Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesVietUniĐăng kýĐăng Nhập
Bài viết mới
Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Today at 11:15

Một thoáng mây bay 13 by Ai Hoa Today at 10:00

ĐÔI BÀN TAY NGHỆ NHÂN by mytutru Yesterday at 23:54

EM CHIM HÁT HAY QUÁ by mytutru Yesterday at 23:10

Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 20:09

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN by Trà Mi Yesterday at 08:05

Cột đồng chưa xanh (2) by Ai Hoa Mon 06 May 2024, 11:42

Chết rồi! by Ai Hoa Mon 06 May 2024, 11:31

LỀU THƠ NHẠC by Thiên Hùng Sun 05 May 2024, 11:06

Tranh Thơ Viễn Phương by Viễn Phương Fri 03 May 2024, 19:13

Người Em Gái Da Vàng by Viễn Phương Fri 03 May 2024, 06:36

Mái Nhà Chung by mytutru Thu 02 May 2024, 00:38

Những Đoá Từ Tâm by Việt Đường Wed 01 May 2024, 21:49

7 chữ by Tinh Hoa Tue 30 Apr 2024, 10:59

5 chữ by Tinh Hoa Sun 28 Apr 2024, 22:27

Thi tập "Chỉ là...Tình thơ" by Tú_Yên tv Thu 25 Apr 2024, 12:56

Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Thu 25 Apr 2024, 12:51

Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Thu 25 Apr 2024, 12:46

Quán Tạp Kỹ - Đồng Bằng Nam Bộ by Thiên Hùng Wed 24 Apr 2024, 11:48

Trụ vững duyên thầy by Trà Mi Tue 23 Apr 2024, 07:34

THIỀN TUỆ (diệt trừ đau khổ) by mytutru Tue 23 Apr 2024, 00:07

Nhận dạng phụ nữ giàu có by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 08:36

Bức tranh gia đình by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 08:09

Mẹo kho thịt by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 07:29

SẦU LY BIỆT by Phương Nguyên Sun 21 Apr 2024, 23:01

Trang Họa thơ Phương Nguyên 2 by Phương Nguyên Sun 21 Apr 2024, 22:56

Trang viết cuối đời by buixuanphuong09 Sun 21 Apr 2024, 06:38

Mức thù lao không ai dám nghĩ đến by Trà Mi Wed 17 Apr 2024, 11:28

KHÔNG ĐỀ by Phương Nguyên Wed 17 Apr 2024, 11:00

Cách xem tướng mạo phụ nữ ngoại tình, không chung thủy by mytutru Tue 16 Apr 2024, 11:59

Tự điển
* Tự Điển Hồ Ngọc Đức



* Tự Điển Hán Việt
Hán Việt
Thư viện nhạc phổ
Tân nhạc ♫
Nghe Nhạc
Cải lương, Hài kịch
Truyện Audio
Âm Dương Lịch
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
Đăng Nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập: 
:: Quên mật khẩu

Share | 
 

 Trí thức miền Nam sau 75

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Chuyển đến trang : Previous  1, 2, 3, 4, 5, 6, 7
Tác giảThông điệp
Ai Hoa

Ai Hoa

Tổng số bài gửi : 10564
Registration date : 23/11/2007

Trí thức miền Nam sau 75 - Page 7 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Trí thức miền Nam sau 75   Trí thức miền Nam sau 75 - Page 7 I_icon13Sun 04 Nov 2018, 15:01

Trăng đã viết:
Trà Mi đã viết:
Trí thức miền Nam - Hai mươi năm nhập cuộc (1955-1975)

Nguyễn Văn Lục

5.- Giai đoạn 5: 1970-1975: Trí thức dấn thân, nhập cuộc.

Ở ngoài miền Trung, có những người như anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Ðắc Xuân, đã bỏ thành ra bưng. Hay như Ngô Kha chết trong tù. Không hiểu họ đã chọn lựa hay bắt buộc phải chọn lựa ra vùng kháng chiến? Gọi họ là khuynh tả chỉ là một cách nói. Trên thực tế, họ đã chọn lựa theo phía bên kia, tức là chọn lựa con đường võ lực, dùng chiến tranh như một giải pháp tối hậu và cuối cùng của miền Nam. Họ đã chọn lựa Cộng sản, đứng về phía Cộng sản, đối lập với phía Quốc gia. [6]

Ở Sài Gòn, cũng có một số trí thức quyết định đứng về phía Cộng sản, nghĩa là có tiếp xúc và đồng thời có người đã ra vào khu, nhưng vẫn ở lại thành phố, hoặc có thẻ đảng viên đảng Cộng sản. Ðối với nhóm này, khi họ đã chọn lựa đứng về phía Cộng sản thì chữ trí thức khuynh tả hoặc thành phần thứ ba phải được hiểu chỉ với nghĩa tương đối.

Sau đây là danh sách một số nhà trí thức thuộc thành phần thứ ba, có vai trò, hoặc đã có vai trò, hoặc có thể chỉ cốt ẩn nấp qua thời, hoặc như một chọn lựa bất đắc dĩ, hoặc đã thay đổi lập trường, hoặc nay đã bị thất sủng, hoặc tự chọn lựa rút lui ra ngoài, hoặc vẫn còn phục vụ cho chính quyền Cộng sản: Cao Thị Quế Hương, Chân Tín, Hồ Ngọc Nhuận, Huỳnh Công Minh, Huỳnh Liên, Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Giáp, Lê Văn Nuôi, Lê Văn Thới, Lý Chánh Trung, Lý Quý Chung, Ngô Bá Thành, Ngô Công Ðức, Nguyễn Duy Thông, Nguyễn Hữu Hiệp, Nguyễn Long, Phạm Biểu Tâm, Phan Khắc Từ, Thích Minh Châu, Tôn Thất Dương Kỵ, Trần Ngọc Liễng, Trần Thúc Linh, Triệu Quốc Mạnh, Trịnh Ðình Thảo, Trương Bá Cần, Võ Ðình Cường, Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Ðình Ðầu, Trần Hữu Quảng, Võ Thị Bạch Tuyết và Vương Ðình Bích. [7]

Trong số những người trên, sau này, một số đã ký vào “Bức thư gửi những người bạn phương Tây” [8] , để biện hộ cho chính quyền Cộng sản bằng những lời mở đầu sau đây:

“Nous, intellectuels de l’ancien Sud Viet Nam, profondémment indignés par la bruyante campagne de calomnie et de dénigrement menée dans certains pays occidentaux contre la République socialiste du Viet Nam, notre patrie, estimons de notre devoir de publier la présente lettre.” [9]

(Tạm dịch: “Chúng tôi, những người trí thức của miền Nam trước đây lấy làm rất bất nhẫn khi thấy khi thấy một chiến dịch vu khống và dèm pha do một số nước Tây Phương chống lại nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đất nước của chúng tôi, chúng tôi thấy có bổn phận phải phổ biến lá thư sau đây.”)

Kể từ 1970, mọi chuyện không còn như cũ nữa. Trong người trí thức, có nhiều chuyển hướng chính trị, nhiều băn khoăn, lo lắng, nhiều toan tính, tìm lối thoát cách này cách khác, chẳng hạn như tìm đường ra ngoại quốc, tìm đường vào khu, tìm đến một giải pháp nhằm tháo gỡ tình hình đen tối của miền Nam qua các phong trào hòa hợp, hòa giải, phong trào Hòa bình cho Việt Nam. Trong khi đó, binh lính, sĩ quan mất đi niềm tự hào vốn có: Ðánh là thắng, đánh là đạt chiến công, đánh là Việt cộng bỏ chạy. Một số chính khách xôi thịt vẫn tìm cách vơ vét vào chuyến tàu chót. Tất cả như chờ đợi một điều gì đó sẽ xảy ra, ôm hy vọng mong manh, ảo tưởng về người Mỹ, về sức mạnh quân sự, coi đó là lối thoát duy nhất.

Tỉ à, cái tên Tịnh Đình Thảo nghe quen quen , người này là ai hở tỉ

Trịnh Đình Thảo, tốt nghiệp Cử nhân Văn chương, Cao học Kinh tế và Thương mại, Tiến sĩ Luật khoa tại Pháp. Từ năm 1929, ông là Luật sư tại Tòa Thượng thẩm Sài Gòn. Năm 1945 là Bộ trưởng Tư pháp của chính phủ Trần Trọng Kim. Năm 1946, khi Pháp tái chiếm Sài Gòn, ông trở lại làm Luật sư Tòa Thượng thẩm Sài Gòn. Đầu năm 1968, ông bí mật ra vùng kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Sau đó, ông tham gia thành lập và làm Chủ tịch Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam. Năm 1969, ông làm Phó Chủ tịch Hội đồng Cố vấn chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Mùa hè năm 1969, ông dẫn đầu Đoàn Đại biểu Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam ra thăm miền Bắc Việt Nam và gặp Hồ Chí Minh ngày 5 tháng 8 năm 1969 tại Hà Nội.

Lúc đó T còn nhỏ xíu làm sao nghe tên ổng mà quen quen?   :fun1:


_________________________
Trí thức miền Nam sau 75 - Page 7 Love10

Sông rồi cạn, núi rồi mòn
Thân về cát bụi, tình còn hư không
Về Đầu Trang Go down
Trăng



Tổng số bài gửi : 1841
Registration date : 23/04/2014

Trí thức miền Nam sau 75 - Page 7 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Trí thức miền Nam sau 75   Trí thức miền Nam sau 75 - Page 7 I_icon13Wed 07 Nov 2018, 10:43

Ai Hoa đã viết:
Trăng đã viết:
Trà Mi đã viết:
Trí thức miền Nam - Hai mươi năm nhập cuộc (1955-1975)

Nguyễn Văn Lục

5.- Giai đoạn 5: 1970-1975: Trí thức dấn thân, nhập cuộc.

Ở ngoài miền Trung, có những người như anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Ðắc Xuân, đã bỏ thành ra bưng. Hay như Ngô Kha chết trong tù. Không hiểu họ đã chọn lựa hay bắt buộc phải chọn lựa ra vùng kháng chiến? Gọi họ là khuynh tả chỉ là một cách nói. Trên thực tế, họ đã chọn lựa theo phía bên kia, tức là chọn lựa con đường võ lực, dùng chiến tranh như một giải pháp tối hậu và cuối cùng của miền Nam. Họ đã chọn lựa Cộng sản, đứng về phía Cộng sản, đối lập với phía Quốc gia. [6]

Ở Sài Gòn, cũng có một số trí thức quyết định đứng về phía Cộng sản, nghĩa là có tiếp xúc và đồng thời có người đã ra vào khu, nhưng vẫn ở lại thành phố, hoặc có thẻ đảng viên đảng Cộng sản. Ðối với nhóm này, khi họ đã chọn lựa đứng về phía Cộng sản thì chữ trí thức khuynh tả hoặc thành phần thứ ba phải được hiểu chỉ với nghĩa tương đối.

Sau đây là danh sách một số nhà trí thức thuộc thành phần thứ ba, có vai trò, hoặc đã có vai trò, hoặc có thể chỉ cốt ẩn nấp qua thời, hoặc như một chọn lựa bất đắc dĩ, hoặc đã thay đổi lập trường, hoặc nay đã bị thất sủng, hoặc tự chọn lựa rút lui ra ngoài, hoặc vẫn còn phục vụ cho chính quyền Cộng sản: Cao Thị Quế Hương, Chân Tín, Hồ Ngọc Nhuận, Huỳnh Công Minh, Huỳnh Liên, Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Giáp, Lê Văn Nuôi, Lê Văn Thới, Lý Chánh Trung, Lý Quý Chung, Ngô Bá Thành, Ngô Công Ðức, Nguyễn Duy Thông, Nguyễn Hữu Hiệp, Nguyễn Long, Phạm Biểu Tâm, Phan Khắc Từ, Thích Minh Châu, Tôn Thất Dương Kỵ, Trần Ngọc Liễng, Trần Thúc Linh, Triệu Quốc Mạnh, Trịnh Ðình Thảo, Trương Bá Cần, Võ Ðình Cường, Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Ðình Ðầu, Trần Hữu Quảng, Võ Thị Bạch Tuyết và Vương Ðình Bích. [7]

Trong số những người trên, sau này, một số đã ký vào “Bức thư gửi những người bạn phương Tây” [8] , để biện hộ cho chính quyền Cộng sản bằng những lời mở đầu sau đây:

“Nous, intellectuels de l’ancien Sud Viet Nam, profondémment indignés par la bruyante campagne de calomnie et de dénigrement menée dans certains pays occidentaux contre la République socialiste du Viet Nam, notre patrie, estimons de notre devoir de publier la présente lettre.” [9]

(Tạm dịch: “Chúng tôi, những người trí thức của miền Nam trước đây lấy làm rất bất nhẫn khi thấy khi thấy một chiến dịch vu khống và dèm pha do một số nước Tây Phương chống lại nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đất nước của chúng tôi, chúng tôi thấy có bổn phận phải phổ biến lá thư sau đây.”)

Kể từ 1970, mọi chuyện không còn như cũ nữa. Trong người trí thức, có nhiều chuyển hướng chính trị, nhiều băn khoăn, lo lắng, nhiều toan tính, tìm lối thoát cách này cách khác, chẳng hạn như tìm đường ra ngoại quốc, tìm đường vào khu, tìm đến một giải pháp nhằm tháo gỡ tình hình đen tối của miền Nam qua các phong trào hòa hợp, hòa giải, phong trào Hòa bình cho Việt Nam. Trong khi đó, binh lính, sĩ quan mất đi niềm tự hào vốn có: Ðánh là thắng, đánh là đạt chiến công, đánh là Việt cộng bỏ chạy. Một số chính khách xôi thịt vẫn tìm cách vơ vét vào chuyến tàu chót. Tất cả như chờ đợi một điều gì đó sẽ xảy ra, ôm hy vọng mong manh, ảo tưởng về người Mỹ, về sức mạnh quân sự, coi đó là lối thoát duy nhất.

Tỉ à, cái tên Tịnh Đình Thảo nghe quen quen , người này là ai hở tỉ

Trịnh Đình Thảo, tốt nghiệp Cử nhân Văn chương, Cao học Kinh tế và Thương mại, Tiến sĩ Luật khoa tại Pháp. Từ năm 1929, ông là Luật sư tại Tòa Thượng thẩm Sài Gòn. Năm 1945 là Bộ trưởng Tư pháp của chính phủ Trần Trọng Kim. Năm 1946, khi Pháp tái chiếm Sài Gòn, ông trở lại làm Luật sư Tòa Thượng thẩm Sài Gòn. Đầu năm 1968, ông bí mật ra vùng kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Sau đó, ông tham gia thành lập và làm Chủ tịch Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam. Năm 1969, ông làm Phó Chủ tịch Hội đồng Cố vấn chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Mùa hè năm 1969, ông dẫn đầu Đoàn Đại biểu Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam ra thăm miền Bắc Việt Nam và gặp Hồ Chí Minh ngày 5 tháng 8 năm 1969 tại Hà Nội.

Lúc đó T còn nhỏ xíu làm sao nghe tên ổng mà quen quen?   :fun1:

T nghe quen thiệt á Thầy, đi thăm mộ Ba của T ở 1 nghĩa trang quận Tân Phú , ngang qua con đường mang tên Trịnh Đình Thảo , có lẽ  vậy nên thấy quen quen ? Very Happy
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7114
Registration date : 01/04/2011

Trí thức miền Nam sau 75 - Page 7 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Trí thức miền Nam sau 75   Trí thức miền Nam sau 75 - Page 7 I_icon13Thu 08 Nov 2018, 09:31

Trăng đã viết:
Ai Hoa đã viết:
Trăng đã viết:
Trà Mi đã viết:
Trí thức miền Nam - Hai mươi năm nhập cuộc (1955-1975)

Nguyễn Văn Lục

5.- Giai đoạn 5: 1970-1975: Trí thức dấn thân, nhập cuộc.

Ở ngoài miền Trung, có những người như anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Ðắc Xuân, đã bỏ thành ra bưng. Hay như Ngô Kha chết trong tù. Không hiểu họ đã chọn lựa hay bắt buộc phải chọn lựa ra vùng kháng chiến? Gọi họ là khuynh tả chỉ là một cách nói. Trên thực tế, họ đã chọn lựa theo phía bên kia, tức là chọn lựa con đường võ lực, dùng chiến tranh như một giải pháp tối hậu và cuối cùng của miền Nam. Họ đã chọn lựa Cộng sản, đứng về phía Cộng sản, đối lập với phía Quốc gia. [6]

Ở Sài Gòn, cũng có một số trí thức quyết định đứng về phía Cộng sản, nghĩa là có tiếp xúc và đồng thời có người đã ra vào khu, nhưng vẫn ở lại thành phố, hoặc có thẻ đảng viên đảng Cộng sản. Ðối với nhóm này, khi họ đã chọn lựa đứng về phía Cộng sản thì chữ trí thức khuynh tả hoặc thành phần thứ ba phải được hiểu chỉ với nghĩa tương đối.

Sau đây là danh sách một số nhà trí thức thuộc thành phần thứ ba, có vai trò, hoặc đã có vai trò, hoặc có thể chỉ cốt ẩn nấp qua thời, hoặc như một chọn lựa bất đắc dĩ, hoặc đã thay đổi lập trường, hoặc nay đã bị thất sủng, hoặc tự chọn lựa rút lui ra ngoài, hoặc vẫn còn phục vụ cho chính quyền Cộng sản: Cao Thị Quế Hương, Chân Tín, Hồ Ngọc Nhuận, Huỳnh Công Minh, Huỳnh Liên, Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Giáp, Lê Văn Nuôi, Lê Văn Thới, Lý Chánh Trung, Lý Quý Chung, Ngô Bá Thành, Ngô Công Ðức, Nguyễn Duy Thông, Nguyễn Hữu Hiệp, Nguyễn Long, Phạm Biểu Tâm, Phan Khắc Từ, Thích Minh Châu, Tôn Thất Dương Kỵ, Trần Ngọc Liễng, Trần Thúc Linh, Triệu Quốc Mạnh, Trịnh Ðình Thảo, Trương Bá Cần, Võ Ðình Cường, Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Ðình Ðầu, Trần Hữu Quảng, Võ Thị Bạch Tuyết và Vương Ðình Bích. [7]

Trong số những người trên, sau này, một số đã ký vào “Bức thư gửi những người bạn phương Tây” [8] , để biện hộ cho chính quyền Cộng sản bằng những lời mở đầu sau đây:

“Nous, intellectuels de l’ancien Sud Viet Nam, profondémment indignés par la bruyante campagne de calomnie et de dénigrement menée dans certains pays occidentaux contre la République socialiste du Viet Nam, notre patrie, estimons de notre devoir de publier la présente lettre.” [9]

(Tạm dịch: “Chúng tôi, những người trí thức của miền Nam trước đây lấy làm rất bất nhẫn khi thấy khi thấy một chiến dịch vu khống và dèm pha do một số nước Tây Phương chống lại nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đất nước của chúng tôi, chúng tôi thấy có bổn phận phải phổ biến lá thư sau đây.”)

Kể từ 1970, mọi chuyện không còn như cũ nữa. Trong người trí thức, có nhiều chuyển hướng chính trị, nhiều băn khoăn, lo lắng, nhiều toan tính, tìm lối thoát cách này cách khác, chẳng hạn như tìm đường ra ngoại quốc, tìm đường vào khu, tìm đến một giải pháp nhằm tháo gỡ tình hình đen tối của miền Nam qua các phong trào hòa hợp, hòa giải, phong trào Hòa bình cho Việt Nam. Trong khi đó, binh lính, sĩ quan mất đi niềm tự hào vốn có: Ðánh là thắng, đánh là đạt chiến công, đánh là Việt cộng bỏ chạy. Một số chính khách xôi thịt vẫn tìm cách vơ vét vào chuyến tàu chót. Tất cả như chờ đợi một điều gì đó sẽ xảy ra, ôm hy vọng mong manh, ảo tưởng về người Mỹ, về sức mạnh quân sự, coi đó là lối thoát duy nhất.

Tỉ à, cái tên Tịnh Đình Thảo nghe quen quen , người này là ai hở tỉ

Trịnh Đình Thảo, tốt nghiệp Cử nhân Văn chương, Cao học Kinh tế và Thương mại, Tiến sĩ Luật khoa tại Pháp. Từ năm 1929, ông là Luật sư tại Tòa Thượng thẩm Sài Gòn. Năm 1945 là Bộ trưởng Tư pháp của chính phủ Trần Trọng Kim. Năm 1946, khi Pháp tái chiếm Sài Gòn, ông trở lại làm Luật sư Tòa Thượng thẩm Sài Gòn. Đầu năm 1968, ông bí mật ra vùng kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Sau đó, ông tham gia thành lập và làm Chủ tịch Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam. Năm 1969, ông làm Phó Chủ tịch Hội đồng Cố vấn chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Mùa hè năm 1969, ông dẫn đầu Đoàn Đại biểu Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam ra thăm miền Bắc Việt Nam và gặp Hồ Chí Minh ngày 5 tháng 8 năm 1969 tại Hà Nội.

Lúc đó T còn nhỏ xíu làm sao nghe tên ổng mà quen quen?   :fun1:

T nghe quen thiệt á Thầy, đi thăm mộ Ba của T ở 1 nghĩa trang quận Tân Phú , ngang qua con đường mang tên Trịnh Đình Thảo , có lẽ  vậy nên thấy quen quen ? Very Happy

sau 1975 có lẽ già quá rùi ổng hết còn hăng hái đấu tranh cho những người yêu nước, nhờ dzị chết mới được đặt tên đường!
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7114
Registration date : 01/04/2011

Trí thức miền Nam sau 75 - Page 7 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Trí thức miền Nam sau 75   Trí thức miền Nam sau 75 - Page 7 I_icon13Tue 13 Nov 2018, 08:42

Trí thức miền Nam - Hai mươi năm nhập cuộc (1955-1975)

Nguyễn Văn Lục


6. Kết luận

Có thể nói, trong suốt 20 năm, 1954-1975, trí thức miền Nam thiếu một nhà lãnh đạo khả tín, thiếu một hòn đá theo tinh thần của Mounier, được đặt đúng chỗ để có thể chuyển hướng cả một dòng sông. Tìm đâu cũng không thấy. Ðiều này cho thấy khoảng trống trong lãnh đạo miền Nam. Có thể trách người Mỹ trực tiếp nhúng tay vào tình hình chính trị, quân sự của miền Nam. Có thể trách người Mỹ trực tiếp là nguyên cớ cho sự sụp đổ miền Nam Việt Nam. Nhưng chính miền Nam không đưa ra được một gương mặt chính trị nào có tầm mức, có khả năng chuyển đổi tình thế. Không hề có. Trong nhiều tình huống, nhiều trí thức đã được dùng như những lá bài khác nhau, và cuối cùng cũng không đạt được kết quả mong muốn. Cụ Phan Khắc Sửu là Tổng trưởng Canh nông trong danh sách nội các đầu tiên của chính phủ Ngô Ðình Diệm vào ngày 5-7-1954. Hơn hai tháng sau, trong lần cải tổ nội các, tên Phan Khắc Sửu đã không thấy nữa. Phải đợi đến vụ Trí thức Caravelle, người ta mới lại thấy tên cụ trong danh sách 18 người. Rồi đi tù. Ngày 8-9-64, cụ có tên cùng với danh sách 16 người trong Thượng Hội đồng Quốc gia. Ngày 27-9-64 làm chủ tịch Thượng Hội đồng Quốc gia. Rồi được Hội đồng Quân lực bổ nhiệm làm Quốc trưởng. Nhưng cuối cùng, cả cụ Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát đều rút lui. Tất cả những thời kỳ tham chính của cụ cộng lại không biết có đủ một năm không? Trách nhiệm và những chức vụ cụ nắm giữ nay còn mai mất, tạm thời, vá víu, như thể một thứ đấm bóp thời cuộc. Tương tự, ta có thể suy ra trường hợp của các trí thức khác, như cụ Trần Văn Hương và ông Phan Huy Quát. Cứ bấy nhiêu nhân vật được dùng đi dùng lại, được xào nấu như gia vị cho bất cứ món ăn nào. Người vẫn chừng đó với những khuôn mặt cũ, nhưng tình thế thì mới và đòi hỏi nhân sự mới. Không có người hay người không đủ khả năng gánh vác thời cuộc. Ðó là đặc điểm thứ nhất của giới trí thức lãnh đạo miền Nam.

Ðặc điểm thứ hai là giới trí thức ấy không đủ tầm vóc nên dễ dẫn đến hoang tưởng, thiếu thực tế. Các trí thức thành phần thứ ba đưa ra một giải pháp Cách mạng Xã hội không Cộng sản trong tình huống lúc bấy giờ là một điều khó thực hiện được. Cộng sản một bên, Mỹ một bên với một chính quyền dựa hoàn toàn vào Mỹ. Liệu họ có thể dựa vào điều kiện khách quan nào, dựa vào nhà lãnh đạo nào để có thể có điều kiện thực hiện một cuộc Cách mạng cho người nghèo? Một cuộc cách mạng không Cộng sản? Lý Chánh Trung đã trả lời về vấn đề này cho nhà báo Pháp khi được hỏi về sách lược của các nhóm thành phần thứ ba. Ông nói:

“La troisième force, C’était une grande aspiration plutôt qu’une force réelle. Seules quelques centaines de personnes étaient organisés. Ces groupuscules étaient ouverts à tous les vents, à toutes les influences. Ils n’avaient aucune idéologie précise”. [10]

(Tạm dịch: “Lực lượng (hay thành phần) thứ ba cuối cùng chỉ là một khát vọng hơn là một thực lực thực tế. Tổ chức vỏn vẹn có vài trăm người. Nhóm người đó mở ra mọi phía và đón nhận nhiều ảnh hưởng. Vì thế, họ không có một ý thức hệ chính xác nào.”)

Có lẽ điều mà họ mong muốn chỉ là thay thế lá bài của chính quyền Sài Gòn với Nguyễn Văn Thiệu và từ đó, họ sẽ là đại diện để có thể nói chuyện với phía bên kia. [11]

“Et cette dernière raison explique pourquoi certains Vietnamiens pensent que Thiệu ne constituent pas la dernière carte Américaine dans le Sud. Cette dernière carte, c’est la Troisième Force et les Américains seront sans doute amenés à la jouer, sans doute mal ou trop tard.” [12]

(Tạm dịch: “Và nguyên nhân cuối cùng giải thích tại sao một số người Việt Nam cho rằng Thiệu không phải là lá bài cuối cùng của người Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Lá bài cuối cùng, chính là lực lượng thứ ba mà chắc người Mỹ muốn sử dụng, chắc chắn đã quá muộn hoặc sẽ có kết quả không hay.”)

Những giải pháp Trần Văn Hương, rồi Dương Văn Minh vào phút chót của miền Nam trước ngày 30 tháng 4 cho thấy rõ thêm điều đó. Một thứ giải pháp không giải pháp, một thứ hy vọng của sự tuyệt vọng.

Dương Văn Minh, Tổng thống bốn mươi giờ còn lại của miền Nam làm công việc bất đắc dĩ là cúi xuống nhặt cái chính quyền Sài Gòn cũ nằm lẫn lộn trong đống rác thành phố, lẫn lộn quân trang, quân dụng, lẫn lộn xe tăng, thiết giáp, mũ nón, lẫn lộn hào quang và tủi nhục, với lon chậu, với huân chương do những người bỏ chạy để lại, để rồi giao cái chính quyền ấy cho những người Cộng sản.

Người viết một lần nữa trích dẫn câu nói của Mounier: “Ðôi khi lịch sử cũng ban thưởng cho những kẻ cứng đầu, và một hòn đá, đặt đúng chỗ, có thể chuyển hướng cả một dòng sông.”

Buồn thay, trí thức miền Nam cuối cùng vẫn thiếu một hòn đá, thứ hòn đá có sức chuyển hướng cả lịch sử miền Nam. Ðiều đó thực sự đã không xảy ra.

Nhưng, như đã trình bày ở phần đầu bài viết, trong mỗi tình huống của thời cuộc liên quan đến vận mệnh dân tộc, đất nước, người trí thức miền Nam vẫn có tiếng nói của họ, như trong các cao trào đòi hỏi thực thi dân chủ, đòi hỏi công bằng trong phạm vi tôn giáo trong suốt 9 năm Ðệ nhất Cộng hòa thời ông Ngô Ðình Diệm. Sau đó, các trí thức miền Nam, đặc biệt là trí thức Phật giáo, đã đưa ra giải pháp hòa giải, hòa hợp dân tộc, tiến tới hòa bình và chấm dứt chiến tranh giữa hai miền. Các trí thức thiên tả hay thành phần thứ ba thì đưa ra một số giải pháp như thực hiện một một cuộc Cách mạng xã hội không Cộng sản.

Cho dù rõ ràng là những đòi hỏi đó, hay những phong trào đó, đã đi đến chung cuộc là sự thắng lợi của miền Bắc, kết thúc cuộc chiến tranh giữa hai miền vào ngày 30 tháng 4, cho dù chịu cả thất bại quân sự và chính trị đi nữa, thì những giá trị đó, những lý tưởng mà họ nhân danh để đòi hỏi vẫn là những giá trị bất biến và cần thiết cho một đất nước Việt Nam sau này. Nhìn theo viễn tượng đường dài, ngay trong tình huống của sự thất vọng thua cuộc đi nữa, họ vẫn trở thành nhân chứng của một giai đoạn và trở thành kẻ tố cáo, kẻ tiên tri cho giai đoạn sau 30 tháng 4, bởi vì, cho đến bây giờ, những khát vọng tự do và dân chủ, những khát vọng xóa bỏ bất cứ thứ độc tài cá nhân, đảng trị, hay toàn trị, những khát vọng về công bình xã hội, những khát vọng về một cuộc cách mạng xã hội cho người nghèo, vì người nghèo, thiết nghĩ, vẫn còn là một khát vọng của đất nước Việt Nam chúng ta. Do vậy, trí thức miền Nam, với những cao trào chính trị, những cuộc đấu tranh đòi tự do, bình đẳng, tìm về dân tộc..., thay vì là một thất bại, sau 30 tháng 4, bỗng nhiên trở thành một thực chứng, một đòi hỏi cần thiết.

© 2005 talawas
___________________________________
[1]Có nhiều khuynh hướng khác nhau về một cuộc Cách mạng không cộng sản như nhóm của thầy Nhất Hạnh với trường Thanh niên Phụng sự Xã hội, nhóm của Mỹ với phong trào Học đường mới v.v... Chủ nghĩa xã hội không Cộng sản, thời Mỹ Ngụy: Nội dung và ảnh hưởng, Nguyễn Trọng Văn. In lại trong Hồ sơ về tạp chí Hành Trình, nxb Nam Sơn, 2000): trg 222. 2000]. Bài viết này chỉ tập trung vào đường lối của nhóm Hành trình mà thôi.

[2]Cách mạng đạo đức.

[3]Như trên, trang 103.

[4]Ðiều đáng buồn là không phải tất cả tầng lớp thanh niên trí thức đều có tinh thần dấn thân và nhập cuộc. Ngược lại, một số không nhỏ thuộc thành phần được ưu đãi, dư giả, theo đòi nếp sống hưởng thụ, sống lấy được, chơi lấy được, thu vén lấy được bằng bất cứ giá nào... Hậu quả là họ đánh mất hết ý thức về dân tộc, về đất nước, về tình tự con người. (Ý của tác giả Nguyễn Văn Lục).

[5]Trích trong Hồ Sơ về tạp chí Hành Trình, nxb Nam Sơn, không ghi số trang, 2000.

[6]Chúng ta tôn trọng những chọn lựa của họ. Nhưng cũng yêu cầu họ tôn trọng chọn lựa của những người quyết định ở lại. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không tôn trọng nguyên tắc này. Trong bài viết, “Về chính sách của Hà Nội và thái độ của một số nhà văn miền Bắc”, tôi đã nêu ra trường hợp ông HPNT như sau: “Ông nổi tiếng ở miền Trung một thời về những hoạt động chính trị có tính cách khuấy động, sau đó bỏ đi bưng. Chúng tôi tôn trọng sự chọn lựa của ông, cũng không ít người đã làm như thế. Tỉ như Vũ Hạnh, Thanh Nghị, Sơn Nam, Lữ Phương. Chỉ có điều, tình cờ tôi đã đọc một cuốn ký viết về những giai đoạn ông đi theo bộ đội. Những điều ông viết cũng chẳng đáng gì cho tôi quan tâm, vì đã có hằng trăm, hay đội ngũ các nhà văn miền Bắc đã đều nghĩ và viết cùng một cách như ông. Nhưng xin nhắc nhở ông, giữa cái đạo lý chiến tranh và đạo lý con người, trong ứng xử, dù đối với kẻ thù, không cùng quan điểm lập trường, vẫn có những cái tối thiểu cần tôn trọng, ít nhất, ông cũng là một trí thức đào tạo ở miền Nam. Cũng có bà con, anh em là “lính Ngụy”. Không lẽ ông quên họ sao? Trong cuốn ký, chốc lát, thái độ của ông trở thành hung hãn côn đồ. Ông xách mé gọi người lính Cộng hòa là thằng lính Ngụy, thằng Diệm, thằng Thiệu. Những người Cộng sản thứ thiệt gọi như vậy còn nghe được. Nhưng ông thì không được”. Trên Net Cố Ðô, (mục Văn học-Thi ca, số ra ngày 21-6-2005), ông để cho một phóng viên tên Nguyễn Xuân Hoàng hỏi những câu cò mồi, có tính cách xuyên tạc các phong trào trí thức tranh đấu ở miền Nam.

Thứ nhất, ông tự phong cho mình nhãn hiệu: Tôi sinh ra là để làm báo. Ông làm báo Sinh Viên Huế tổng cộng phỏng có được một năm? Hay là báo đảng? Ông cũng quên không nhắc gì tới tờ Lập trường.

Thứ hai, ông ôm tất cả công đầu cho công việc tranh đấu thực thi dân chủ ở miền Nam là của Phong trào tranh đấu đô thị. Không một chữ đến biến cố tranh đấu Phật giáo miền Trung.

Thứ ba, trong những thành phần tham gia phong trào đó, ông chỉ nhắc đến giới sinh viên, thợ thuyền, xích lô, giáo giới, tiểu thương mà không nhắc nhở gì đến thành phần Phật tử, vốn là ngòi nổ của những phong trào ấy. Xích lô thì không biết ở Huế có bao nhiêu người? Nói đến thành phần xích lô là chỉ để nịnh chính quyền.
Thứ tư, ông lại mắc vào cái tội dùng chữ để mạ lỵ những người không cùng một chiến tuyến với ông. Ông gọi là bọn “ác ôn”. Tôi nghĩ ngày nay, ít ai còn dám gọi những từ xách mé như thế nữa. Ông gọi như thế thì nay tôi nên gọi ông là gì?

[7]Trích dẫn theo danh sách của Alain Ruscio, trong cuốn Vivre au Viet Nam (Éditions Sociales, 1981): trg 229.

[8]“Lettre aux amis d’Occident”, ngày 28 tháng 6 năm 1979.

[9]Những người kí tên vào thư gồm: Hồ Ðắc An, Trương Bá Cần, Võ Ðình Cường, HT Thích Minh Châu, Kim Cương, Lý Quý Chung, Trần Văn Du, Ngô Công Ðức, Nguyễn Ngọc Hà, Nguyễn Hữu Hạnh, Vũ Hạnh, Trần Vinh Hiển, Tôn Thất Dương Kỵ, Bùi thị Lãng, Trần Ngọc Liễng, Trần Thúc Linh, Nguyễn Long, Phạm Hoàng Hộ, Châu Tâm Luân, Ni sư Huỳnh Liên, Huỳnh Công Minh, Triệu Quốc Mạnh, Nguyễn Vinh Mỹ, Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Quang Nhạc, Chu Phạm Ngọc Sơn, Phạm Biểu Tâm, bà Ngô Bá Thành, Trần Kim Thạch, Lê Văn Thới, Ngô Văn, Lý Chánh Trung, Ðinh Xáng. Trích lại trong Vivre au Viet Nam, trg 229.

[10]Trích trong Vivre au Viet Nam, trg 178.

[11]Trên thực tế, chẳng ai đếm xỉa đến lá bài đó cả. Cuối cùng, sau 30-4, những người như Ngô Công Ðức, Lý Quí Chung, Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Hữu Hiệp, Hồ Ngọc Cứ, Nguyễn Văn Binh, Trương Lộc, Phan Bá, Hoàng Ngọc Biên co cụm lại quanh tờ Tin Sáng. Số phận của tờ này ra sao thì ai cũng biết.

[12]Trích J.C.Pomonti, La rage d’ être Vietnamien (Seuil, 1974): trg 241.

Về Đầu Trang Go down
Trăng



Tổng số bài gửi : 1841
Registration date : 23/04/2014

Trí thức miền Nam sau 75 - Page 7 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Trí thức miền Nam sau 75   Trí thức miền Nam sau 75 - Page 7 I_icon13Tue 13 Nov 2018, 15:59

Trà Mi đã viết:
Trí thức miền Nam - Hai mươi năm nhập cuộc (1955-1975)

Nguyễn Văn Lục


6. Kết luận

Có thể nói, trong suốt 20 năm, 1954-1975, trí thức miền Nam thiếu một nhà lãnh đạo khả tín, thiếu một hòn đá theo tinh thần của Mounier, được đặt đúng chỗ để có thể chuyển hướng cả một dòng sông. Tìm đâu cũng không thấy. Ðiều này cho thấy khoảng trống trong lãnh đạo miền Nam. Có thể trách người Mỹ trực tiếp nhúng tay vào tình hình chính trị, quân sự của miền Nam. Có thể trách người Mỹ trực tiếp là nguyên cớ cho sự sụp đổ miền Nam Việt Nam. Nhưng chính miền Nam không đưa ra được một gương mặt chính trị nào có tầm mức, có khả năng chuyển đổi tình thế. Không hề có. Trong nhiều tình huống, nhiều trí thức đã được dùng như những lá bài khác nhau, và cuối cùng cũng không đạt được kết quả mong muốn. Cụ Phan Khắc Sửu là Tổng trưởng Canh nông trong danh sách nội các đầu tiên của chính phủ Ngô Ðình Diệm vào ngày 5-7-1954. Hơn hai tháng sau, trong lần cải tổ nội các, tên Phan Khắc Sửu đã không thấy nữa. Phải đợi đến vụ Trí thức Caravelle, người ta mới lại thấy tên cụ trong danh sách 18 người. Rồi đi tù. Ngày 8-9-64, cụ có tên cùng với danh sách 16 người trong Thượng Hội đồng Quốc gia. Ngày 27-9-64 làm chủ tịch Thượng Hội đồng Quốc gia. Rồi được Hội đồng Quân lực bổ nhiệm làm Quốc trưởng. Nhưng cuối cùng, cả cụ Sửu và Thủ tướng Phan Huy Quát đều rút lui. Tất cả những thời kỳ tham chính của cụ cộng lại không biết có đủ một năm không? Trách nhiệm và những chức vụ cụ nắm giữ nay còn mai mất, tạm thời, vá víu, như thể một thứ đấm bóp thời cuộc. Tương tự, ta có thể suy ra trường hợp của các trí thức khác, như cụ Trần Văn Hương và ông Phan Huy Quát. Cứ bấy nhiêu nhân vật được dùng đi dùng lại, được xào nấu như gia vị cho bất cứ món ăn nào. Người vẫn chừng đó với những khuôn mặt cũ, nhưng tình thế thì mới và đòi hỏi nhân sự mới. Không có người hay người không đủ khả năng gánh vác thời cuộc. Ðó là đặc điểm thứ nhất của giới trí thức lãnh đạo miền Nam.

Ðặc điểm thứ hai là giới trí thức ấy không đủ tầm vóc nên dễ dẫn đến hoang tưởng, thiếu thực tế. Các trí thức thành phần thứ ba đưa ra một giải pháp Cách mạng Xã hội không Cộng sản trong tình huống lúc bấy giờ là một điều khó thực hiện được. Cộng sản một bên, Mỹ một bên với một chính quyền dựa hoàn toàn vào Mỹ. Liệu họ có thể dựa vào điều kiện khách quan nào, dựa vào nhà lãnh đạo nào để có thể có điều kiện thực hiện một cuộc Cách mạng cho người nghèo? Một cuộc cách mạng không Cộng sản? Lý Chánh Trung đã trả lời về vấn đề này cho nhà báo Pháp khi được hỏi về sách lược của các nhóm thành phần thứ ba. Ông nói:

“La troisième force, C’était une grande aspiration plutôt qu’une force réelle. Seules quelques centaines de personnes étaient organisés. Ces groupuscules étaient ouverts à tous les vents, à toutes les influences. Ils n’avaient aucune idéologie précise”. [10]

(Tạm dịch: “Lực lượng (hay thành phần) thứ ba cuối cùng chỉ là một khát vọng hơn là một thực lực thực tế. Tổ chức vỏn vẹn có vài trăm người. Nhóm người đó mở ra mọi phía và đón nhận nhiều ảnh hưởng. Vì thế, họ không có một ý thức hệ chính xác nào.”)

Có lẽ điều mà họ mong muốn chỉ là thay thế lá bài của chính quyền Sài Gòn với Nguyễn Văn Thiệu và từ đó, họ sẽ là đại diện để có thể nói chuyện với phía bên kia. [11]

“Et cette dernière raison explique pourquoi certains Vietnamiens pensent que Thiệu ne constituent pas la dernière carte Américaine dans le Sud. Cette dernière carte, c’est la Troisième Force et les Américains seront sans doute amenés à la jouer, sans doute mal ou trop tard.” [12]

(Tạm dịch: “Và nguyên nhân cuối cùng giải thích tại sao một số người Việt Nam cho rằng Thiệu không phải là lá bài cuối cùng của người Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Lá bài cuối cùng, chính là lực lượng thứ ba mà chắc người Mỹ muốn sử dụng, chắc chắn đã quá muộn hoặc sẽ có kết quả không hay.”)

Những giải pháp Trần Văn Hương, rồi Dương Văn Minh vào phút chót của miền Nam trước ngày 30 tháng 4 cho thấy rõ thêm điều đó. Một thứ giải pháp không giải pháp, một thứ hy vọng của sự tuyệt vọng.

Dương Văn Minh, Tổng thống bốn mươi giờ còn lại của miền Nam làm công việc bất đắc dĩ là cúi xuống nhặt cái chính quyền Sài Gòn cũ nằm lẫn lộn trong đống rác thành phố, lẫn lộn quân trang, quân dụng, lẫn lộn xe tăng, thiết giáp, mũ nón, lẫn lộn hào quang và tủi nhục, với lon chậu, với huân chương do những người bỏ chạy để lại, để rồi giao cái chính quyền ấy cho những người Cộng sản.

Người viết một lần nữa trích dẫn câu nói của Mounier: “Ðôi khi lịch sử cũng ban thưởng cho những kẻ cứng đầu, và một hòn đá, đặt đúng chỗ, có thể chuyển hướng cả một dòng sông.”

Buồn thay, trí thức miền Nam cuối cùng vẫn thiếu một hòn đá, thứ hòn đá có sức chuyển hướng cả lịch sử miền Nam. Ðiều đó thực sự đã không xảy ra.

Nhưng, như đã trình bày ở phần đầu bài viết, trong mỗi tình huống của thời cuộc liên quan đến vận mệnh dân tộc, đất nước, người trí thức miền Nam vẫn có tiếng nói của họ, như trong các cao trào đòi hỏi thực thi dân chủ, đòi hỏi công bằng trong phạm vi tôn giáo trong suốt 9 năm Ðệ nhất Cộng hòa thời ông Ngô Ðình Diệm. Sau đó, các trí thức miền Nam, đặc biệt là trí thức Phật giáo, đã đưa ra giải pháp hòa giải, hòa hợp dân tộc, tiến tới hòa bình và chấm dứt chiến tranh giữa hai miền. Các trí thức thiên tả hay thành phần thứ ba thì đưa ra một số giải pháp như thực hiện một một cuộc Cách mạng xã hội không Cộng sản.

Cho dù rõ ràng là những đòi hỏi đó, hay những phong trào đó, đã đi đến chung cuộc là sự thắng lợi của miền Bắc, kết thúc cuộc chiến tranh giữa hai miền vào ngày 30 tháng 4, cho dù chịu cả thất bại quân sự và chính trị đi nữa, thì những giá trị đó, những lý tưởng mà họ nhân danh để đòi hỏi vẫn là những giá trị bất biến và cần thiết cho một đất nước Việt Nam sau này. Nhìn theo viễn tượng đường dài, ngay trong tình huống của sự thất vọng thua cuộc đi nữa, họ vẫn trở thành nhân chứng của một giai đoạn và trở thành kẻ tố cáo, kẻ tiên tri cho giai đoạn sau 30 tháng 4, bởi vì, cho đến bây giờ, những khát vọng tự do và dân chủ, những khát vọng xóa bỏ bất cứ thứ độc tài cá nhân, đảng trị, hay toàn trị, những khát vọng về công bình xã hội, những khát vọng về một cuộc cách mạng xã hội cho người nghèo, vì người nghèo, thiết nghĩ, vẫn còn là một khát vọng của đất nước Việt Nam chúng ta. Do vậy, trí thức miền Nam, với những cao trào chính trị, những cuộc đấu tranh đòi tự do, bình đẳng, tìm về dân tộc..., thay vì là một thất bại, sau 30 tháng 4, bỗng nhiên trở thành một thực chứng, một đòi hỏi cần thiết.

© 2005 talawas
___________________________________
[1]Có nhiều khuynh hướng khác nhau về một cuộc Cách mạng không cộng sản như nhóm của thầy Nhất Hạnh với trường Thanh niên Phụng sự Xã hội, nhóm của Mỹ với phong trào Học đường mới v.v... Chủ nghĩa xã hội không Cộng sản, thời Mỹ Ngụy: Nội dung và ảnh hưởng, Nguyễn Trọng Văn. In lại trong Hồ sơ về tạp chí Hành Trình, nxb Nam Sơn, 2000): trg 222. 2000]. Bài viết này chỉ tập trung vào đường lối của nhóm Hành trình mà thôi.

[2]Cách mạng đạo đức.

[3]Như trên, trang 103.

[4]Ðiều đáng buồn là không phải tất cả tầng lớp thanh niên trí thức đều có tinh thần dấn thân và nhập cuộc. Ngược lại, một số không nhỏ thuộc thành phần được ưu đãi, dư giả, theo đòi nếp sống hưởng thụ, sống lấy được, chơi lấy được, thu vén lấy được bằng bất cứ giá nào... Hậu quả là họ đánh mất hết ý thức về dân tộc, về đất nước, về tình tự con người. (Ý của tác giả Nguyễn Văn Lục).

[5]Trích trong Hồ Sơ về tạp chí Hành Trình, nxb Nam Sơn, không ghi số trang, 2000.

[6]Chúng ta tôn trọng những chọn lựa của họ. Nhưng cũng yêu cầu họ tôn trọng chọn lựa của những người quyết định ở lại. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không tôn trọng nguyên tắc này. Trong bài viết, “Về chính sách của Hà Nội và thái độ của một số nhà văn miền Bắc”, tôi đã nêu ra trường hợp ông HPNT như sau: “Ông nổi tiếng ở miền Trung một thời về những hoạt động chính trị có tính cách khuấy động, sau đó bỏ đi bưng. Chúng tôi tôn trọng sự chọn lựa của ông, cũng không ít người đã làm như thế. Tỉ như Vũ Hạnh, Thanh Nghị, Sơn Nam, Lữ Phương. Chỉ có điều, tình cờ tôi đã đọc một cuốn ký viết về những giai đoạn ông đi theo bộ đội. Những điều ông viết cũng chẳng đáng gì cho tôi quan tâm, vì đã có hằng trăm, hay đội ngũ các nhà văn miền Bắc đã đều nghĩ và viết cùng một cách như ông. Nhưng xin nhắc nhở ông, giữa cái đạo lý chiến tranh và đạo lý con người, trong ứng xử, dù đối với kẻ thù, không cùng quan điểm lập trường, vẫn có những cái tối thiểu cần tôn trọng, ít nhất, ông cũng là một trí thức đào tạo ở miền Nam. Cũng có bà con, anh em là “lính Ngụy”. Không lẽ ông quên họ sao? Trong cuốn ký, chốc lát, thái độ của ông trở thành hung hãn côn đồ. Ông xách mé gọi người lính Cộng hòa là thằng lính Ngụy, thằng Diệm, thằng Thiệu. Những người Cộng sản thứ thiệt gọi như vậy còn nghe được. Nhưng ông thì không được”. Trên Net Cố Ðô, (mục Văn học-Thi ca, số ra ngày 21-6-2005), ông để cho một phóng viên tên Nguyễn Xuân Hoàng hỏi những câu cò mồi, có tính cách xuyên tạc các phong trào trí thức tranh đấu ở miền Nam.

Thứ nhất, ông tự phong cho mình nhãn hiệu: Tôi sinh ra là để làm báo. Ông làm báo Sinh Viên Huế tổng cộng phỏng có được một năm? Hay là báo đảng? Ông cũng quên không nhắc gì tới tờ Lập trường.

Thứ hai, ông ôm tất cả công đầu cho công việc tranh đấu thực thi dân chủ ở miền Nam là của Phong trào tranh đấu đô thị. Không một chữ đến biến cố tranh đấu Phật giáo miền Trung.

Thứ ba, trong những thành phần tham gia phong trào đó, ông chỉ nhắc đến giới sinh viên, thợ thuyền, xích lô, giáo giới, tiểu thương mà không nhắc nhở gì đến thành phần Phật tử, vốn là ngòi nổ của những phong trào ấy. Xích lô thì không biết ở Huế có bao nhiêu người? Nói đến thành phần xích lô là chỉ để nịnh chính quyền.
Thứ tư, ông lại mắc vào cái tội dùng chữ để mạ lỵ những người không cùng một chiến tuyến với ông. Ông gọi là bọn “ác ôn”. Tôi nghĩ ngày nay, ít ai còn dám gọi những từ xách mé như thế nữa. Ông gọi như thế thì nay tôi nên gọi ông là gì?

[7]Trích dẫn theo danh sách của Alain Ruscio, trong cuốn Vivre au Viet Nam (Éditions Sociales, 1981): trg 229.

[8]“Lettre aux amis d’Occident”, ngày 28 tháng 6 năm 1979.

[9]Những người kí tên vào thư gồm: Hồ Ðắc An, Trương Bá Cần, Võ Ðình Cường, HT Thích Minh Châu, Kim Cương, Lý Quý Chung, Trần Văn Du, Ngô Công Ðức, Nguyễn Ngọc Hà, Nguyễn Hữu Hạnh, Vũ Hạnh, Trần Vinh Hiển, Tôn Thất Dương Kỵ, Bùi thị Lãng, Trần Ngọc Liễng, Trần Thúc Linh, Nguyễn Long, Phạm Hoàng Hộ, Châu Tâm Luân, Ni sư Huỳnh Liên, Huỳnh Công Minh, Triệu Quốc Mạnh, Nguyễn Vinh Mỹ, Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Quang Nhạc, Chu Phạm Ngọc Sơn, Phạm Biểu Tâm, bà Ngô Bá Thành, Trần Kim Thạch, Lê Văn Thới, Ngô Văn, Lý Chánh Trung, Ðinh Xáng. Trích lại trong Vivre au Viet Nam, trg 229.

[10]Trích trong Vivre au Viet Nam, trg 178.

[11]Trên thực tế, chẳng ai đếm xỉa đến lá bài đó cả. Cuối cùng, sau 30-4, những người như Ngô Công Ðức, Lý Quí Chung, Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Hữu Hiệp, Hồ Ngọc Cứ, Nguyễn Văn Binh, Trương Lộc, Phan Bá, Hoàng Ngọc Biên co cụm lại quanh tờ Tin Sáng. Số phận của tờ này ra sao thì ai cũng biết.

[12]Trích J.C.Pomonti, La rage d’ être Vietnamien (Seuil, 1974): trg 241.


Tỉ à , T biết có 1 Anthony Mounier người Anh thế hệ 8x cũng khá nỗi tiếng nhưng hong biết Mounier được đề cập trong bài viết
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7114
Registration date : 01/04/2011

Trí thức miền Nam sau 75 - Page 7 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Trí thức miền Nam sau 75   Trí thức miền Nam sau 75 - Page 7 I_icon13Wed 14 Nov 2018, 08:28

Trăng đã viết:

Tỉ à , T biết có 1 Anthony Mounier người Anh thế hệ 8x cũng khá nỗi tiếng nhưng hong biết Mounier được đề cập trong bài viết

Anthony Mounier cầu thủ bóng đá phải hôn? :mim: ảnh người Pháp mờ T? Rolling Eyes

Về Đầu Trang Go down
Ai Hoa

Ai Hoa

Tổng số bài gửi : 10564
Registration date : 23/11/2007

Trí thức miền Nam sau 75 - Page 7 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Trí thức miền Nam sau 75   Trí thức miền Nam sau 75 - Page 7 I_icon13Wed 14 Nov 2018, 09:14

Emmanuel Mounier (1905-1950) là một triết gia thần học, nhà lãnh đạo tinh thần của phong trào Nhân vị ở Pháp, người sáng lập và giám đốc tạp chí Esprit là cơ quan ngôn luận của phong trào. Ông xuất thân là con nông dân và đã trở thành một học giả sáng chói của Đại học Sorbonne. Năm 1929 khi vừa 24 tuổi ông chịu ảnh hưởng của nhà văn Charles Péguy và từ đó sáng tạo phong trào Nhân vị.

Ông dạy tại Lycée du Parc ở Lyon và Lycee Français Jean Monnet ở Brussels.

Chủ nghĩa Nhân vị của Mounier là nguồn ảnh hưởng chính yếu của phong trào phản kháng ở những năm 30 của thế kỷ 20. Phong trào này gồm những nhóm và cá nhân nhằm tìm kiếm giải pháp cho những khủng hoảng chính trị, kinh tế và xã hội trong thời kỳ giữa 2 cuộc thế chiến. Họ cố gắng tìm kiếm một sự thay thế nằm giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản và chống chủ nghĩa tự do, dân chủ đại nghị và phát-xít.

_________________________
Trí thức miền Nam sau 75 - Page 7 Love10

Sông rồi cạn, núi rồi mòn
Thân về cát bụi, tình còn hư không
Về Đầu Trang Go down
Trăng



Tổng số bài gửi : 1841
Registration date : 23/04/2014

Trí thức miền Nam sau 75 - Page 7 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Trí thức miền Nam sau 75   Trí thức miền Nam sau 75 - Page 7 I_icon13Wed 14 Nov 2018, 10:52

Ai Hoa đã viết:
Emmanuel Mounier (1905-1950) là một triết gia thần học, nhà lãnh đạo tinh thần của phong trào Nhân vị ở Pháp, người sáng lập và giám đốc tạp chí Esprit là cơ quan ngôn luận của phong trào. Ông xuất thân là con nông dân và đã trở thành một học giả sáng chói của Đại học Sorbonne. Năm 1929 khi vừa 24 tuổi ông chịu ảnh hưởng của nhà văn Charles Péguy và từ đó sáng tạo phong trào Nhân vị.

Ông dạy tại Lycée du Parc ở Lyon và Lycee Français Jean Monnet ở Brussels.

Chủ nghĩa Nhân vị của Mounier là nguồn ảnh hưởng chính yếu của phong trào phản kháng ở những năm 30 của thế kỷ 20. Phong trào này gồm những nhóm và cá nhân nhằm tìm kiếm giải pháp cho những khủng hoảng chính trị, kinh tế và xã hội trong thời kỳ giữa 2 cuộc thế chiến. Họ cố gắng tìm kiếm một sự thay thế nằm giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản và chống chủ nghĩa tự do, dân chủ đại nghị và phát-xít.
T cám ơn Thầy, hình như đến giờ vẫn chưa tìm được chủ nghĩa nào" nằm giữa", phải không ạ ?
Về Đầu Trang Go down
Ai Hoa

Ai Hoa

Tổng số bài gửi : 10564
Registration date : 23/11/2007

Trí thức miền Nam sau 75 - Page 7 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Trí thức miền Nam sau 75   Trí thức miền Nam sau 75 - Page 7 I_icon13Thu 15 Nov 2018, 12:46

Trăng đã viết:
Ai Hoa đã viết:
Emmanuel Mounier (1905-1950) là một triết gia thần học, nhà lãnh đạo tinh thần của phong trào Nhân vị ở Pháp, người sáng lập và giám đốc tạp chí Esprit là cơ quan ngôn luận của phong trào. Ông xuất thân là con nông dân và đã trở thành một học giả sáng chói của Đại học Sorbonne. Năm 1929 khi vừa 24 tuổi ông chịu ảnh hưởng của nhà văn Charles Péguy và từ đó sáng tạo phong trào Nhân vị.

Ông dạy tại Lycée du Parc ở Lyon và Lycee Français Jean Monnet ở Brussels.

Chủ nghĩa Nhân vị của Mounier là nguồn ảnh hưởng chính yếu của phong trào phản kháng ở những năm 30 của thế kỷ 20. Phong trào này gồm những nhóm và cá nhân nhằm tìm kiếm giải pháp cho những khủng hoảng chính trị, kinh tế và xã hội trong thời kỳ giữa 2 cuộc thế chiến. Họ cố gắng tìm kiếm một sự thay thế nằm giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản và chống chủ nghĩa tự do, dân chủ đại nghị và phát-xít.
T cám ơn Thầy, hình như đến giờ vẫn chưa tìm được chủ nghĩa nào" nằm giữa", phải không ạ ?


Từ từ rồi hai bên sẽ tiến tới một điểm chung! Trên thực tế về mặt kinh tế, chủ nghĩa Marx đã phá sản hoàn toàn toàn, nhưng về mặt chính trị các đảng Marxist vẫn cố dựa vào lý thuyết độc quyền lãnh đạo để tồn tại.

_________________________
Trí thức miền Nam sau 75 - Page 7 Love10

Sông rồi cạn, núi rồi mòn
Thân về cát bụi, tình còn hư không
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content




Trí thức miền Nam sau 75 - Page 7 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Trí thức miền Nam sau 75   Trí thức miền Nam sau 75 - Page 7 I_icon13

Về Đầu Trang Go down
 
Trí thức miền Nam sau 75
Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 7 trong tổng số 7 trangChuyển đến trang : Previous  1, 2, 3, 4, 5, 6, 7

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
daovien.net :: TRÚC LÝ QUÁN :: Tài Liệu-