt báo trong 5 tháng.

Đến Phong Hóa số 32 (3-2-33), tòa soạn lại trở về địa chỉ số 1 đường Carnot, và giữ địa chỉ này trong gần hai năm nữa, đến Phong Hóa số 123 (9-11-34).

Kể từ số 124 (16-11-34), mới ghi: Tòa soạn 80 Avenue Grand Bouddha (đường Quan Thánh).

Và đó cũng là địa chỉ cuối cùng của Khái Hưng ở Hà Nội.

55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Tlvd7710

Số 80 Quan Thánh, tháng 12-2017, ảnh Nguyễn Huy Thiệp


Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7115
Registration date : 01/04/2011

55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng   55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 I_icon13Thu 23 Sep 2021, 07:07

TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG

Thuỵ Khuê


80 Quan Thánh, qua các giai đoạn đấu tranh

Chúng tôi tạm sơ lược tình hình chính trị rất rắc rối lúc bấy giờ để bạn đọc dễ hiểu hơn:

Nguyễn Tường Tam lập đảng Hưng Việt năm 1938 sau đổi thành Đại Việt Dân Chính. Mật thám Pháp bắt được bản chương trình hành động của đảng này do Nguyễn Tường Tam soạn, họ bắt đầu truy lùng từ năm 1940. Mùa thu 1940, Nhất Linh chia tay với Khái Hưng một đêm bên hồ Tây, trên căn gác nhà Thạch Lam, dưới nhà có Huyền Kiêu, Đinh Hùng. Huyền Kiêu làm bài thơ Tương biệt dạ, tặng hai anh. Khái Hưng vẽ bức tranh Trăng xưa minh họa cho thơ[18]. Từ đó Nhất Linh sống lẩn trốn, rồi chạy thoát sang Trung Hoa.

Hoàng Đạo và Nguyễn Gia Trí, bị bắt ngày 16/9/41.

Khái Hưng bị bắt ngày 31/10/1941[19] ở 80 Quan Thánh. Cả ba bị giam ở Vụ Bản tới 1943. Thạch Lam qua đời năm 1942. Năm 1943, được tha về nhưng vẫn bị quản thúc, Khái Hưng tiếp tục điều hành nhà in và nhà xuất bản tại 80 Quan Thánh.

Biệt thự 80 Quan Thánh là nhà của Khái Hưng thuê từ cuối năm 1934 để ở và làm trụ sở Phong Hóa Ngày Nay, nhà xuất bản Đời Nay và nhà in Ngày Nay. Kể từ tháng 4-1945, 80 Quan Thánh trở thành trụ sở của báo Việt Nam, báo Chính Nghĩa và của Việt Nam Quốc Dân Đảng.

Cuộc phân liệt giữa Việt Minh và Việt Nam Quốc Dân Đảng xẩy ra năm 1946, tới nay đã 75 năm, chúng ta đã có đủ khoảng cách thời gian để khảo sát vấn đề một cách khách quan, không hận thù, bè phái.

Nói một cách đầy đủ hơn, số 80 Quan Thánh từng là tòa soạn của 5 tờ báo: tuần báo Phong Hóa từ số 124 (16-11-34), tới số 190 (5-6-36), tuần báo Ngày Nay từ số 1 (30-1-35) số 224 (7-9-40), tuần báo Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới từ số 1 (5-5-45) đến số 16 (18-8-45), nhật báo Việt Nam, từ số 1 (15-11-45) đến tháng 11-1946, và tuần báo Chính Nghĩa từ số 1 (20-5-46) đến số 28 (16-12- 46). Đồng thời còn là địa chỉ của nhà xuất bản Đời Nay, nhà in Ngày Nay, nhà in Việt Nam, sau cùng là nhà in và nhà xuất bản Quan Thánh.

Khái Hưng là người trách nhiệm Phong Hóa từ số 1 và cũng là người cuối cùng trách nhiệm tờ Chính Nghĩa, sau khi các bạn đồng hành đã xa biệt. Trên tờ Chính Nghĩa, hầu như chỉ một mình Khái Hưng viết, cũng như Phong Hóa lúc đầu. Chính Nghiã là giai đoạn văn học tranh đấu cuối cùng của Việt Nam Quốc Dân Đảng.

80 Quan Thánh, báo Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới

Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, trả lại chính quyền cho Việt Nam, vua Bảo Đại lập chính phủ Trần Trọng Kim.

Ngày 20-3-45, báo Bình Minh, cơ quan của Đại Việt Tân Thanh Niên ra đời, do Nguyễn Giang (con Nguyễn Văn Vĩnh) làm chủ nhiệm, Khái Hưng, chủ bút, đăng những thông tin của báo Domei (Nhật)[20].

Ngày 5-5-1945, báo Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới, số 1 ra đời ở 80 Quan Thánh, với Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí, Hoàng Đạo; Nguyễn Tường Bách làm giám đốc và Nguyễn Trọng Trạc, thuộc đảng Xã Hội [chủ trương ôn hòa] coi việc trị sự.

Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới cực lực ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim, chào đón nền độc lập mới, kể tội thực dân, không chống Việt Minh. Tờ báo có thêm cộng tác viên mới không ở trong Tự Lực Văn Đoàn như Vũ Đình Liên, Vũ Ngọc Phan và Tú Mỡ cũng trở lại.

Cuối tháng 7-1945, Hoàng Đạo bị bệnh thương hàn phải nằm bệnh viện, nên chỉ còn Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí và Nguyễn Tường Bách phụ trách tờ báo.

Trong những ngày tháng tiếp theo, nhiều sự kiện lịch sử quan trọng dồn dập xẩy ra:

Ngày 15-8-1945, Nhật đầu hàng.

Ngày 16-8-1945, Nội các Trần Trọng Kim từ chức.

Ngày 18-8-1945, Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới ra số 16, rồi tự đình bản sau ngày Việt Minh lên nắm chính quyền.

Ngày 19-8-1945, Việt Minh lên nắm chính quyền.

Ngày 25-8-1945, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị.

Ngày 2-9-1945, Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời.

Nguyễn Tường Bách viết:

15-8-1945. Với trang sử mới đã lật, thời kỳ làm báo, làm văn từ 20 năm nay [thực ra là 13 năm] đã coi như kết thúc, với sự đình bản tự nguyện trước thời thế của tờ Ngày Nay vào hôm sau.[21].

80 Quan Thánh, nhật báo Việt Nam

Nguyễn Tường Bách viết:

   Bị dồn vào thế thụ động, các đảng phái quốc gia phải tạm rút lui vào bí mật trừ tại một số địa phương. Tuy vậy, để duy trì tiếng nói của mình trước dân chúng, chúng tôi xuất bản một tờ báo hàng ngày, Việt Nam thời báo. Vẫn do tôi và Khái Hưng chủ trách, trong lúc anh Hoàng Đạo đương phải điều trị bệnh thương hàn.[22]

Ngày 15-11-1945, nhật báo Việt Nam ra đời, do Khái Hưng và Nguyễn Tường Bách phụ trách bài vở, Nguyễn Trọng Trạc làm Giám đốc. Việt Nam số 1 có vẻ ôn hòa. Kể từ số 3 (17-11-45) bắt đầu đả kích Việt Minh. Nguyễn Tường Bách giải thích:

   Chúng tôi liền thực hành ngay một hành động rất cách mạng là tiếp thu ngay tờ báo Việt Nam mà không cho Nguyễn Trọng Trạc [ở trong đảng Xã Hội, ôn hòa hơn] biết, đổi làm cơ quan ngôn luận của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đó là tờ báo công khai đầu tiên của phe quốc gia (…) Chủ trương chính của tờ báo cũng là độc lập tự do, chống đế quốc, nhưng lại phê bình chính sách của chính phủ. Tất nhiên trên mặt báo có nhiều bài đấu khẩu với những tờ Cờ Giải phóng và Độc Lập hồi ấy, không kém phần kịch liệt.“[23]

Hồng Giang, một thành viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng viết: “Nhà văn cách mạng Khái Hưng cùng gia đình ở ngay tại tòa báo làm việc không kể ngày đêm. Có những ngày ông gần như một mình bao dàn cả tờ báo 4 trang, không lấy quảng cáo, một đêm chỉ ngủ vài tiếng đồng hồ (…) Hầu hết các bài xã luận trên báo Việt Nam đều do Khái Hưng viết nhưng không ký tên.[24]

Nguyễn Tường Tam về nước tháng 11-1945, cùng với các lãnh đạo đảng phái quốc gia lưu vong bên Tầu như Nguyễn Hải Thần, theo quân đội Tưởng Giới Thạch (quân Đồng minh) về Việt Nam giải giới quân Nhật đã đầu hàng.

Báo Việt Nam chính thức công bố việc Nguyễn Tường Tam về nước trên số 53 (16-1-1946).

Hồ Chí Minh chủ trương liên hiệp các đảng phái.

Nguyễn Tường Tam tham dự chính phủ Liên Hiệp ngày 2-3-1946, cầm đầu phái đoàn Việt Nam dự hội nghị Đà Lạt (18-4-1946 đến 11-5-1946). Hội nghị Đà Lạt thất bại, ông trở lại Vân Nam tháng 6-1946.

Đầu tháng 5-1946, quân đội Trung Hoa bắt đầu rút lui. Từ tháng 6-1946, tình hình giữa Việt Minh và các đảng phái quốc gia căng thẳng. Sau khi quân Tưởng Giới Thạch rút hết, nội chiến đã xẩy ra.

Ngày 20-5-1946, Khái Hưng cho ra tuần báo Chính Nghĩa (song song với nhật báo Việt Nam). Chính Nghĩa ra được 28 số, nội dung pha trộn chính luận và văn chương, có những bài viết về các chủ nghiã chính trị, đả kích chủ nghiã cộng sản, có những bài viết về lịch sử Việt Nam Quốc Dân Đảng, về những anh hùng trong VNQDĐ, về vụ Pháp nem bom Cổ Am… cùng với truyện ngắn và kịch, đó là những sáng tác cuối cùng của Khái Hưng.

Việt Minh bao vây tòa báo Việt Nam, Phan Khôi bị bắt ở 80 Quan Thánh

Theo Nguyễn Công Hoan, tháng 6-1946, trong một buổi mít-tinh ở Quảng Nam, Phan Khôi lên diễn đàn đả kích hiệp định sơ bộ 6-3-1946. Ông được bầu làm chủ chiệm chi bộ Quốc Dân Đảng ở Quảng Ngãi. Theo Hoàng Văn Chí, Phan Khôi cực lực phản đối việc cán bộ địa phương định phá nhà thờ Hoàng Diệu, và định bắt ông. Phan Khôi viết thư cho Huỳnh Thúc Kháng, lúc đó đang làm Bộ trưởng Nội vụ trong chính phủ, đòi can thiệp. Hồ Chí Minh giải quyết khéo léo, viết thư mời Phan Khôi ra Hà Nội và giao cho Phan Bôi (em họ Phan Khôi, lúc đó đang làm Thứ trưởng Nội vụ) quản lý. Nhưng Phan Khôi không chịu ở nhà Phan Bôi mà đến ở nhà Khái Hưng, 80 Quan Thánh.

Đêm 12-7-1946, công an bao vây 80 Quan Thánh, Phan Khôi bị bắt và bị đưa lên Việt Bắc[25].

Việc công an bao vây tòa soạn báo Việt Nam, Trần Khánh Triệu chỉ viết vắn tắt, có lẽ vì tối hôm đó ông ở nhà mẹ đẻ:

   Hội nghị Đà Lạt tan vỡ, “Cậu Hàng Bè” [Nhất Linh] từ chức bộ trưởng rồi sang Tàu lần nữa. Các trụ sở Việt Quốc lần lượt bị tảo thanh. Công an xung phong đột nhập tòa báo lục soát, bắt bớ. Các đảng viên cao cấp như bác Hể, bác Đóa, Trí, Dị… bị đem đi biệt tích. Tờ Việt Nam đình bản… Toà báo ngoài Papa, chỉ còn lèo tèo vài đồng chí lai vãng: anh Bảng, Kính, anh Cống, bác Thắng…[26]

Nhưng nhà văn Huy Quang Vũ Đức Vinh[27], trong bài “Từ vụ tấn công báo Việt Nam 1946, Nhớ về nhà văn Khái Hưng[28] đã mô tả chi tiết sự việc này. Lúc ấy Vũ Đức Vinh và Trần Đại Việt (sau này trở thành nhà thơ Thanh Nam), mới 15 tuổi, đang học lớp Quốc Gia Thanh Niên Đoàn của Quốc Dân Đảng do cụ Hể [Phạm Văn Hể, Giám đốc trường Cán bộ Quốc Dân Đảng] dạy ở 80 Quan Thánh. Huy Quang Vũ Đức Vinh kể lại chuyện từ đầu đến cuối. Trong bài viết của ông, không có chuyện “hai bên nổ súng bắn nhau” như những chỗ khác thuật lại, kể cả Hoàng Văn Đào. Những lời của Huy Quang Vũ Đức Vinh có lẽ thành thật, đúng đắn hơn cả. Bài viết dài, tôi chỉ xin trích dẫn vài đoạn:

   Chiều hôm đó, sau lớp học thường lệ của cụ Hệ [Hể]. Việt [Thanh Nam] và tôi rủ nhau xuống nhà chữ [nhà in] xem mọi người làm việc. Chúng tôi thích thú theo dõi mấy người thợ xếp chữ lành nghề thoăn thoắt nhặt từng chữ đúc chì trong hộp chữ đưa lên chiếc khuôn gỗ hình chữ nhật cầm trên tay (…) Khi chúng tôi tính ra về thì trời đã xẩm tối. Ngay lúc đó chợt có nhiều tiếng chân người dầm dập từ phiá cổng lớn bên đường Hàng Bún chạy vào, rồi cả từ phía cổng nhỏ đường Quan Thánh nữa. Tiếp theo là tiếng chân chạy lên phía cầu thang, và liền sau đó thì tôi thấy các công an xung phong tiến vào nhà chữ, người nào cũng cầm súng trên tay chĩa về phía trước. Có tiếng ra lệnh cho người trong nhà chữ đứng yên tại chỗ và giơ tay lên khỏi đầu. Việt và tôi đứng gần bên nhau. Chúng tôi làm theo lệnh đó như mọi người khác. Khoảng một tiểu đội công an xung phong xâm nhập nhà chữ. Họ bố trí đứng chặn ở cửa chính và các cửa sổ. Các nhân viên trong nhà chữ lúc đó khoảng hơn mười người đều ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì xẩy ra. Một lúc sau thì toán công an khác áp giải những người của tòa báo từ trên gác xuống, trong số đó có mấy nhân viên tòa soạn và cả vợ chồng ông Khái Hưng. Tất cả đều phải giơ tay cao và đi trước mũi súng của công an. Trong số những người từ trên gác đi xuống tôi còn thấy một người khách lạ, mặc âu phục trắng, đeo cà-vạt đen. Người này khoảng gần 60 tuổi, vóc dáng cao gầy vẻ mặt quắc thước và để râu dài chấm ngực. Vị khách lạ đi vào rồi dừng lại bên dàn hộp chữ cao ở phía bên trái, còn ông bà Khái Hưng đứng sang phía bên phải gần chỗ đặt bàn dao cắt giấy. Tổng số người bị dồn vào nhà chữ lên khoảng gần 20 người. Tất cả đều im lặng. (…) Chợt vị khách lạ lên tiếng nói với nhóm công an là cụ giơ tay đã lâu thấy mỏi và muốn biết cụ có thể bỏ tay xuống được không? Không ai trả lời, nhưng một nhân viên công an đứng gần cụ bỏ ra ngoài, rồi mấy phút sau viên chỉ huy toán công an bước vào. Hắn là một thanh nhiên tuổi trạc 30, thân hình rắn chắc khoẻ mạnh, nét mặt sáng sủa thuộc thành phần có học. Hắn nói với vị khách lạ:

   – Thưa thày Phan Khôi. Con là học trò của thày. Xin thày bỏ tay xuống. Nhưng sao thày lại ở trong tòa báo này.

   Tôi ngạc nhiên một cách thích thú khi biết vị khách lạ là cụ Phan Khôi, tác giả bài thơ “Tình già” mà tôi mới được đọc cách đó ít lâu. Cụ Phan Khôi từ từ buông tay xuống rồi đáp:

   – Tôi mới ở Trung Bộ ra Hà Nội và hôm nay đến thăm ông Khái Hưng, bạn của tôi. Chẳng may tôi bị đau bụng diarrhée, nên ông bạn tôi mời ở lại. Ở đây có nhà xí tốt.

   Câu đáp khiến người nghe có thể cười, nhưng lúc đó trước mũi súng chẳng ai cười, ngoại trừ ông Khái Hưng. Ông mỉm cười nhẹ nhàng, gật đầu xác nhận lời nói của cụ Phan Khôi, rồi yêu cầu viên chỉ huy công an cho mọi người bỏ tay xuống với lý do không ai có vũ khí. Nhưng viên chỉ huy này chỉ đồng ý để thêm bà Khái Hưng được buông tay mà thôi. Ông Khái Hưng nhìn sang bà vợ ra hiệu chấp nhận điều đó và bà Khái Hưng bỏ tay xuống. Bà giữ một nét mặt bình thản, đĩnh đạc nhìn thẳng phía trước. Bà vấn tóc trần và mặc chiếc áo dài mầu mỡ gà như thường ngày tôi vẫn gặp. Hình như chỗ ở luôn luôn có nhiều người qua lại nên lúc nào bà cũng mặc áo dài. Bà vóc người mảnh mai, vẻ thanh tú khuê các, chắc cũng xấp xỉ tuổi 50 nhưng khuôn mặt còn phảng phất những nét đài trang của một thời xuân sắc (…)

   Tất cả nhân viên tòa báo Việt Nam bị bắt giữ ngày hôm đó được đưa lên hai chiếc xe loại vận tải kín bưng chờ sẵn ở phiá cổng sau tòa báo (…) Xe chạy từ tòa báo về ty công an trên đường Trần Hưng Đạo (tức phố Gambetta cũ). Tại đây xe chạy qua hai chiếc cổng sắt lớn vào khu nhà giam rộng lớn phía sau. Một số nhân viên công an đã chờ sẵn và đưa giải chúng tôi từng người vào nhà giam. Riêng bà Khái Hưng được tách ra đưa về một khu khác mà sau này tôi được biết là khu dành cho phụ nữ. Tôi nhìn theo cụ Phan Khôi và ông Khái Hưng, thấy hai người được đưa vào hai phòng giam khác nhau.

   Ngày hôm sau, tất cả phải trả lời thẩm vấn, rồi trở về phòng giam thêm một đêm nữa trừ cụ Phan Khôi và những người làm trong nhà chữ, đã được về. Khoảng 2, 3 giờ chiều hôm sau thì tất cả được lên xe chở về tòa soạn:

   Ông Khái Hưng đẩy cánh cổng mở rộng và tất cả chúng tôi đi thẳng vào nhà chữ. Một cảnh tượng đồ đạc bề bộn ngổn ngang phơi bầy trước mắt chúng tôi. Các hộp chữ bị kéo đổ tung toé. Giấy báo bị rỡ tung. Các ngăn kéo đều bị rút ra khỏi bàn. Nhiều chiếc ghế bị đạp đổ hoặc xô nghiêng. Có những bộ phận máy in bị gỡ xuống sàn nhà (…)

   Lên đến trên gác, chúng tôi chia làm ba nhóm. Bà Khái Hưng đi thẳng vào căn phòng [của ông bà] phía cuối. Ông Khái Hưng cùng mấy vị thuộc tòa soạn đi vào căn giữa, không phải để quan sát cảnh hoang tàn bề bộn mà để họp. Việt và tôi đi vào căn phòng phía ngoài [nơi làm lớp học]. Căn phòng này ít đồ đạc nên ít bị lục lọi… Việt và tôi rủ nhau định ra về thì bà Khái Hưng từ phía cửa phòng cuối vẫy chúng tôi qua. Bà nói giọng nhỏ nhẹ, từ tốn và xưng hô với chúng tôi theo liên hệ tuổi tác, bác và cháu. Đặc biệt bà nhờ chúng tôi cố tìm một chiếc bút máy mầu đen. Chúng tôi tìm khá lâu mà không thấy nên có ý bỏ cuộc. Không phải chỉ có giấy tờ, mà còn nhiều cuốn sách, rồi quần áo, chăn gối và đủ mọi thứ đồ đạc lặt vặt khác ngổn ngang trong phòng. Bà Khái Hưng tiếp tục tìm kiếm và nói cho chúng tôi biết sở dĩ bà muốn tìm kiếm chiếc bút vì đó là tặng vật ngày cưới của ông bà. Khi biết điều này, không bảo nhau Việt và tôi lại cặm cụi tìm kiếm. Một lúc sau ông Khái Hưng từ phòng bên bước qua cũng tham gia cuộc tìm kiếm.

   Nhưng liền đó, Việt đã tìm thấy chiếc bút nằm nép sau một chồng sách. Việt vừa giơ chiếc bút lên là bà Khái Hưng nhận ngay ra… bảo vật. Mừng rỡ hiện rõ trên nét mặt, bà nhận chiếc bút trên tay Việt với lời cám ơn vồn vã. Rồi cầm chiếc bút trong lòng bàn tay một cách nâng niu trìu mến bà đưa qua cho ông Khái Hưng. Hai vợ chồng nhìn nhau rõ vẻ âu yếm, và tôi thấy ông Khái Hưng đã nắm bàn tay trong đó có chiếc bút
[29].

Ở đoạn sau, tác giả ghi thêm những nhận xét về Khái Hưng, vẫn giọng nhẹ nhàng, tế nhị:

   Tôi nhớ nhất cái dáng dấp mảnh khảnh nhưng nhanh nhẹn và nét mặt linh hoạt của ông Khái Hưng mỗi khi ông lên xuống cầu thang, đi từ tòa soạn xuống nhà chữ trong căn nhà hai tầng này. Tôi cũng nhớ tiếng cười khanh khách đầy hào sảng của ông. Sau này tôi đã có dịp đọc thêm và đọc lại những tác phẩm của ông, và tôi càng nhận thấy văn phong của ông phản ảnh thật rõ rệt con người của ông, con người với một tâm hồn vui tươi dí dỏm, hóm hỉnh nhưng khúc triết và sâu sắc. Tôi thấy hình ảnh con người đó hiện lên qua nhiều đoạn văn, nhiều mẩu đối thoại, nhiều tình tiết trong các tác phẩm của ông. Tôi còn nhớ cả cái phong cách tự tin điềm đạm của ông, khi bị công an Việt Minh bắt đứng giơ tay trong nhà chữ và lời yêu cầu của ông cho mọi người được buông tay xuống. Tôi thấy ở đó cái bản lĩnh của người lãnh đạo… Tôi cũng không quên được hình ảnh bà Khái Hưng (…). Tôi thích cái hình ảnh bà Khái Hưng tìm kiếm chiếc bút máy kỷ vật ngày cưới trong khung cảnh căn phòng đầy chứng tích của đổ vỡ hoàng tàn, tưởng như đó là báu vật mà không còn gì khác có thể thay thế (…) Tôi tin chắc trong hành trang của ông bà mang theo trên đường tản cư, thế nào cũng có chiếc bút kỷ vật ngày cưới. Hẳn bà đã giữ kỷ vật đó mãi, trong suốt phần đời còn lại”[30].

Sau vụ lục soát và bắt bớ này, theo Hoàng Văn Đào tờ Việt Nam vẫn ra lại như thường, còn Nguyễn Tường Bách và Trần Khánh Triệu cho rằng báo Việt Nam ngừng hẳn. Chúng tôi chỉ có vài số báo Việt Nam (bản điện tử), nên không thể kiểm chứng được. Duy có điều chắc chắn là báo Chính Nghĩa vẫn tiếp tục quảng cáo: Nên đọc báo Việt Nam, cơ quan của Việt Nam Quốc Dân Đảng tới số 27 (9-12-1946) mới ngừng. Và tới số 28 (16-12-1946) là số cuối cùng, Chính Nghĩa, bắt đầu quảng cáo cho báo Thời Phong. Báo Thời Phong là con đường mới của Khái Hưng cùng với Phan Khôi, Hồ Hữu Tường, Tô Ngọc Vân, chủ trương bỏ hẳn chính trị để trở lại với văn nghệ thuần túy, kể từ đầu năm 1947, nhưng chưa kịp thi hành.

Quốc Dân Đảng thua trận

Đầu tháng 7-1946, cuộc chiến bắt đầu giữa Việt Minh và Quốc Dân Đảng ở mặt trận Vĩnh Yên, Việt Trì[31]. Chính phủ Liên hiệp cử đoàn đại biểu hỗn hợp hai bên (Nguyễn Tường Long đại diện Quốc Dân Đảng và Tướng Hoàng Văn Thái đại diện Việt Minh) lên giảng hòa. Việc không thành. Quốc Dân Đảng thua trận. Nguyễn Tường Bách–theo Vũ Hồng Khanh chỉ huy quân Quốc Dân Đảng rút lên Yên Bái– kể lại:

   Mấy ngày sau, bỗng có điện từ Hà Nội lên cho biết lực lượng Chính phủ đã bắt đầu khủng bố các vị trí QDĐ ở Hà Nội, Vĩnh Yên. Yên Bái lại bị tấn công riết. Tình thế nguy hiểm mà tất cả các nhóm Việt Cách đã rút đi hết. Rồi có tin anh Tam đã đáp máy bay đi Côn Minh. Bảo Đại cũng đã làm như thế. Thời cục đã xoay đến chỗ phá liệt gay go. Xem ra lực lượng căn cứ mong manh quá khó mà giữ nổi.

   Để gia cường việc ngoại giao với Trung Hoa và đồng minh, chúng tôi đồng ý phái anh Long lên ngay Côn Minh, hợp tác với anh Tam để hành động. Với một số anh em hộ vệ anh Long sang Hà Khẩu, đi đường bộ lên Mông Tự vì quãng đường sắt Hà Khẩu-Mông Tự đã bị phá huỷ chưa sửa chữa được, rồi đáp xe hoả đi Côn Minh“
[32].

Tình hình càng ngày càng khẩn cấp. Quốc Dân Đảng ở bước đường cùng.

Cuối tháng 7-1946, Nguyễn Tường Bách cùng bẩy bạn đồng hành được lệnh vượt cầu sắt Lào Cai-Hà Khẩu, sang Vân Nam tìm cách cầu viện.

Khái Hưng, một mình, ở lại. Trần Khánh Triệu viết:

   Hè năm 46, Việt Minh mở chiến dịch càn quét các trụ sở Việt Quốc, thì tờ Việt Nam phải hạ bảng, các đảng viên cao cấp lánh sang Trung Hoa, riêng ba tôi [Khái Hưng] thuộc thành phần những người ở lại bí mật phụ trách bộ tuyên huấn của đảng với bí danh Trần Lâm“[33].

Khái Hưng ở lại trong tình thế hết sức nguy hiểm, nhưng ông vẫn tiếp tục làm báo Chính Nghĩa. Tờ báo còn hiện diện đến ngày 16-12-1946, là dấu ấn sau cùng của Khái Hưng, đặc biệt vở kịch Khúc Tiêu Ái Oán, tác phẩm cuối cùng, kết thúc trong số báo chót, như một khúc nhạc tiễn đưa.

Địa chỉ 80 Quan Thánh còn tồn tại tới ngày 19-12-1946, ngày Khái Hưng cùng và gia đình rời Hà Nội tản cư về làng Dịch Diệp, huyện Trực Ninh, quê vợ.

Mấy ngày sau ông bị Việt Minh bắt. Tết Đinh Tỵ (1947) ông được trở về thăm gia đình và sau đó bị đưa đi mất tích”[34].

(Còn tiếp)

Thụy Khuê


[1] Đại Nam Nhất Thống Chí, tập III, nxb Thuận Hoá, Huế, 1992, trang 190.

[2] Có chỗ chép bài phú này làm năm 1801 để dâng vua Cảnh Thịnh khi ông chạy ra Bắc, là lầm, bởi Cảnh Thịnh đến tháng 2 năm 1802 mới chạy ra Bắc, mà bài Chiến Tụng Tây Hồ phú của Phạm Thái, “họa” lại bản này làm năm Canh Thân (1800), như lời Phạm Thái ghi.

[3] Chép theo bản Đào Minh Phấn sao lục in trên Nam Phong số 113, Janvier 1927, trang 50-56.

[4] Đại Nam Nhất Thống Chí, tập III, nxb Thuận Hoá, Huế, 1992, trang 219.

[5] Thư Trung, Khái Hưng, thân thế và tác phẩm, Văn số 22 (15-11-1964), Sài Gòn, trang 3.

[6] Nguyễn Thạch Kiên, Lời nói đầu, tập truyện Bóng giai nhân của Khái Hưng in năm 1966 tại Sài Gòn, in lại trong tập Khái Hưng, Kỷ Vật đầu tay và cuối cùng, cuốn hai, Phượng Hoàng, Cali, 1998, trang 552-553.

[7] Cuốn 1: Hồn bướm mơ tiên, có hai phần: phần 1, truyện Hồn Bướm mơ tiên và phần 2, tập hợp bài của nhiều tác giả viết về Khái Hưng. Cuốn 2: Bóng giai nhân, cũng có hai phần: phần 1, là tập truyện ngắn Bóng giai nhân, (đã được Nguyễn Thạch Kiên in lần đầu, giữa năm 1966 tại Sài Gòn dưới tên Lời nguyền) gồm các truyện ngắn: Bóng giai nhân, Lời nguyền, Hổ, Tây xông nhà, Quan công sứ, Nhung, Khói hương, Người anh hùng, Tiếng người xa; và ba vở kịch: Câu chuyện văn chương, Dưới ánh trăng, Khúc tiêu ái oán. Phần 2, gồm bài của nhiều tác giả viết về Khái Hưng. Trong tập Bóng giai nhân do Nguyễn Thạch Kiên in còn thiếu vở kịch Đoàn kết, sau được Viên Linh in trên Khởi Hành số 225-226 (tháng 10 và 11, năm 2015).

[8] Nguyễn Thạch Kiên, Đốt lò hương ấy… in trong Khái Hưng, Kỷ Vật đầu tay và cuối cùng, tập một, Phượng Hoàng, Cali, 1997, trang 10.

[9] Số 1 Boulevard Carnot là địa chỉ tòa soạn và trị sự, được ghi trên báo Phong Hóa từ số 1 (16-6-1932) đến số 13 (8-9-1932). Kể từ số 14 (22-9-1932) đến số 31 (24-1-1933), số Xuân, dưới tên tờ báo, ghi hai địa chỉ: Toà soạn: 25 Boulevard Henri d’Orléans (nay là Phùng Hưng) và Trị sự: 1 Boulevard Carnot (nay là Phan Đình Phùng). Từ số 32 (3-2-1933) đến số 120 (19-10-1934), trở lại địa chỉ duy nhất: Toà soạn: số 1 Boulevard Carnot.

[10] Nguyên văn quảng cáo: “Kể từ ngày 15-4-1933 quyền xuất bản Phong Hóa thuộc về Société annamite d’Edition et de Publicité (Annam xuất bản cục)”. Địa chỉ số 1 Avenue Carnot.

[11] Nguyên văn quảng cáo: “Ngày 15-9-1934 bắt đầu bán Đẹp của Nguyễn Cát Tường, Tô Ngọc Vân, Lê Phổ, Trần Quang Trân”. Đẹp có lẽ là một cuốn sách tranh và cũng là ấn bản đầu tiên của Đời Nay. Đến PH số 118 (5-10-1934) mới ghi địa chỉ nhà xuất bản này ở số 1 Boulevard Carnot.

[12] Ba tôi của Trần Khánh Triệu, Văn số 22 (15-11-1964), số tưởng niệm Khái Hưng.

[13]Papa tòa báo của Trần Khánh Triệu, Thế Kỷ 21, số tưởng niệm Khái Hưng (tháng 12-1997), in lại trong Nhất Linh người nghệ sĩ-người chiến sĩ, Nxb Thế Kỷ, California, 2004.

[14] Theo lời nhà văn Nguyễn Tường Thiết nói với tôi qua điện thoại.

[15] Trong bếp núc Tự Lực Văn Đoàn, hồi ký của Tú Mỡ, tạp chí Văn Học số 5, 6-1988số 1-1989, in lại trong Nhất Linh cây bút cột trụ của Tự Lực Văn Đoàn do Mai Hương tuyển chọn, nxb Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, 2000. Và trích in trong Nhất Linh người nghệ sĩ, người chiến sĩ, Nxb Thế Kỷ, California, 2004, trang 109-119.

[16] Papa tòa báo, Trần Khánh Triệu, Thế Kỷ 21, số tưởng niệm Khái Hưng (tháng 12-1997), in lại trong Nhất Linh người nghệ sĩ-người chiến sĩ, Nxb Thế Kỷ, California 2004, trang 164.

[17] Phóng bút của Lê Ta (Thế Lữ), in trên Phong Hóa số 154 (20-2-1935).

[18] Thơ và tranh được in trong giai phẩm Đời Nay Xuân 1941, in lại trong Văn Hóa Ngày Nay, tập 5, trang 85, và trong Văn số 22 (15-11-1964) tưởng niệm Khái Hưng cùng với bài viết của Đinh Hùng kể lại kỷ niệm này.

[19] Theo François Guillemot, Đại Việt, indépendance et révolution au Việt Nam (Đại Việt, độc lập và cách mạng Việt Nam), Les Indes Savantes, Paris, 2012, trang 87.

[20] Tài liệu của Aki Tanaka gửi cho tôi ngày 3-9-2020.

[21] Nguyễn Tường Bách, Việt Nam một thế kỷ qua, cuốn một, Thạch Ngữ, California, 1998, tái bản lần thứ nhất, 2002, trang 163.

[22] Nguyễn Tường Bách, Tưởng nhớ Khái Hưng (in trong Khái Hưng, Kỷ vật đầu tay và cuối cùng, do Nguyễn Thạch Kiên (1926-2008) thực hiện, Quyển 1, Nxb Phượng Hoàng, California, 1997, trang 166.

[23] Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, Nhóm nghiên cứu sử địa, Montréal, 1981, trang 78.

[24] Hồng Giang, Nhớ về văn hào Khái Hưng, in trong Khái Hưng, Kỷ vật đầu tay và cuối cùng, do Nguyễn Thạch Kiên (1926-2008) thực hiện, Quyển 1, Nxb Phượng Hoàng, California, 1997, trang 469, 470.

[25] Theo Nguyễn Công Hoan, Hành động và tư tưởng phản động của Phan Khôi cho đến thời kỳ toàn quốc kháng chiến, Văn Nghệ số đặc biệt thứ 2 chống Nhân Văn Giai Phẩm, số 12 (5-1958).

[26] Trần Khánh Triệu, Papa nhà báo, in trong Nhất Linh người nghệ sĩ-người chiến sĩ, Nxb Thế Kỷ, California, 2004, trang 170.

[27] Huy Quang Vũ Đức Vinh là người cùng với Nguyễn Văn Giang, chủ trương tờ Đất Mới từ tháng 7-1975, một trong những tờ báo tiếng Việt đầu tiên ở Mỹ. Tháng 4-1976, có thêm Thanh Nam và Túy Hồng cộng tác.

[28] Từ vụ tấn công báo Việt Nam 1946, Nhớ về nhà văn Khái Hưng của Huy Quang Vũ Đức Vinh, in trong Khái Hưng, Kỷ vật đầu tay và cuối cùng, tập 1, do Nguyễn Thạch Kiên sưu tầm và biên soạn, Nxb Phượng Hoàng, California, 1998, trang 315-341.

[29] Huy Quang Vũ Đức Vinh, Từ vụ tấn công báo Việt Nam 1946, Nhớ về nhà văn Khái Hưng, in trong Khái Hưng, Kỷ vật đầu tay và cuối cùng, tập 1, do Nguyễn Thạch Kiên sưu tầm và biên soạn, nxb Phượng Hoàng, Cali, 1998, trang 325-336.

[30] Huy Quang Vũ Đức Vinh, sđd, trang 338-341.

[31] Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, Nhóm nghiên cứu sử địa, Montréal, 1981, trang 93-94.

[32] Nguyễn Tường Bách, Việt Nam những ngày lịch sử, Nhóm nghiên cứu sử địa, Montréal, 1981, trang 94-99.

[33] Trần Khánh Triệu, Ba tôi, Văn số 22, trang 18.

[34] Theo Trần Khánh Triệu, Papa nhà báo, in trong Nhất Linh người nghệ sĩ-người chiến sĩ, Nxb Thế Kỷ, California, 2004, trang 170.

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7115
Registration date : 01/04/2011

55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng   55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 I_icon13Tue 28 Sep 2021, 09:24

TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG

Thuỵ Khuê


Số 80 Quan Thánh

Phần II: Khái Hưng

55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Tlvd7810

Từ Cổ Am đến Hà Nội


Nhất Linh không trực tiếp dính líu với cách mạng chống Pháp trước khi thành lập Tự Lực Văn Đoàn, vì khi ông du học Pháp về cuối năm 1930, Toàn quyền Pierre Pasquier đã dẹp xong cuộc cách mạng Việt Nam Quốc Dân Đảng và phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.

Khái Hưng là người ở trong cuộc từ năm 1930.

Ngày mồng một Tết Canh Ngọ (30-1-1930), Trần Khánh Giư bị cảnh sát (mật thám) Pháp đến khám nhà. Ông thuật lại việc này trong truyện ngắn Tây xông nhà, đăng trên báo Việt Nam, số Tết Bính Tuất, 1946:

Viên “quan” Tây đó là Heineshilk –ấy là tôi [Khái Hưng] theo vần đọc mà viết ra, chứ chưa thấy tên hắn in trên giấy bao giờ- theo lời đồn, người gốc Áo, bị án tử hình, trốn sang Pháp, xung lính lê-dương (légionnaire), đi Maroc, rồi sang Việt Nam. Đúng chức của y là Chef de police (Cảnh sát trưởng), nhưng y không thích người ta gọi đúng chức vụ, mà thích được gọi là Quan đại (Monsieur le délégué, tức ông đại lý).

Vậy, chín giờ tối ngày mồng một Tết 1930, Trần Khánh Giư, con trưởng quan Tổng đốc Trần Mỹ, bị viên đại lý-cảnh sát trưởng đến khám nhà.

Tối hôm mồng một Tết ấy, giữa lúc chúng tôi đương xum họp vui cười xung quanh bàn bất với gia đình, thì một người lính cảnh sát lên gác nói cho chúng tôi biết có “quan đại” đến.

Khánh Giư băn khoăn tự hỏi: “Đến chúc Tết mình chăng?”, “Mà hắn đến chơi mình giờ này (9 giờ tối) có lẽ để đôi bên hàng phố khỏi thấy sự tự hạ mình của hắn đi chúc Tết một người Việt Nam“. Nhưng không phải. Người lính nói tiếp:

Thưa ông, quan nói nếu ông không bằng lòng để quan khám ngay tối hôm nay thì sáng mai quan đến sớm cũng được.

À ra thế! Đến để khám nhà! (Nhà con quan Tổng đốc).

Một lát sau, lão đại lý, trong bộ trào phục đầy kim tuyến, cao lớn, sừng sững hiện ra trước ánh đèn măng xông. Theo sau hắn là viên Tri phủ Ninh Giang với cái bài ngà chức tước vừa tô son lại, lủng lẳng trước ngực. Theo sau viên Tri phủ là viên thông ngôn toà đại lý, cặp mắt hấp háy chớp trong đôi mục kỉnh cận thị. Theo sau viên thông ngôn là hai viên cảnh sát với cái bao súng lục oai nghiêm đeo bên sườn.

Sau vài lời xin lỗi vì đến khám nhà giờ này là trái luật, nhưng vì “lòng tốt” muốn tránh tiếng cho gia đình khỏi bị hàng phố thấy cảnh khám nhà. Đoạn y ra lệnh cho Tri phủ:

“Bây giờ thì chúng ta đi làm bổn phận của chúng ta.”
Việc bổn phận của họ là rút hết ngăn kéo ra, mở hết các tủ ra, lục tung hết các sách vở, quần áo, vứt tứ trung ra đầy sàn gác. Khi vớ được mấy tập ảnh của tôi, mắt lão đại lý sáng rực lên sau đôi kính cặp mũi:

– À! Tôi biết rồi, ông là một nghệ sĩ nhiếp ảnh. Hẳn ông có đủ các ảnh kỷ niệm gia đình.
Vừa nói hắn vừa mở vừa chăm chú tìm tòi. Rồi hắn thì thầm hỏi ông Phủ:
– Ông có biết mặt nó không?

– Thưa không.

Lão Đại lý lắc đầu chán nản. Bỗng hắn quay phắt về phiá tôi sừng sộ:

– Ông biết tôi tìm ảnh ai không?

– Không, tôi biết sao được.

– Thôi ông đừng vờ. Ảnh tên C. đâu, ông phải trỏ ngay cho tôi biết, nếu không tôi sẽ có cách.

Tôi thừa hiểu bọn thực dân đương đi lùng kiếm ảnh của C, một nhà cách mạng quan trọng người vùng này. Nhưng tôi cũng hỏi:

– C nào thế, thưa quan đại?

– C nào? Ông muốn biết C nào à? C trưởng ban ám sát của cái đảng mà ông rất quen thuộc. Không những tôi biết ông có ảnh của C, mà tôi còn mới được tin hắn trốn về đây ăn Tết với ông nữa kia. (…)

Từ hôm ấy tôi mới bắt đầu một chương trình khiêu khích của tôi. Tự nhiên tôi trở nên một nhà viết báo để thỉnh thoảng gửi bài đăng chơi trên Annam Nouveau hay Trung Bắc tân văn.

Trong những bài vớ vẩn ấy, tôi không hề đả động tới lão đại, nhưng mỗi lần thân ra nhà Bưu Chính gửi thư, tôi lại vui sướng hóm hỉnh nhìn đùa lão chủ sự để nghĩ thầm: “Thế nào chốc nữa thầy trò chúng mày chẳng mở thư của tao ra xem trước!”

Và cũng từ hôm ấy dân phố Ninh Giang nghiễm nhiên thấy tôi trở nên tay kình địch ghê gớm của “Quan Đại”. Cuối năm ấy, tôi bỏ nghề buôn để theo nghề văn”
[1]

Màn khám nhà tối mồng một Tết Canh Ngọ (30-1-1930) là màn đầu tiên.

Sang tháng 2, bắt đầu cuộc cách mạng rộng lớn của Việt nam Quốc Dân Đảng mà xã Cổ Am, nằm trong địa hạt ba huyện: Ninh Giang, Vĩnh Bảo và Phụ Dực, giáp giới nhau, có phần đóng góp quan trọng. Ninh Giang và Vĩnh Bảo thuộc tỉnh Hải Dương[2], Phụ Dực thuộc tỉnh Thái Bình. Xã Cổ Am, quê Khái Hưng, thuộc huyện Vĩnh Bảo.

Ngày 10-2-1930, Việt Nam Quốc Dân Đảng phát động Tổng Khởi Nghiã ở Yên Bái, tấn công Yên Bái, Hưng Hóa, Lâm Thao, Sơn Tây, Đáp Cầu, Phả Lại, Kiến An, ném bom Hà Nội (nhà Arnoux chánh mật thám, Hoả Lò và sở Cảnh sát).

Ở vùng Thái Bình, Hải Dương, Việt Nam Quốc Dân Đảng chọn hai huyện Phụ Dực, Vĩnh Bảo, có hai tri huyện Trương Trọng Hiền (Phụ Dực) và Hoàng Gia Mô (Vĩnh Bảo) rất tham tàn, bắt nhiều đảng viên Quốc Dân Đảng.

Ngày 15-2-1930, Hòa Quang Huy, Đào Văn Thê và Nguyễn Văn Hộ chỉ huy 40 đồng chí võ trang đánh úp huyện Phụ Dực, tri huyện Trương Trọng Hiền trốn thoát.[3]

Ở Vĩnh Bảo, Trần Quang Diệu (viết đúng chính tả là Riệu) lập mưu cho tri huyện Hoàng Gia Mô chạy sang Ninh Giang cầu cứu và trên đường về, y bị nghĩa quân đón bắt, xử tử.

Báo Chính Nghĩa số 9 (29-7-46) có bài Trần Quang Riệu, ký tên T, nhưng chắc chắn là Khái Hưng, vì lúc đó hầu như chỉ còn mình Khái Hưng viết, tường thuật chi tiết cuộc nổi dậy ở Vĩnh Bảo và giải thích tội ác của gia đình họ Hoàng:

Vĩnh Bảo khi ấy ở dưới quyền viên tri huyện Hoàng Gia Mô, con Hoàng Mạnh Trí, cháu Hoàng Cao Khải, dòng dõi một gia đình đã nổi tiếng với ngoại bang là gia nô, tẩu cẩu [chó săn] của người Pháp. (…) Trong một bài thơ mừng thọ hắn của báo Nam Phong, cũng không lấy gì khen hắn được ngoài câu “Pháp, Nam hai nước, một công thần!” Than ôi! Một người có thể nào vừa là công thần của nước Pháp, lại vừa là công thần của nước Nam?

Người ta tưởng công to của Hoàng Cao Khải là giúp Pháp dẹp cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, đánh Đề Thám. Không. Không phải. Không có Hoàng Cao Khải, Pháp vẫn thắng cuộc. Cái công to của họ Hoàng là ở chỗ khác, Khái Hưng viết tiếp:

Hắn có công với người Pháp là để cho người Pháp tha hồ xuyên tạc, tha hồ thực hành sai hiệp định 1884 ở Bắc kỳ. Bỏ phủ Kinh lược, dồn cả quyền bính viên Kinh lược vào cho viên Thống sứ Bắc kỳ; để các công sứ Pháp cướp hết quyền các quan tỉnh Việt Nam, trước còn nguyên trong việc hành chính, sau lấn sang cả quyền Tư pháp; cắt đứt hẳn Bắc Kỳ, Trung kỳ ra thành hai nước nhỏ, chịu mỗi bên một chính thể một luật pháp, nói tóm lại, làm cho Bắc kỳ thuộc thẩm quyền trực trị của Pháp, đó mới là cái công to của hắn đối với người Pháp. Và chỉ có những việc ấy, hắn mới xứng đáng được cái tên “mãi quốc cầu vinh” mà thôi!

Theo cái gia giáo của những ông cha ấy, tự nhiên Hoàng Gia Mô cũng là một tay thần tử rất trung thành của “Mẫu quốc” và rất tận tâm lùng bắt các tay cách mạng ở trong hạt Vĩnh Bảo. Trừ những người hắn đã nộp đi không kể, nguyên hôm huyện vỡ, anh em còn gỡ ra ở trong khám giam huyện hơn hai chục người!


Những lời kể tội trên đây đều đúng với sự thực lịch sử: Khi Toàn quyền Paul Doumer sang Đông Dương (1897), đã xóa bỏ những điều Pháp ký trong hòa ước Giáp Thân (1884) chủ yếu Việt Nam chỉ nhận sự bảo hộ của Pháp. Y bỏ chức Kinh Lược sứ, vị quan coi toàn cõi Bắc kỳ của triều đình để thay thế bằng chức Thống sứ (Résident Supérieur) của Pháp. Và ở mỗi tỉnh, y đặt một viên Công sứ (Résident) để cai trị trực tiếp: Tống đốc, Tuần phủ đều ở dưới quyền Công sứ. Y biến đối chế độ bảo hộ, thành chế độ thuộc địa trên toàn thể nước ta (chúng tôi sẽ nói rõ hơn trong chương Ngày Nay tranh đấu). Hoàng Cao Khải là viên Kinh lược sứ cuối cùng đã tận tụy giúp Paul Doumer thi hành chính sách phản trắc này.

Trần Quang Riệu, con một nhà gia thế ở Cổ Am, đến buôn bán ở phố huyện Vĩnh Bảo, “kết thân” với quan huyện. Bề ngoài tay bắt mặt mừng, nhưng trong trí anh vẫn coi nó là loài cẩu trệ! Nhất là khi thấy các bạn đồng chí cứ lần lượt bị nó bắt bớ, tra tấn một cách rất dã man, lòng anh căm giận lắm, chỉ mong có một ngày sẽ băm thây, xẻ xác nó ra để báo thù!

Thì cái ngày ấy đã đến nơi: Đảng viên đâu đấy đã nhận được lệnh Tổng Công Kích, anh cùng các đồng chí còn sót lại trong hạt, liền họp nhau để bàn việc đánh Vĩnh Bảo”
.

Trần Quang Riệu báo cho Hoàng Gia Mô biết có 200 quân cách mạng sẽ tấn công Vĩnh Bảo, và bầy kế cho y: quân ở đây quá ít, Quan lớn nên sang cầu cứu bên đồn Ninh Giang. Mô nghe lời, vừa lên ô tô đi khỏi, thì Riệu và các đồng chí chiếm huyện, bác loa diễn thuyết dụ lính huyện ra hàng, kéo cờ đảng lên. Mô sang Ninh Giang, nhưng viên quan hai coi đồn từ chối[4] viên binh, Mô quay trở về Vĩnh Bảo, bị quân cách mạng phục kích bắt được, xử tử. Nhưng Quốc Dân Đảng chỉ giữ được Vĩnh Bảo hơn một ngày.[5]

Ngày 16-2-1930, Pháp trả thù, ném 57 trái bom xuống Cổ Am[6].

Quân cách mạng ở các nơi khác cũng dần dần bị tiêu diệt.

Ngày 20-2-1930, Nguyễn Thái Học bị bắt ớ Ấp Cổ Vịt (Bắc Ninh)[7].

Ngày 17-6-1930, Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí bị chém đầu ở Yên Bái.

Trần Quang Riệu bi bắt ở Thái Nguyên tháng 5-1930, bị chém cùng với ba đồng chí tại Hải Dương, ngày 23-6-1931[8].

Cuối năm 1930, Khái Hưng lên Hà Nội. Tháng 6 năm 1932, Khái Hưng cùng Nguyễn Gia Trí chủ trương báo Phong Hóa, với sự trợ giúp của Nguyễn Xuân Mai, Phạm Hữu Ninh.

15 năm sau, Khái Hưng viết bài đầu tiên trên báo Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới số 2 (12-5-45), tựa đề: Bọn thực dân Pháp vô nhân đạo đã diễn một tấn thảm kịch trên sân khấu Cổ Am.

16 năm sau, Khái Hưng viết bài Tây xông nhà, trên báo Việt Nam, số Tết Bính Tuất 1946, và bài Trần Quang Riệu trên báo Chính Nghiã số 9 (29-7-46).

Dưới đây là toàn bài đã đăng trên báo Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới.

Bọn thực dân Pháp vô nhân đạo đã diễn một tấn thảm kịch trên sân khấu Cổ Am

Màn thứ nhất

Sau khi được tin Trần Quang Diệu, một đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng đã cùng với chi bộ trưởng Đào Văn Thê chiếm hai huyện Phụ Dực, Vĩnh Bảo và hành hình Hoàng Gia Mô, tay sai trung thành của bọn thực dân Pháp, thì Robin bèn thương lượng với Delsalle [Đốc lý Hà Nội] và một vị Nam quan cao chức nhất rồi cho một đoàn phi cơ đến oanh tạc làng Cổ Am, nguyên quán của hai nhà cách mệnh kể trên. Đoàn phi cơ vượt qua làng, ra tận biển, rồi quay lại nhả bom, nhả bừa như gieo mạ, từ cuối làng cho tới đầu làng. Riêng một nhà kẻ viết bài này, đã có hân hạnh nhận được năm quả… tịt và một quả nổ, nhưng may mắn rơi vào khu vườn xa nhà và chỉ đánh chẻ vài cây cau cỗi. Còn một nhà khác nhận được có một quả, nhưng thiệt gần hai chục mạng, nghiã là bao nhiêu người dự lễ cúng kỵ ở nhà ấy đều bị giết sạch.

Nào đã hết đâu! Đoàn phi cơ còn trở lại một lần nữa để nã liên thanh xuống bọn dân quê vô tội hỗn độn chạy trốn.

Màn thứ hai

Sau công cuộc tán phá của phi binh, đến lượt đàn áp của bộ binh, chở bằng một đoàn xe vận tải xung công (trong đó có cả xe của kẻ viết bài này). Chúng vây kín làng, nã súng liên thanh, bắn mấy phát ra oai. Một vị hưu quan trong làng phải mang cờ trắng (làm bằng cái khăn bàn) ra xin điều đình. Viên quan tư chỉ huy đạo lục quân liền vào trong đình làng và hống hách tuyên bố: “Đình này từ nay là nhà tao, vì tên thành hoàng không giữ nổi việc trị an, đã bị tao tống cổ đi rồi!” Và hắn cười thích chí.

Màn thứ ba

Ngày hôm sau, chúng thi hành công cuộc triệt hạ: đốt nhà Đào Văn Thê; đốt nhà Trần Quang Diệu và nhà thân sinh anh đã khuất ông tú Cư, đốt nhà các đảng viên khác; chặt trụi hết các luỹ tre chung quanh làng, bắt bớ, đòi hỏi, tra tấn, ăn hội lộ: chính tôi cũng bị gọi ra tòa đại lý Ninh Giang và bị dí súng vào mặt nạt dọa. Trong khi ấy thì hàng trăm lính đóng ở làng Cổ Am hạch sách dân gian đủ thứ. Quỹ làng không đủ để cung đốn bò, lợn, gạo, củi cho chúng, làng phải cầm cố vay mượn và số tiền nợ hiện nay vẫn chưa giả hết.

Màn thứ tư

Delsalle và một bọn võ quan Pháp về làng. Không phải họ về để uỷ lạo hay xem tình hình dân đâu. Họ chỉ về để điều tra sức tàn phá của những trái bom đã nổ, và nguyên nhân sự hư hỏng của những trái bom tịt. Họ cười ha hả, nói bông lơn trong khi ngắm nghía các bức tường đổ, những thân cây bị phạt ngang. Họ bắt mò những trái bom ở dưới ao lên. Còn những nhà có người vô tội bị họ giết thì không những không được họ thí cho một lời an ủi, mà còn bị họ chửi thêm cho là khác: “Chúng nó chết là đáng đời! Vì cả làng chúng mày là giặc! Đáng lẽ các quan giết tuốt mới phải!”

Màn thứ năm

Mấy tuần lễ sau, vì không bắt được Trần Quang Diệu, bọn thực dân Pháp sai viên huyện Vĩnh Bảo Cung Đình Vận về làng đào mả ông tú Cư, thu cốt bỏ vào cái tiểu sành, rồi trói đem về giam tại huyện lỵ.

Màn tối hậu

Năm 1940, phi cơ Đức dội bom xuống nước Pháp, nã súng liên thanh xuống quân đội Pháp hèn nhát chạy toán loạn như đàn vịt!

Thực là ác giả ác báo!

Khái Hưng


Như thế, Khái Hưng không phải là người ngoại cuộc, không để ý đến chính trị, hoặc chỉ làm cách mạng vì đi theo Nhất Linh, như ta tưởng. Mà ông còn có một ý chí quyết liệt của người “trong cuộc” đã chứng kiến cuộc nổi dạy ở Vĩnh Bảo cùng việc trả thù đẫm máu của thực dân ngay sau đó trên nền đất Cổ Am. Lời văn trong đoạn Màn tối hậu, nói lên sự căm thù cực điểm có ý nguyền rủa mà chúng ta không thấy trong văn bình thường của Khái Hưng, nhưng đồng thời đưa đến ý nghĩ: có ác giả ác báo thật chăng? Bởi vì Pierre Pasquier bị tử nạn máy bay ngày 15-1-1934, tại Pháp, khi còn tại chức Toàn quyền Đông Dương.

Trần Khánh Triệu viết về Khái Hưng và số 80 Quan Thánh

Kể từ năm 2015, tôi đã tích lũy tư liệu để viết về Tự Lực Văn Đoàn. Năm 2017, tôi điện thoại hỏi ông Trần Khánh Triệu: “Anh còn nhớ năm nào anh về làm con nuôi ông bà Khái Hưng không?” Ông không nhớ. Sự “không nhớ” chứng tỏ việc này xẩy ra khi ông còn rất nhỏ. Tôi lại hỏi: “Anh có biết trước khi dọn đến 80 Quan Thánh, Khái Hưng ở đâu không?” Ông cũng không nhớ. Năm ấy ông đã 85 tuổi.

Khi đọc lại bài Ba tôi, ông viết năm 1964, thì tôi biết, trước khi ở 80 Quan Thanh, Khái Hưng đã ở đường Quần Ngựa.

Nhưng sau đó ông Triệu vui vẻ nói về nhà Quan Thánh, ông bảo: nhà đó ba tôi thuê của một bà đầm có 5 hay 10 đồng một tháng! Năm 2020, qua điện thoại, anh Nguyễn Tường Thiết cũng kể là ông Triệu nói như thế. Tôi phân vân, không biết ông Triệu có nhớ lầm hay không, vì một biệt thự lớn như vậy, ở thời ấy, giá thuê phải trên 50 đồng. Hoặc Trần Khánh Triệu nhớ lầm, hoặc Khái Hưng nói đùa với con, nhưng cậu bé Triệu tưởng thật.

Trần Khánh Triệu tức Nguyễn Tường Triệu, con trai Nhất Linh, sinh ngày 15-11-1932, lúc Phong Hóa đã ra tới số 21 (11-11-1932), và phải đến số 124 (16-11-1934), Phong Hóa mới dọn về địa chỉ 80 Quan Thánh.

Nếu Nguyễn Tường Triệu về với cha mẹ nuôi khi có nhà mới, thì lúc đó, bé Triệu mới khoảng hai tuổi, hoặc sau đó ít lâu. Triệu là con trai thứ hai của Nhất Linh. Người con thứ ba là Nguyễn Tường Thạch, sinh ngày 6-10-1935. Vậy sự “cho” này có ý “kết nghĩa vườn đào” và phải đến từ một niềm tin yêu vô bờ từ hai phía. Trần Khánh Triệu viết: “Cả một thời niên thiếu của tôi, tôi được cha mẹ nuôi của tôi mà tôi thưa là papa và me, cưu mang lo lắng tận tụy còn hơn là con đẻ nữa”[9].

Và Trần Khánh Triệu cũng là người ghi lại nhiều thông tin nhất về Khái Hưng, qua những bài viết sau đây:

Ba tôi (ít kỷ niệm với Khái Hưng)[10], viết sớm nhất, năm 1954, ông 22 tuổi, chắc hẳn có những điều sống động vì là ký ức gần, rất tiếc chúng tôi chưa tìm lại được văn bản này.

Ba tôi [11], viết năm 1964, ông 32 tuổi, tuy phải viết nhanh trong 48 tiếng đồng hồ để kịp lên báo Văn, nhưng có nhiều chi tiết đáng quý về những ngày Khái Hưng bị bắt đưa đi mất tích.

Papa tòa báo[12], viết ở hải ngoại, năm 1997, ông 65 tuổi, bổ sung cho bài Ba tôi, toàn diện hơn, viết về Khái Hưng từ khi làm báo đến khi bị Việt Minh bắt.

Papa tòa báo viết năm 2013, ở tuổi 81, tóm tắt một số ý đã viết trong hai bài trên, một phần được đọc trong cuộc hội thảo ngày 6-7-2013 về báo Phong Hóa Ngày Nay và Tự Lực Văn Đoàn do Phạm Phú Minh tổ chức tại California và in lại trong Kỷ yếu của hội thảo.

Tóm lại, hai bài Ba tôi (báo Văn) và Papa tòa báo (Thế Kỷ 21) bổ sung cho nhau. Đây là hai tài liệu chính xác nhất về Khái Hưng mà chúng tôi có được.

Gia cảnh Khái Hưng

Khi cha mất, Khái Hưng đứng tên đăng cáo phó trên báo Phong Hóa số 91 (30-3-34), ghi như sau: “Cụ Trần Mỹ Tổng đốc trí sĩ, hưởng thọ 72 tuổi, mệnh chung ngày 10 tháng 2 (tức ngày 24-3-1934) tại làng Cổ Am…”, dưới đề: Cô tử Trần Khánh Giư, đồng gia, khấp báo.

Báo Phong Hóa in lời chia buồn với bốn người con trai: Trần Khánh Giư, Trần Tự [công chức], Trần Tiêu [nhà văn], Trần Hiệt và tang gia.

Trần Khánh Triệu nhớ lại về đại gia đình Khái Hưng:

Tôi còn được biết thêm ông nội xưa làm Tuần phủ Thái Bình có những năm bà tất cả, nên lúc mất đi con cháu đông đảo lắm. Bà nội tôi là cả sinh được bốn người con, trước hết là bác Trần Xuân làm Thương tá nhưng chẳng may mất sớm, rồi đến papa, kế đó là chú Trần Tiêu và cuối cùng là cô Ngọc. Riêng bà thứ năm chỉ sinh được một cô con gái được ông nội tôi quý nhất cho rất nhiều nhà cửa của cải ở Ninh Giang, Hà Nội. Bà tôi tuy là cả nhưng lành lắm, không ham thích những nơi quan quyền chỉ an nhàn sống nơi quê làng nên ai cũng mến thương[13].

Khái Hưng tên thật là Trần Khánh Giư, sinh năm 1896 tại xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương. Học chữ nho với thầy đồ đến 10 tuổi, sau mới chuyển sang Tây học. Học trường Albert Sarraut, đậu tú tài triết học. Sau đó ông buôn sơn. Không biết vì việc buôn sơn bị lỗ hay vì áp lực của Pháp lên Quốc Dân Đảng sau vụ Cổ Am, mà cuối năm 1930, Khái Hưng lên Hà Nội, dạy trường tư thục Thăng Long và gặp Nhất Linh.

Thủa nhỏ, Khái Hưng bị mẹ ghẻ hành hạ tàn tệ, Trần Khánh Triệu viết:

Sinh trưởng trong một gia đình quan lại nhưng ngay từ tấm bé, theo lời me tôi thuật lại, ba tôi đã phải chịu cảnh hành hạ của bà dì ghẻ khắc nghiệt. Trời lạnh như cắt ruột vẫn bị người nhà lôi ra sân bôi xà phòng đen, lấy bàn chải xát đến bật máu tươi để trừ ghẻ. Phải chăng vì phải chịu đựng hoàn cảnh ấy ba tôi đã có những kinh nghiệm sống để viết nên hai cuốn Thoát ly và Thừa tự. Cũng như theo lời me tôi, hồi bé, mỗi khi uất ức đau buồn chuyện gia đình, ba tôi lại vào chùa niệm Phật tụng kinh cứu khổ[14].

Khái Hưng có nghiện thuốc phiện không?

Nhiều người thấy ba tôi gầy yếu (nặng khoảng 46 cân) lại là nhà văn nên vội cho là nghiện hút. Điều đó tuyệt nhiên không có. Ba tôi không hề cho rằng vì mình là nhà văn nên được quyền sống phóng đãng (…) Ba tôi chỉ nghiện độc có thuốc lá, hồi nào nhà dư giả thì Mélia vàng, ít tiền thì hút píp. Khi nào cần thức khuya viết bài thì cà phê hay chè tầu nhưng phải là loại hảo hạng.

Mỗi nhà văn thường có những thói quen khi sáng tác, ba tôi cũng vậy. Viết bài phải viết vào lúc sáng sớm hay đợi lúc về khuya. Ngồi ung dung trên chiếc ghế mây, trời lạnh xếp bằng luôn trên ghế ba tôi ngâm nga vài câu chèo cổ hay trống quân, điếu thuốc ngậm trên môi thỉnh thoảng lại thả khói tròn lên trần. Bút máy thường là loại Waterman ngòi vàng viết lên giấy pelure dầy, khi nào ngừng lại nghĩ ngợi, ba tôi lại có thói quen vẽ những hình xoáy ốc hay những chữ S kế tiếp dính liền nhau.”
[15]

Khái Hưng gầy yếu và môi thâm nên người ta suy ra là ông nghiện thuốc phiện, trong số đó có cả Nguyễn Vỹ. Sự thực, ông bị bệnh tim và ông ghi lại việc này trong truyện dài Xiềng xích. Có lẽ đó là lý do khiến khi bị bắt, Pháp không (dám) tra tấn ông như đối với Hoàng Đạo và Nguyễn Gia Trí và ở trại giam Vụ Bản ông được làm việc nhẹ hơn Nguyễn Gia Trí và Hoàng Đạo.

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7115
Registration date : 01/04/2011

55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng   55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 I_icon13Thu 30 Sep 2021, 08:55

TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG

Thuỵ Khuê


Bà Khái Hưng Lê Thị Hoà bút hiệu Nhã Khanh


55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Tlvd7910

Chân dung Bà Khái Hưng (vào khoảng năm 1930)


Trần Khánh Triệu cho biết gia cảnh bà Khái Hưng, và nhờ đó, ta có thể hiểu tại sao Khái Hưng có phương tiện để chuyên về viết văn, làm báo:

   Chính nhờ me tôi mà ba tôi mới khỏi lo nghĩ về sinh kế để có thể sáng tác nhiều văn phẩm như vậy. Me tôi tên thật là Lê Thị Hòa, biệt hiệu Nhã Khanh, con của một vị Thượng thư [Lê Văn Đính] đậu cử nhân triều Nguyễn. Gia đình bên ngoại tôi rất khá giả, cho riêng me tôi tới hơn năm mươi mẫu ruộng miền Quế Phương, Chợ Cồn. Nhờ tiền thóc thu được hàng năm nên việc chi tiêu trong gia đình cũng đỡ rất nhiều. Me tôi lại khéo thu vén buôn bán nên mặc dù số lương viết báo hồi đó có 30 đồng một tháng ba tôi cũng không cần lấy phần nào hoa lợi bên nội, dù ba tôi có quyền hưởng.

   Me tôi chữ nho viết rất đẹp, tình tình đoan trang, ít nói hiểu rộng về Hán học. Cứ đến đoạn nào viết về các bà, ba tôi bao giờ cũng hỏi ý kiến me tôi rất cẩn thận. (…)

   Sau khi ba tôi bị bắt, me tôi vẫn sống với một hy vọng mong manh ngày kia ba tôi sẽ trở về. Kịp đến khi Việt Minh tiếp thu Nam Định, biết chắc chắn ngày về của người chồng không hề có nữa, me tôi bị bịnh tim nặng, từ trần vào năm 1954
[16].

Nhã Khanh có bài: Tâm lý đàn bà in trên Phong Hóa số 35 (24-2-33) chỉ trích Lê Đàm không hiểu chữ nho mà học đòi biết chữ. Và vở kịch vui, Kiêng, in trên Phong Hóa số Xuân 171 (21-1-36).

Khái Hưng và dự định ra báo Thời Phong


Trần Khánh Triệu viết:

   Còn một chuyện chắc ít người được biết là trong thời kỳ đó ngoài việc hoạt động cho đảng ba tôi dự tính mở tờ Thời Phong, một tờ báo hoàn toàn có tính cách văn nghệ, cùng với một đồng chí trẻ tuổi – anh Bảng (người phụ trách mục “Chuyện lẩn thẩn” trong tờ Việt Nam ký tên Chàng Lẩn Thẩn – sau này khi chiến tranh bùng nổ, anh bị bắt ở Bắc Ninh). Dù trong một thời gian tình hình gay go đến như vậy ba tôi vẫn cùng anh Bảng say sưa hoạch định tương lai cho tờ báo. Hai người mướn một tòa nhà ở phố Thái Phiên (Chợ Hôm) mời cụ Phan Khôi, ông Tô Ngọc Vân lại bàn soạn. Qua câu chuyện của những người lớn đó (lẽ tất nhiên tôi chỉ được nghe lỏm) thì tờ báo sẽ ra mắt độc giả vào khoảng tháng Giêng, 1947. Tiếc thay dự tính ấy chẳng bao giờ thành được.[17]

Nhờ Trần Khánh Triệu mà ta biết: Chàng Lẩn Thẩn“anh Bảng”, một người trẻ tuổi, không phải Khái Hưng, đã viết những bài trên Việt Nam. Trong khi hầu hết các tác giả khác đều “cho” rằng Chàng Lẩn Thẩn là Khái Hưng. Và có lẽ Việt Minh cũng biết Chàng Lẩn Thẩn là anh Bảng, cho nên anh mới bị bắt ở Bắc Ninh.

Trần Khánh Triệu còn cho biết anh Bảng đã cùng Khái Hưng, mướn một căn nhà ở phố Thái Phiên (chợ Hôm) mời Phan Khôi và Tô Ngọc Vân lại để bàn việc ra tờ Thời Phong vào tháng Giêng năm 1947. Việc này phù hợp với lời quảng cáo báo Thời Phong, in trên Chính Nghiã số 28 (16-12-46).

Khái Hưng đóng cửa Việt Nam và Chính Nghĩa, chủ trương hoà giải

Báo Chính Nghĩa  số 25 (25-11-46) là số báo cuối cùng còn đăng quảng cáo: “Nên đọc báo Việt Nam, cơ quan của Việt Nam Quốc Dân Đảng“.

Báo Chính Nghĩa số 27 (9-12-46), có bài xã luận Toàn dân nhất trí. (Bị sắp chữ lầm là Quân dân nhất trí) của Chàng Lẩn Thẩn, nói rõ chủ trương muốn giành lại độc lập, thì toàn dân phải nhất trí:

   Từ trước đến sau chúng tôi chỉ một lòng mong mỏi ở nền độc lập hoàn toàn cho tổ quốc, chúng tôi không được rõ thái độ của chính phủ, chúng tôi công kích chỉ để làm cho lòng dân hăng hái và luôn luôn nghĩ đến tổ quốc. Ngày Nay trong giai đoạn nghiêm trọng, chính phủ và toàn dân đều nhất trí trên con đường tranh đấu, đó là nguyện vọng của chúng tôi, và chúng tôi không còn mong ước điều gì hơn. Vì vậy, tờ báo Việt Nam đã đạt được mục đích của nó là “làm cho hành động của chính phủ hợp với ý muốn của toàn dân” mục đích đã đạt được thì sự đình bản của nó rất là hợp lý.” Chính Nghĩa số 27 (9-12-46).

Đó là lý do Khái Hưng cho đình bản tờ Việt Nam và liền sau đó ông ngừng tờ Chính Nghĩa.



55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Tlvd8010      55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Tlvd8110


Báo Chính Nghiã số 28 (16-12-46), số chót, quảng cáo: “Thời Phong, tuần báo, văn chương, mỹ thuật, xã hội và không chính trị sẽ ra mắt Quốc dân vào đầu năm 1947“, ba chữ “không chính trị” in đậm và trang báo kế tiếp quảng cáo cho Nhà in và nhà xuất bản Quan Thánh, 80 đường Quan Thánh.

Như vậy, Khái Hưng đã sắp đặt rõ ràng: Báo Thời Phong sẽ ở địa chỉ Thái Phiên và số 80 Quan Thánh trở thành nhà in và nhà xuất bản.


55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Tlvd8210     55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Tlvd8310

Quảng cáo Báo Thời Phong và Nhà xuất bản Quan Thánh, trên báo Chính Nghĩa số 28.



Về việc Khái Hưng chủ trương báo Thời Phong, Hồ Hữu Tường viết:

   Mười tám năm qua, Khái Hưng từ giã cõi đời, để lại một sự nghiệp văn chương đồ sộ. Một đôi người biết những việc mà Khái Hưng và tôi trù liệu vào những tháng chót của năm lịch sử, 1946, càng tiếc hơn nữa. Phỏng cho Khái Hưng còn sống mười năm nữa thôi, thì tờ báo văn nghệ Thời Phong, lúc ấy vừa kết thai, sẽ viết những trang gì trong lịch sử văn chương ở nước nầy? Rồi họ giục tôi nhắc lại khoảng đời đó của Khái Hưng. Để cho những tài hoa hậu sinh nào thích thú thì dẫm bước theo con đường mà tác giả Hồn bướm mơ tiên toan dấn thân vào (…)

   “Khái Hưng già hơn tôi song say mê, hăng hái, kiên quyết hơn tôi nhiều. Sau khi đình bản tờ Việt Nam; anh chạy vốn, mướn nhà, mua giấy… để cho ra một tuần báo văn nghệ hầu đề cao cái “văn chương sáng giá “. Chúng tôi đồng ý chọn tên là “Thời Phong”.

   Thời phong có nghiã là gió mùa, gió mùa ngự trị cả Á châu, là nơi chôn rau cắt rún của các tôn giáo lớn. Thời phong có nghiã là cái chỉ hướng gió. Hiểu một cách khinh miệt thì nghiã bóng của tiếng ấy dùng để chỉ bọn luôn luôn hướng theo thời cuộc. Còn hiểu một cách đề cao, thì đó là một dụng cụ giúp cho người vượt biển biết hướng gió mà giương buồm cho đúng phép.

   Mười tám năm qua. Khái Hưng không còn. Chỉ còn cái sự nghiệp khi là đồng trụ của nhóm Tự Lực Văn Đoàn.
[18]

Những lời trên đây của Hồ Hữu Tường giúp ta hiểu rõ thêm: Khái Hưng, khi đã quyết định đoạn tuyệt với chính trị để trở về với văn nghệ, ông mở rộng địa bàn tư tưởng, ngoài những người bạn đồng hành như Phan Khôi, Tô Ngọc Vân, ông còn kết hợp với những nhà văn không cùng lập trường trước đây như Hồ Hữu Tường, lý thuyết gia của nhóm Đệ Tứ, nhưng đã bỏ Đệ Tứ năm 1939.

Khái Hưng chủ trương hòa giải ngay từ những số Chính Nghiã đầu tiên, ông viết hài kịch Đoàn kết, in từ Chính Nghiã số 2 (27-5-46) đến số 8 (8-7-46), nói lên tình trạng hài hước của một gia đình ở Hà Nội, trong cuộc đảng tranh: anh em một nhà chia hai phe, coi nhau như quân thù, gọi nhau là Việt gian. Trên Chính Nghiã số 9 (29-7-46), in tác phẩm Dưới ánh trăng, bi kịch giữa hai thanh niên, một Quốc Dân Quân, một Vệ Quốc Quân, gặp nhau và hiểu nhau quá muộn trên chiến trường trước khi chết.

Và trên những số Chính Nghiã cuối cùng, ông cho in vở bi kịch Tiếng tiêu ai oán, tác phẩm giá trị cuối cùng của Khái Hưng viết về Ngũ Tử Tư: vì can trường thực hiện lý tưởng cao đẹp báo thù cha, được vinh danh muôn thủa, y đã trở thành con người vô nhân, phản quốc.

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7115
Registration date : 01/04/2011

55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng   55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 I_icon13Fri 01 Oct 2021, 08:18

TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - VĂN HỌC VÀ CÁCH MẠNG

Thuỵ Khuê


80 Quan Thánh, những ngày vui

Trần Khánh Triệu viết:

Căn nhà 80 Quan Thánh mà tôi đã sống cùng cha mẹ nuôi tôi cả một thời thơ ấu với bao buồn vui kỷ niệm. Nơi đây, cha nuôi tôi, nhà văn Khái Hưng đã sống, đã viết bao nhiêu tác phẩm để đời, trong khoảng thời gian 1934, 1935, tới năm 1946. Nghĩa là cách đây đã hơn 50 năm rồi!

Toà báo có hai mặt, mặt chính trông ra phố Quan Thánh, hồi trước 45 có cái tên Tây là Avenue du Grand Bouddha, mặt kia số 55 quay về phiá Hàng Bún tức Rue des Vermicelles, nhà này nguyên của một bà đầm cho papa tôi thuê (ấy theo thói quen tôi vẫn thưa với cha nuôi tôi là papa hay rõ hơn “papa tòa báo” để phân biệt với cha đẻ tôi – ông cụ ở Hàng Bè nên tôi vẫn dùng những chữ “cậu Hàng Bè” cho tiện).

Mặt trông ra phiá Quan Thánh bước vào là một cái cổng nhỏ, hàng rào thấp, có cây leo rậm rạp quanh năm. Mặt phiá Hàng Bún cổng sát hai cánh rộng hơn, xe ô-tô đi lọt, vườn hoa bao bọc xanh tốt bốn mùa. Những luống hồng nhung mọc giữa dãy cỏ tóc tiên mượt mà, vài cây phượng trổ hoa đỏ rực, cây lá móng ngựa hoa mầu lam dịu, lại có cả một bụi tre già cao chót vót, những ngày gió mạnh lá cọ vào nhau nghe cọt kẹt. Dưới vòm tre xanh tốt, một bàn ping pong được kê ngay ngắn, lâu lâu papa lại đưa bạn bè xuống đánh vài ván, tiếng bóng nhựa nhảy trên bàn ròn rã. Những buổi trưa hè oi ả, sau bữa ăn trưa papa thường nằm trên ghế xích đu hút píp, me ngồi thêu áo kế bên, tôi thì khoái nhất được leo lên cây ngâu già gần đó, thò tay chộp đuôi con mèo xiêm đang nằm lim dim suy tư nghiền ngẫm trên cành. Từ vưòn bước lên năm sáu bậc thềm vào nhà, hàng hiên trước khá rộng… phòng lớn đặt máy in cùng chỗ sắp chữ, phòng bên phải nhỏ hơn nơi làm việc của ban trị sự tờ Ngày Nay, nhà xuất bản Đời Nay và sau này là tờ Việt Nam cơ quan tranh đấu của Việt Nam Quốc Dân Đảng.

Đi lên gác, hàng hiên lát gạch men tầu ngăn chia bên này là dẫy buồng kho nhà tắm… bên kia phòng lớn quét vôi màu xanh lơ thoáng mát. Phòng bên trái trông ra bụi tre được ngăn đôi: buồng ăn và buồng ngủ của riêng gia đình tôi. Phòng giữa nơi làm việc của papa và tòa soạn kê hai bàn lớn đầu vào nhau, đầu bàn được khắc dấu hiệu Tự Lực Văn Đoàn, trên tường treo mấy bức tranh sơn dầu vẽ phong cảnh của họa sĩ Trần Bình Lộc và Nguyễn Gia Trí

Phía bên phải là phòng khách kê một bộ salon nhỏ, một bàn làm việc, còn cái tủ sách lớn sát tường thì xếp toàn sách quí của nhà xuất bản Đời Nay, bìa da chữ mạ vàng óng ánh“
[19].

Không khí làm việc trong tòa soạn



55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Tlvd8410

Từ phải sang trái: Đứng–Hoàng Đạo và một người bạn. Ngồi: Khái Hưng, Thế Lữ, Xuân Diệu và một người bạn.
(Nguồn: Cù Huy Hà Vũ; chữ ký của Thế Lữ tặng Xuân Diệu.)


Trần Khánh Triệu kể tiếp: “Sau khi uống cà phê, đọc sách chữ Hán, chơi ô chữ và ăn sáng, thường là cháo hoa với đường cát vàng hoặc cơm nắm muối vừng…

   Rồi khi mặt trời đã lên cao, ánh nắng chiếu vào nhà, papa đứng lên vươn vai sang phòng làm việc. Trong cái không khí vắng lặng êm ả, papa say sưa viết trên những trang giấy trắng rời không kẻ hàng bằng cây bút máy Waterman ngòi vàng mềm mại, nét chữ đứng ngay ngắn rõ ràng. Có lúc viết xong một đoạn bỗng ngừng lại, papa nhăn mặt nhìn lên trần, tay gõ nhịp lên bàn, sau đó thế nào trên giấy cũng có thêm những hình loằng ngoằng như xoắn ốc kéo dài ra mãi. Đôi khi con mèo xiêm lách cửa đi vào nhảy tót lên bàn nằm chình ình một đống, tự nhiên như không… papa lấy tay khẽ vuốt ve, nưng niu con vật, miệng se sẽ hát câu chèo quen thuộc “Đất ngài đây… thanh lịch…đất có hữu tình ….

   Chiều và tối thì phòng giữa nhộn nhịp hẳn lên, khói thuốc toả lan khắp nơi. Bác Thế Lữ lúc nào cũng ngồi đối diện với papa, người hao hao gầy, đôi mắt sắc sảo, dáng điệu trông lúc nào cũng đầy vẻ bí mật (…) Sợ nhất là có lần bác mang về một cái sọ người, không biết thật hay giả, đặt ngay trên thành lò sưởi, nhe răng cười với hai mắt sâu thăm thẳm ghê hồn! Chú Hoàng Đạo và “cậu Hàng Bè” của tôi thì làm việc bên phòng khách có khi tới khuya cũng chưa ra về. Hai người lúc nghỉ ngơi thường bầy cờ ra đánh, mỗi lấn chiếu tướng chú lại đập mạnh quân cờ cười ha hả. Papa lâu lâu cũng tới góp nước, hoặc mở đàn tam thập lục dạo một bản, tiếng trong trẻo rộn ràng.

   Những ngày tòa soạn làm việc như vậy tôi thích nhất được xem chú Gia Trí vẽ tranh. Chấm mực đen chú vẽ Lý Toét rất gọn, rất ngon lành, hình Xã Xệ chỉ đưa vài nét là xong, bao giờ cái tóc xoắn như lò xo của ông Xã cũng được vẽ sau chót. Có một dạo bác Tô Ngọc Vân thay thế chú Trí. Hình như bác mới ở bên Xiêm về, bác vừa vẽ vừa kể cho tôi nghe nhiều chuyện bên đó. Đôi khi bác còn cho tôi vài viên kẹo gôm tẩm đường nhưng kẹo không ngon và nhiều như loại Toffee chú Trí vẫn cho, bởi vậy hồi đó tôi thấy bác vẽ Lý Toét Xã Xệ sao không được đẹp bằng chú Trí của tôi!

   Thỉnh thoảng bác Tú Mỡ từ Láng cỡi bình bịch tới tòa báo thăm anh em, người gầy nhưng tiếng cười rộn rã đi tới đâu cũng nhộn nhịp tới đó (…) Ngược hẳn với bác Tú Mỡ, chú Thạch Lam của tôi đi tới đâu cũng yên lặng như một cái bóng, chú thường mặc áo dài the thâm, dáng người điềm đạm, ánh mắt sâu thăm thẳm. Chú Huy Cận thì thân với tôi hơn, còn nhớ có lần ở Trung ra chú cho tôi một củ khoai to tướng, gấp ba bốn lần củ khoai thường. Tôi thích quá, nhất định không ăn để dành mãi dưới gầm giường. Sau đó ít lâu, papa với vẻ trang trọng đưa cho tôi tập Lửa Thiêng và nói chú có tặng tôi một bài thơ trong đó, tôi lật trang giấy rồi lẩm bẩm đánh vần:

   TỰU TRƯỜNG

   Tặng em Triệu.”
[20]

Thế Lữ trong bài Phóng bút của Lê Ta mô tả không khí tòa báo như sau:

   Nhị Linh [Khái Hưng] với ông chủ nhiệm [Nhất Linh] là hai người rất ăn ý nhau, nhưng trái lại, lại hay cãi nhau nhất. Chúng tôi thường vẫn được chứng kiến những cuộc tranh biện rất kịch liệt của hai người. Vì một bức tranh khôi hài, vì một bài gửi đến, vì một việc xẩy ra trong làng báo hay vì điều phán đoán các đức tính của mấy thứ rượu sâm banh, hai ông bỗng thành ra hai phái tương phản cực đoan, cần phải có cái khôn khéo của Nhị Linh mới hòa giải được.

   Khái Hưng là một người trông không được khỏe mạnh béo tốt lắm – nói thế để khỏi nói rằng anh hơi gầy. Anh làm việc rất chóng và rất nhiều, vì trong người lúc nào cũng sôi nổi những đầu đề và ý tưởng. Trong lúc yên lặng cũng như khi đông đủ mọi người, cần đến bài là anh ngồi viết ngay được. Có lúc đang nói chuyện, thỉnh thoảng anh ngừng lại, rồi lại nói tiếp, rồi lại ngừng lại nữa: dăm lượt như thế là viết xong một truyện vui. Anh có những cái phép tìm cảm hứng thật bất ngờ. Trước khi viết một bài truyện ngắn, anh hay uốn nắn chăm chú vẽ một cái dấu hỏi lên đầu trang, hoặc vẽ một cái đầu người hay một thứ hình thù nào khác, rồi cứ thế tô đậm lại cho đến lúc câu thứ nhất hiện đến. Viết được câu thứ nhất -đầu đi thì đuôi lọt- là anh kéo một mạch đến câu sau cùng.
[21]

Sự sùng kính Khái Hưng và Nhất Linh



55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Tlvd8510

Đại hội văn giới và báo giới Hà Nội thập niên 1930: 3 đại diện Tự Lực Văn Đoàn: (1) Nhất Linh, (2) Khái Hưng, (3) Thạch Lam
(Nguồn: Thư viện trực tuyến Nguyễn Hưởng)


Nhà văn Vũ Trọng Can, viết trong bản thảo cuốn Bút ký viết cho con trai tôi, được Nguyễn Thạch Kiên ghi lại:

   … Tôi khao khát một ngày nào đó sẽ được gặp ông Khái Hưng.

   Dịp đó đã tới. Tôi gửi đến tòa soạn báo Ngày Nay (Bộ mới năm 1940) mấy truyện ngắn cùng một bức thư không ngoài mục đích nhờ ông Khái Hưng nâng đỡ. Truyện của tôi được đăng. Tôi vừa mừng vừa cảm động cầm tờ báo có đăng truyện ngắn Mầu hoàng yến của tôi cùng với thư ông Khái Hưng mời tôi lên tòa soạn lãnh tiền nhuận bút. Tôi sung sướng quá vì tôi sắp được gặp người mà tôi hằng ao ước…

   Tôi run run bước vào tòa soạn báo Ngày Nay, có cảm tưởng như một thần tử sắp được thấy long nhan…

   Ông Khái Hưng niềm nở tiếp chuyện cùng khuyến khích tôi… Có lẽ suốt đời tôi không bao giờ quên được phút gặp gỡ hiếm có ấy…”
[22]

Nhà thơ Phạm Huy Thông “nhớ ơn” Nhất Linh:

   … Khi tôi viết những dòng thơ thứ nhất, như chim non chưa đủ cánh, đủ lông, đứng trên miệng tổ trông không gian man mác mà hãi hùng, chính ông đã khiến cho tôi đủ can đảm văng mình bay theo gió cuốn. Ông khuyến khích tôi: ông khuyên tôi nên vững lòng theo đuổi bước tương lai: ông giới thiệu tôi cùng công chúng bằng những lời ngợi khen quá đáng… tôi mạnh bạo dấn bước trên con đường văn thơ chơm chởm chông gai… (Huy Thông. Ngày 23 tháng 9 năm 1934[23]).

Dương Nghiễm Mậu viết:

   Những nhà luân lý đã từng nói đến những truyện của Sagan thời hậu chiến vô luân, mà có ai nhớ đến rằng, chính đời sống vô luân, cảnh chồng chung vợ chạ, cảnh đề cao thú vui xác thịt, đã có trong tác phẩm Khái Hưng từ thời tiền chiến ở Việt Nam.

   Trình bầy câu truyện Băn Khoăn của Khái Hưng tới đây, tôi ngưng lại để trở về nhận định tôi đã đưa ra: Vì sao người trí thức Tây học đã thất bại trong giai đoạn vừa qua khi lãnh đạo tranh đấu”
[24].

Tại sao người trí thức thất bại khi tổ chức cách mạng? Nguyễn Tường Bách trả lời ngắn gọn: vì không có tiền, không có khí giới, không có người.

Nguyễn Văn Trung cho rằng Nhất Linh thất bại vì ông không làm chính trị như một người cách mạng mà như một nhà văn, nghĩa là ngay thẳng không dùng tất cả mọi thủ đoạn để đạt mục tiêu.

Trong truyện dài Xiềng xích, Khái Hưng kể lại: khi làm cách mạng với Nhất Linh, ông biết 9 phần 10 là sẽ thất bại, nhưng không thể không làm. Biết thất bại, nhưng vẫn phải làm. Bởi vì đã thâm hiểu chế độ thực dân, không còn cách nào khác. Đó là bổn phận của con người.

Về mối tương quan giữa cách mạng và sáng tác, Dương Nghiễm Mậu viết:

Tôi vẫn tự hỏi: vì sao giữa lúc bước chân vào cuộc tranh đấu cách mạng mà Khái Hưng lại viết được Băn Khoăn? Không hề có ảnh hưởng giữa đời sống và tư tưởng tác giả với tác phẩm sao?[25].

Khi viết những dòng này, năm 1964, Dương Nghiễm Mậu chưa đủ tài liệu, nên tưởng Băn khoăn (tác phẩm thuần túy suy tưởng về ý nghĩa cuộc đời) là tiểu thuyết cuối cùng của Khái Hưng. Nhưng nếu ông đọc những tác phẩm thực sự cuối cùng của Khái Hưng trên báo Chính Nghĩa, ông sẽ còn ngạc nhiên hơn, bởi không tìm thấy mảy may căm thù nào trong cái môi trường hừng hực sát thủ này, mà ngược lại là trái tim hòa giải giữa anh em hai bên chiến tuyến.

Nhất Linh cũng vậy, làm sao có thể tưởng tượng Nhất Linh viết Bướm trắng trong thời kỳ bí mật, phải trốn tránh khắp nơi, khi Thái Bình, khi Nam Định, khi trở lại Cẩm Giàng… đôi khi còn phải cải trang hay giả dạng điên khùng nữa?[26]

Và tác phẩm cuối cùng của Nhất Linh, tiểu thuyết Giòng sông Thanh Thủy viết về một cặp tình nhân, một Việt Quốc, một Việt Minh, cùng nhận lệnh phải ám sát lẫn nhau trên đất Tầu, cũng lại là tác phẩm nhìn lại chính mình và lên án gắt gao sự phân liệt quốc cộng.

Phải chăng Khái Hưng và Nhất Linh cùng đồng điệu đến phút chót?

Nhớ lại thời kỳ Sáng Tạo ngày trước, thường ra rả đòi “chôn” Tự Lực Văn Đoàn; một hôm có dịp gặp nhà văn Mai Thảo, tôi hỏi ông: “Hồi đó anh có gặp Nhất Linh không? Chắc là tranh luận dữ lắm?”

Ông tủm tỉm cười. Nụ cười hóm hỉnh: “Dám! Sợ chứ! Cứ là im thin thít chứ!”

Thế giới văn nghệ luôn luôn như thế: kính trọng nhân cách và nhân tài.

Thế kỷ XX, Việt Nam có nhiều nhà văn lớn, nhưng chỉ có hai người xứng đáng với địa vị văn hào.

Khái Hưng và Nhất Linh là hai văn hào được những nhà văn đi sau nghiêng mình kính nể.

(Còn tiếp)

Thụy Khuê

_______________________

[1] Tây xông nhà của Khái Hưng, in trong Việt Nam, số Tết Bính Tuất, 1946, in lại trong Kỷ vật đầu tay và cuối cùng, quyển 2, nxb Phượng Hoàng, California, 1998, trang 587-594.

[2] Ngày nay Vĩnh Bảo thuộc vào tỉnh Hài Phòng.

[3] Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Tân Việt tái bản kỷ 4, California, trang 110.

[4] Theo Hoàng Văn Đào, Mô đưọc cấp sáu lính khố xanh, sáu súng trường và một số đạn, Việt Nam Quốc Dân Đảng, trang 111.

[5] Về cuộc khởi nghiã Phụ Dực, Vĩnh Bảo, xem thêm Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng, trang 110-113.

[6] Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng, trang 116.

[7] Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng, trang 120.

[8] Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng, trang 118, 147.

[9] Papa tòa báo, Kỷ yếu triển lãm và hội thảo TLVD, Người Việt, 2014, trang 30.

[10] Bài này in trên tuần báo Mới số 84, 85 và 86 (tháng 6-7 năm 1954).

[11] Bài này in trên báo Văn số 22 (15-11-1964) số Tưởng niệm Khái Hưng, ở Sài Gòn.

[12] Bài này viết để đăng trên báo Thế Kỷ 21, số tưởng niệm Khái Hưng (tháng 12-1997), in lại trong Nhất Linh người nghệ sĩ-người chiến sĩ, Nxb Thế Kỷ, California, 2004.

[13] Papa tòa báo, Trần Khánh Triệu, Thế Kỷ 21, số tưởng niệm Khái Hưng (tháng 12-1997), in lại trong Nhất Linh người nghệ sĩ-người chiến sĩ, Nxb Thế Kỷ, California, 2004, trang 168-169.

[14] Ba tôi, Trần Khánh Triệu, Văn số 22 (15-11-1964), trang 23.

[15] Ba tôi, Văn số 22, trang 23.

[16] Ba tôi, Trần Khánh Triệu, Văn số 22 (15-11-1964), trang 24-25.

[17] Ba tôi, Văn số 22, trang 18.

[18] Hồ Hữu Tường, Khái Hưng, người thứ nhứt muốn làm nguyên soái của “văn chương sáng giá”, Văn số 22, trang 27-31.

[19] Papa tòa báo của Trần Khánh Triệu, in trong Nhất Linh, người nghệ sĩ, người chiến sĩ, trang 162-163.

[20] Papa tòa báo của Trần Khánh Triệu, in trong Nhất Linh, người nghệ sĩ, người chiến sĩ, trang 164-165.

[21] Phóng bút của Lê Ta, Phong Hóa số 154 (20-9-1935).

[22] Trích trong bài Vài kỷ niệm về Khái Hưng của Nguyễn Thạch Kiên, Văn số 22, trang 45.

[23] In lại trong sách Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hoá văn học, nxb Van Hóa, 1995, và Tự Lực văn đoàn Tác phẩm và Dư luận, Nhất Linh cây bút cột trụ, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2000.

[24] Nhân nghĩ về Khái Hưng của Dương Nghiễm Mậu, Văn số 22 (15-11-64) Tưởng niệm Khái Hưng, trang 39.

[25] Nhân nghĩ về Khái Hưng của Dương Nghiễm Mậu, Văn số 22 (15-11-64) Tưởng niệm Khái Hưng, trang 39.

[26] Theo hồi ký Nguyễn Thị Thế và Thế Uyên (Người bác).

Về Đầu Trang Go down
Sponsored content




55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng   55 - Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng - Page 5 I_icon13

Về Đầu Trang Go down
 
Tự Lực văn đoàn – Văn học và cách mạng
Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Similar topics
-
» Văn Thanh Trắc Nguyễn Văn (toàn tập)
» Sau 50 Năm Đọc Lại Quốc Văn Giáo Khoa Thư (GS Trần Văn Chi)
» Hoa văn là gì và ý nghiã của hoa văn trên mộ đá công giáo
» Tiếng Đàn Văn Chức
» Lục bát Văn Thùy
Trang 5 trong tổng số 8 trangChuyển đến trang : Previous  1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8  Next

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
daovien.net :: VƯỜN VĂN :: BIÊN KHẢO, BÌNH LUẬN THƠ VĂN-