Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesVietUniĐăng kýĐăng Nhập
Bài viết mới
Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 20:15

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN by Trà Mi Yesterday at 12:48

LỀU THƠ NHẠC by Trà Mi Yesterday at 12:15

NỒI CƠM KHỔNG TỬ by mytutru Wed 27 Mar 2024, 23:23

Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Wed 27 Mar 2024, 22:49

Trang Thơ Phạm Đa Tình by Phạm Đa Tình Wed 27 Mar 2024, 20:46

Xem tướng mạo đàn ông ngoại tình, lăng nhăng by Trà Mi Tue 26 Mar 2024, 12:32

Giọng hát "Cọp nhai đậu phộng" by Trà Mi Tue 26 Mar 2024, 12:29

Những Bài Giảng Hay Thầy Thích Pháp Hoà by mytutru Tue 26 Mar 2024, 07:39

Khoảnh Khắc Vui Với Đường Thi by Tam Muội Mon 25 Mar 2024, 00:30

Con Đường Tâm Mytutru TKN Đào Liên by mytutru Sun 24 Mar 2024, 23:42

Tranh Thơ Viễn Phương by Viễn Phương Sat 23 Mar 2024, 02:26

Mái Nhà Chung by mytutru Fri 22 Mar 2024, 20:26

Người Em Gái Da Vàng by Viễn Phương Fri 22 Mar 2024, 19:10

Một thoáng mây bay 12 by Ai Hoa Fri 22 Mar 2024, 07:06

TRUYỆN KIỀU CÓ TRƯỚC ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH, VÀ LÀ CỦA VIỆT NAM ??? by Trà Mi Thu 21 Mar 2024, 10:43

Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Wed 20 Mar 2024, 11:16

Chùm thơ "Có lẽ..." by Tú_Yên tv Wed 20 Mar 2024, 11:07

Lục bát by Tinh Hoa Mon 18 Mar 2024, 07:21

PHÁP VIỆN MINH ĐĂNG QUANG TĂNG NI & Đại Chúng by mytutru Mon 18 Mar 2024, 00:55

SƯ TOẠI KHANH (những bài giảng nên nghe) by mytutru Sat 16 Mar 2024, 20:15

Putin dối trá khi trả lời Tucker Carlson by Trà Mi Fri 15 Mar 2024, 11:39

Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Fri 15 Mar 2024, 11:20

7 chữ by Tinh Hoa Fri 15 Mar 2024, 03:27

BẮT CÁ TRỜI MƯA by Phương Nguyên Wed 13 Mar 2024, 20:48

5 chữ by Tinh Hoa Wed 13 Mar 2024, 07:56

Tiến Trình Tu Học Phật - Thành Phật by mytutru Mon 11 Mar 2024, 23:17

Tập Mỗi Ngày by mytutru Mon 11 Mar 2024, 22:48

Lan ĐV 8 by buixuanphuong09 Mon 11 Mar 2024, 11:06

SẦU LY BIỆT by Phương Nguyên Mon 11 Mar 2024, 08:02

Tự điển
* Tự Điển Hồ Ngọc Đức



* Tự Điển Hán Việt
Hán Việt
Thư viện nhạc phổ
Tân nhạc ♫
Nghe Nhạc
Cải lương, Hài kịch
Truyện Audio
Âm Dương Lịch
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
Đăng Nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập: 
:: Quên mật khẩu

Share | 
 

 Kinh Pháp Bảo Đàn

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Tác giảThông điệp
mytutru

mytutru

Tổng số bài gửi : 11074
Registration date : 08/08/2009

Kinh Pháp Bảo Đàn  Empty
Bài gửiTiêu đề: Kinh Pháp Bảo Đàn    Kinh Pháp Bảo Đàn  I_icon13Thu 12 May 2016, 10:21

Kinh Pháp Bảo Đàn  Hue_nang

Lời Dịch Giả
 

 PHÁP BẢO ĐÀN KINH là một quyển Kinh chuyên hoằng PHÁP ĐỐN GIÁO của THIỀN TÔNG, do Lục Tổ HUỆ NĂNG giảng và ngài Pháp Hải ghi lại, nay đã dịch sang nhiều thứ tiếng và đã phổ biến trên nhiều thế giới.
Lục Tổ là người không biết chữ nhưng nói ra lời nào cũng đúng ý Phật. 
Tổ nói: “Diệu lý của chư Phật chẳng dính dáng với văn tự”.  

Như vậy người đọc nên được ý quên lời, chớ nên chấp lời nghịch ý. 
Như Lục Tổ nói: “Nay ta gượng nói ra, khiến ông bỏ tà kiến, chớ hiểu theo lời nói, mới cho biết ít phần”.
“Chớ hiểu theo lời nói” là chớ chấp lời mà nghịch ý; “mới cho biết ít phần” là được ý mà quên lời, nói “được ý” là phải đốn ngộ ý của Tổ, cũng là ý của Phật  vậy. 
Phật nói: “Sự suy lường phân biệt chẳng thể hiểu được pháp này”.
Hễ nói “đã chứng” thì chẳng thể tỏ rõ cho người biết, nếu nói “chẳng chứng” thì thuyết lý chẳng thể liễu triệt , nên pháp đốn giáo này chẳng phải muốn người hiểu theo lời, cần phải tự tin, tự tu, tự chứng, tự ngộ mới được.
Nếu chỉ dùng miệng luận bàn, dùng tâm suy lường là trái với ý Tổ.
Phật có nói: “Như Lai dùng tất cả thí dụ để diễn đạt mọi việc thì được; nhưng chẳng thí dụ nào có thể diễn đạt pháp này”.  
Tại sao vậy? Vì tự tánh bất khả tư nghì, tâm trí chẳng đến được.
Vậy phải tin rằng: miệng luận bàn, dùng tâm suy lường là việc chướng đạo vậy.
Đối với pháp thế gian thì dùng miệng luận bàn, dùng tâm suy lường có thể thấu hiểu được; với pháp xuất thế gian dùng miệng luận bàn, dùng tâm suy lường lại càng xa với Đạo.
Cổ Đức nói: Đối với việc này, có tâm chẳng thể cầu, vô tâm chẳng thể đắc, ngôn ngữ chẳng thể thông đạt, im lặng chẳng thể thấu suốt. 
Quyển Kinh này, mỗi phẩm đều có tỏ bày ý chỉ như thế, xin độc giả tự xét kỹ xem!
Nói tóm lại, PHÁP ĐỐN GIÁO này là khai thị cho người học đạo để y theo CHÁNH PHÁP tu hành cho đến đốn ngộ mà thôi.
Thích Duy Lực 

Kinh Pháp Bảo Đàn  Cc2d0d2d320e07b3472ba509ae79a29d


Được sửa bởi mytutru ngày Thu 12 May 2016, 10:46; sửa lần 3.
Về Đầu Trang Go down
http://<marquee>mytutru_welcome.. tứ trụ kính chúc T
mytutru

mytutru

Tổng số bài gửi : 11074
Registration date : 08/08/2009

Kinh Pháp Bảo Đàn  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Bảo Đàn    Kinh Pháp Bảo Đàn  I_icon13Thu 12 May 2016, 10:21

Phẩm Tựa Thứ Nhất


Khi sư đến chùa Bảo Lâm, có châu trưởng Thiều Châu tên là Vi Cừ và các quan chức vào núi thỉnh Sư ra chùa Đại Phạn ở trong thành vì tứ chúng khai duyên thuyết pháp. 
Sư thăng tòa, Vi Thứ Sử (châu trưởng) và các quan chức hơn ba chục người, học sĩ nhà nho hơn ba mươi người, Tăng Ni-cư sĩ hơn ngàn người, đồng thời đảnh lễ xin nghe Pháp Yếu.

Sư nói: Thiện tri thức, tự tánh của Bồ Đề vốn thanh tịnh, chỉ dụng tâm này trực liễu thành Phật. Thiện tri thức, hãy nghe việc đắc pháp và sự việc của Huệ Năng.
Huệ Năng quê quán ở Phạm Dương, cha bị giáng chức đến Lãnh  Nam, lưu lạc làm dân Tân Châu. Thân thế chẳng may cha lại mất sớm, mẹ là góa phụ, nhà ở Nam Lộ, nghèo khổ phải đi bán củi ngoài chợ. 
Lúc ấy có vị khách mua củi nhờ mang đến nhà, Huệ Năng được tiền đi ra, gặp một vị khách đang tụng Kinh, Huệ Năng nghe được lời Kinh tâm liền khai ngộ, bèn hỏi khách tụng Kinh gì ? Khách nói là Kinh Kim Cang. Hỏi: “ Ở đâu có Kinh điển này?”. 
Khách nói: “ Tôi từ chùa Đông Thiền, huyện Huỳnh Mai Kỳ Châu đến. 
Chùa ấy do Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Đại Sư chủ hóa, môn đồ hơn ngàn người, tôi đến đó lễ bái lãnh thọ kinh này. 
Ngũ Tổ thường khuyên Tăng tục trì Kinh Kim Cang thì được kiến tánh, trực liễu thành Phật”.
Huệ Năng nghe nói, lại cũng vì xưa kia có duyên, nên được một người khách cho mười lượng bạc để cho mẹ già được sinh sống và bảo đi ngay đến Huỳnh Mai tham lễ Ngũ Tổ. 
Huệ Năng sắp xếp cho mẹ xong, liền từ giã lên đường. Trải qua hơn ba mươi ngày đường, đến huyện Huỳnh Mai lễ bái Ngũ Tổ. 
Tổ hỏi: “Ông là người phương nào, muốn cầu việc gì?”.
Huệ Năng nói: “Đệ tử là dân Tân Châu Lãnh Nam, từ xa đến lễ bái, chỉ cầu làm Phật, chẳng cầu việc gì khác”.
Tổ nói: “Ông người Lãnh Nam, là kẻ mọi rợ, làm sao có thể làm Phật được?”
     Huệ Năng nói: “Người có Nam Bắc, Phật tánh vốn chẳng có Nam Bắc, thân hèn hạ này với thân Hòa Thượng chẳng đồng, nhưng Phật tánh đâu có sai biệt!”
Ý Ngũ Tổ còn muốn nói thêm, nhưng thấy đồ chúng đứng xung quanh, nên bảo theo chúng làm việc. Huệ Năng bạch Hòa Thượng: “Tự tâm của đệ tử thường sanh trí huệ chẳng lìa tự tánh, tức là phước điền, chưa rõ Hòa Thượng bảo làm việc gì?”. 
Tổ nói: “Tên mọi rợ này căn khí lanh lợi, ngươi đừng nói nữa, hãy ra nhà sau đi!”. 
Huệ Năng lui đến nhà sau, có một cư sĩ sai Huệ Năng bửa củi giã gạo, trải qua hơn tám tháng. 
Một ngày kia Tổ thình lình đến gặp Huệ Năng nói: “Ta nghĩ cái thấy của ngươi dùng được, vì sợ có kẻ ác hại ngươi, nên chẳng nói chuyện với ngươi, ngươi có biết chăng?”.
Huệ Năng  nói: “Đệ tử cũng biết ý của Thầy, nên chẳng dám đi đến nhà trước”.

Một ngày kia, Ngũ Tổ triệu tập môn đồ bảo rằng: “Sanh tử là việc lớn, các ngươi suốt ngày chỉ cầu phước điền, chẳng cầu lìa khỏi biển khổ sanh tử, tự tánh nếu mê, phước làm sao có thể cứu được? Các ngươi mỗi người hãy tự xem trí huệ, dùng bổn tâm Bát Nhã của tự tánh, mỗi người làm một bài kệ trình cho ta xem, nếu ngộ được đại ý, thì ta sẽ trao truyền y bát cho làm Tổ thứ sáu; hãy mau lên chẳng được chậm trễ, hễ lọt vào suy lường thì chẳng dùng được. 
Người kiến tánh vừa nghe phải liền thấy, nếu được như vậy thì khi ra trận giữa đao kiếm cũng phải thấy được”.
Đại chúng nghe xong nói với nhau rằng: “Chúng ta chẳng cần nhọc tâm mệt trí làm kệ đâu có ích gì, vì có Thượng Tọa Thần Tú hiện làm Giáo thọ sư, chắc chắn sẽ được, chúng ta làm kệ chỉ phí sức thôi, chúng ta về sau y chỉ Sư Thần Tú cũng được rồi”.
Ngài Thần Tú suy nghĩ: “Đại chúng chẳng trình kệ, vì ta là Giáo thọ sư của họ, ta phải làm kệ trình Hòa Thượng. 
Nếu chẳng trình kệ thì Hòa Thượng làm sao biết được kiến giải sâu cạn trong tâm ta, ý của ta trình kệ vì cầu Pháp thì tốt, vì mong làm Tổ thì không nên, chẳng khác nào dùng tâm phàm mà đoạt Thánh vị. Nếu chẳng trình kệ thì làm sao đắc Pháp được, thực khó! Thực khó!”.
Nơi hành lang trước Pháp đường, Ngũ Tổ định mời họa sĩ đến vẽ Biến Tướng Kinh Lăng Già và Ngũ Tổ Huyết Mạch Đồ, để cúng dường và lưu truyền đời sau. Khi Thần Tú làm kệ xong, mấy lần muốn vào trình, nhưng khi đến trước Pháp đường thì trong tâm bấn loạn, mồ hôi ước đẫm mình. 

Như vậy trãi qua bốn ngày, mười ba lần muốn vào trình mà vẫn chưa trình được, sau cùng Thần Tú suy nghĩ: “Chi bằng ghi trên vách tường hành lang để Hòa Thượng thấy được; nếu Tổ nói tốt thì ta ra lễ bái nói của Thần Tú làm, nếu nói là chẳng được thì uổng công ta ở núi mấy năm, lại tu đạo gì mà được nhận lễ bái của người!”.
Nữa đêm đó không cho ai hay, tự cầm đèn viết kệ trên vách hành lang phía Nam, trình sở thấy của tự tâm, 

kệ rằng:

Thân thị Bồ Đề thụ,     
Tâm như minh cảnh đài.
Thời thời cần phất thức,
Vật sử nhạ trần ai.

Dịch nghĩa:

Thân là cây Bồ Đề.
Tâm như đài gương sáng.
Luôn luôn siêng lau chùi,
Chớ cho dính bụi trần.

Thần Tú viết kệ xong, liền về phòng, không ai hay. Tú lại suy nghĩ: “Ngày mai, Ngũ Tổ thấy kệ hoan hỷ thì ta có duyên với Pháp, nếu nói không được thì đó là tại ta còn mê, nghiệp chướng xưa nặng nề, chẳng đặng đắc Pháp, Thánh ý thật khó lường!”. Tú ở trong phòng suy nghĩ ngồi nằm chẳng yên cho đến gần sáng.
Tổ đã biết Thần Tú chưa vào cửa được, chẳng thấy tự tánh. 
Trời sáng, Tổ kêu họa sĩ đến hành lang để vẽ, thình lình thấy kệ, bèn nói với họa sĩ: 
“Thôi, chẳng cần vẽ nữa, làm lao nhọc cho ông từ xa đến đây. 
Kinh nói:”Phàm tất cả tướng đều là hư vọng”. 
Nay chỉ cần để bài kệ này cho người trì tụng, y kệ này tu, khỏi đọa ác đạo, y kệ này tu, được ích lợi lớn”. 
Bèn kêu môn đồ đốt nhang kính lễ, bảo cả thảy đều tụng kệ này sẽ được kiến tánh. Môn đồ tụng kệ đều khen: lành thay!
Nửa đêm Tổ kêu Thần Tú vào trong phòng hỏi: “Kệ phải do ông làm chăng?”. 
Tú nói: “Thiệt là Tú làm, chẳng ham vọng cầu Tổ vị, mong Hòa Thượng từ bi, xem đệ tử có chút ít trí tuệ chăng?”.
Tổ nói: “Ông làm kệ này chưa thấy bản tánh, chỉ đến ngoài cửa, chưa vào trong, kiến giải như thế tìm vô thượng Bồ Đề chẳng thể được. 
Vô thượng Bồ Đề phải khi vừa nói liền nhận tự bổn tâm, thấy tự bản tánh, chẳng sanh chẳng diệt, với bất cứ giờ nào, niệm niệm tự thấy, chẳng kẹt vào vạn Pháp, nhứt chơn nhứt thiết chơn, vạn cảnh tự như như, cái tâm như như tức là chân thật. Nếu thấy như thế tức vô thượng Bồ Đề của tự tánh. 
Ông tạm đi ra suy nghĩ một vài ngày nữa, làm bài kệ khác cho ta xem, nếu kệ ông vào được cửa thì ta sẽ truyền trao y Pháp”.
Thần Tú đảnh lễ lui ra, trải qua mấy ngày sau làm kệ chẳng được, trong tâm rối loạn tâm thần chẳng yên, cũng như trong mộng, đi ngồi chẳng vui.
Qua hai ngày sau có một đồng tử đi ngang qua phòng giã gạo, xướng tụng bài kệ Huệ Năng nghe được liền biết kệ này chưa thấy bản tánh, dù chưa được sự dạy bảo của Tổ, nhưng đã biết được đại ý, bèn hỏi đồng tử rằng: “Tụng kệ gì?”. 
Đồng tử nói: “Kẻ mọi rợ này chẳng biết, Đại Sư nói: Sanh tử là việc lớn muốn truyền trao y Pháp, nên bảo môn đồ làm kệ trình xem, nếu ngộ đại ý thì sẽ được truyền trao Y Pháp làm Tổ thứ sáu. Thượng Tọa Thần Tú viết kệ Vô Tướng trên vách tường hành lang. 
Đại Sư bảo mọi người đều tụng, y kệ này tu khỏi đọa ác đạo, y kệ này tu, sẽ được lợi ích lớn”.
Huệ Năng nói: “Thưa Thượng nhơn, tôi giã gạo ở đây hơn tám tháng, chưa từng đi đến nhà trước, mong Thượng nhơn dẫn tôi đến trước bài kệ lễ bái”. Đồng tử liền dẫn đến trước bài kệ, lễ bái xong, Huệ Năng nói: “Huệ Năng chẳng biết chữ, xin Thượng nhơn đọc giùm”. 
Lúc ấy có quan biệt giá Giang Châu là Trương Nhựt Dụng, liền lớn tiếng đọc, Huệ Năng nghe xong bèn nói: “Tôi cũng có một bài kệ, xin Biệt Giá viết giùm”. 
Biệt Giá nói: “Ông cũng làm kệ à, việc này hi hữu!” Huệ Năng nói với Biệt Giá rằng: “Muốn học Vô Thượng Bồ Đề, chẳng nên khinh bỉ kẻ sơ học, hạ hạ nhơn hữu thượng thượng trí, thượng thượng nhơn hữu một (chìm mất) ý trí”.
Biệt Giá nói: “Ông hãy tụng kệ đi, ta viết giùm cho. 
Ông nếu đắc pháp phải độ ta trước, về sau chớ quên lời này”. Huệ Năng kệ rằng:

Bồ Đề bổn vô thụ,
Minh cảnh diệc phi đài.
Bổn lai vô nhất vật,
Hạ xứ nhạ trần ai?
Dịch nghĩa:
Bồ Đề vốn chẳng cây,
Gương sáng cũng chẳng đài.
Xưa nay không một vật,
Nơi nào dính bụi trần?

Kệ viết xong, đồ chúng đều ngạc nhiên tán thán với nhau: “Lạ thay, chẳng nên theo tướng mạo mà đánh giá người, không ngờ nay có nhục thân Bồ Tát mà chẳng biết!”.
Tổ thấy đại chúng Kinh quái, sợ người ám hại, nên lấy giày bôi bài kệ, nói rằng: “Cũng chưa thấy tánh”. 
Mọi người cho là phải.
Hôm sau Tổ lén đến nhà giã gạo, thấy Huệ Năng lưng đeo đá giã gạo, nói rằng: “Người cầu đạo cần phải như thế”. Lại hỏi: “Gạo trắng chưa?”. Huệ Năng đáp: “Trắng đã lâu, còn thiếu giần sàng thôi”. 
Tổ lấy gậy gõ trên cối ba cái rồi bỏ đi. Huệ Năng hiểu ý Tổ, nên canh ba vào thất. Tổ dùng Ca Sa che lại không cho người thấy, rồi thuyết Kinh Kim Cang, đến câu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” thì Huệ Năng ngay đó đại ngộ tất cả vạn pháp chẳng lìa tự tánh, bèn bạch Tổ rằng:
“Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh,
Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt,
Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ,
Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng lay động,
Đâu ngờ tự tánh hay sanh vạn pháp !”.
Tổ biết Huệ Năng đã ngộ bản tánh, nên nói với Huệ Năng rằng: “Chẳng nhận được bổn tâm, học pháp vô ích, nếu nhận được bổn tâm thấy được bổn tánh, tức gọi là Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật”.
Nửa đêm thọ pháp chẳng ai biết, Tổ bèn truyền pháp đốn giáo và y bát nói rằng: “Ngươi là Tổ thứ sáu khéo tự hộ niệm, độ khắp hữu tình phổ biến lưu truyền cho đời sau, đừng để đoạn đứt”. 

Nghe ta nói kệ đây:

“Hữu tình lai hạ chủng,
Nhơn địa quả huờn sanh.
Vô tình diệc vô chủng,
Vô tánh diệc vô sanh”.

Dịch nghĩa:

Hữu tình được gieo giống,
Nhơn gieo quả ắt sanh.
Vô tình thì vô chủng,
Vô tánh cũng vô sanh.
 
LƯỢC GIẢI:
Sinh vật có hai loại: Hữu tình là động vật - Vô tình là thực vật. 
Hữu tình mới được gieo giống Phật, vô tình thì không; có giống là nhơn, ắt sẽ sanh quả. Nhơn địa là hữu tình, quả địa là Phật. Vô tình chẳng phải nhơn địa của Phật nên chẳng phải là giống 
(vô chủng).
Tất cả pháp vốn chẳng có tự tánh, nên nói vô tánh. 
Vậy thì hữu tình và vô tình, Phật và chúng sanh đều chẳng có tự tánh, cũng là pháp vô sanh vậy. Nên nói : “Vô tánh diệc vô sanh”. 
Vì đây là kệ truyền pháp, kệ truyền pháp chẳng được lọt vào tứ cú.
Hỏi: Đã nói không lọt vào tứ cú, tại sao nói “Vô tánh diệc vô sanh?”. 
Như vậy là lọt vào cú thứ nhì rồi?
     Đáp: Nói tất cả pháp vốn chẳng tự tánh thì làm sao có vô tánh và vô sanh để làm tự tánh!
Hành giả đọc đến chổ này, chớ nên dùng ý thức để lãnh hội, cho là đúng hay không đúng: 
Đã nói pháp vô sanh thì làm sao sanh ra pháp đúng và pháp không đúng?
Đây là cửa ải của Thiền môn, cần phải thấu qua (tự ngộ) mới được.
Kệ này lược giải là để phá chấp, còn muốn hiểu ý Tổ cần phải tự tham ngộ mới được.
 
Tổ lại nói: “Khi xưa Đạt Ma Đại Sư mới tới xứ này, vì người ta chưa đủ lòng tin, nên mới truyền y bát để làm tín thể (vật làm tin) đời đời truyền nhau thành pháp tắc, lấy tâm truyền tâm đều bảo tự ngộ tự giải, từ xưa Phật Phật chỉ truyền bản thể, Tổ Tổ mật phó bản tâm. 
Y bát là mối tranh giành, tới đời ngươi phải ngưng truyền. Nếu truyền y bát là việc rất nguy hiểm, ngươi phải đi cho mau, kẻo có người ám hại”.
Huệ Năng bạch rằng: “Đi xứ nào?”
Tổ nói: “Gặp Hoài thì ngừng, gặp Hội thì ẩn”.
Canh ba lãnh y bát xong, Huệ Năng được Ngũ Tổ đưa đến bến đò Cửu Giang. Xuống thuyền Huệ Năng giành chèo. Tổ nói: “Đúng ra ta phải độ”. Huệ Năng nói: “Khi mê thì Thầy độ, ngộ rồi tự độ”. (Độ có hai nghĩa: 1-Cứu độ. 2-Đưa đò). 
Nói độ là một , nhưng chổ dùng chẳng đồng. Huệ Năng sanh nơi biên địa nên giọng nói khó nghe. Được Thầy truyền pháp, nay đã được ngộ, chỉ nên tự tánh tự độ vậy.
Tổ nói: “Như thế! Như thế! Về sau Phật Pháp do ngươi được thịnh hành, ngươi cứ hướng về phía Nam mà đi, chẳng nên thuyết pháp sớm, vì Phật Pháp phải tùy duyên”.
Huệ Năng từ biệt Tổ, hướng về Nam trải qua hai tháng tới núi Đại Du Lãnh.
Ngũ Tổ trở về, mấy ngày chẳng thượng đường, đại chúng nghi ngờ hỏi: “Hòa Thượng có bệnh gì chăng?”.
Tổ nói: “Bệnh thì không có, nhưng y pháp đã về Nam rồi”.
Hỏi: “Ai được truyền thọ?”
Đáp: “Kẻ nào Năng thì được”.
Khi ấy đại chúng mới biết, nên có mấy trăm người đuổi theo để đoạt y bát, trong đó có một Tăng tên tục là Trần Huệ Minh ngày trước làm Tứ Phẩm tướng quân, tánh tình thô bạo, dẫn đầu đi trước, đuổi kịp Huệ Năng, Huệ Năng bỏ y bát trên tảng đá nói rằng: “Y bát là vật làm tin, há dùng sức mà đoạt được sao?”. 
Liền ẩn mình trong đám cỏ. Huệ Minh đến, muốn lấy y bát mà chẳng nhúc nhích được, liền kêu: “Hành giả! Hành giả! Tôi vì Pháp đến, chẳng vì Y đến”. 
Huệ Năng liền ra ngồi trên tảng đá, Huệ Minh đảnh lễ nói rằng: “Mong hành giả vì tôi thuyết Pháp”.
Huệ Năng nói: “Ông đã vì Pháp mà đến đây thì nên ngưng nghỉ các duyên, chớ sanh một niệm ta sẽ vì ông mà thuyết”.
Một hồi sau Huệ Năng nói: “Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, đang khi ấy cái nào là bổn lai diện mục của Thượng Tọa Minh?”.
Huệ Minh ngay đó đại ngộ, lại hỏi rằng: “Ngoài lời mật, mật ý kể trên, còn có ý nào bí mật chăng?”.
Huệ Năng nói: “Đã nói với ông thì chẳng phải mật rồi, nếu ông phản chiếu thì mật tại bên ông”.
Minh nói: “Huệ Minh dù ở Huỳnh Mai, thật chưa tỉnh ngộ diện mục của tự kỷ, nay được khai thị, như người uống nước, lạnh nóng tự biết. 
Nay hành giả tức là Thầy của Huệ Minh vậy”.
Huệ Năng nói: “Nếu ông như thế, thì ta với ông cùng thờ một Thầy Huỳnh Mai, hãy khéo tự hộ trì”.
Huệ Minh lại hỏi: “Huệ Minh về sau đi xứ nào?”.
Đáp: “Gặp Viên thì ngừng, gặp Mông thì ở”. Minh đảnh lễ giã từ.
(Minh trở xuống chân núi, nói với đại chúng rằng: “Chẳng thấy dấu vết nào hết, phải đi hướng khác mà tìm”. Chúng đều tin. Về sau Huệ Minh đổi  tên thành Đạo Minh để tránh sự trùng tên với Thầy)
Huệ Năng đến Tào Khê, bị bọn ác tìm theo, nên phải lánh nạn trong đám thợ săn nơi Tứ Hội, trải qua mười lăm năm, thường vì thợ săn tùy nghi thuyết pháp. Bọn họ bảo giữ lưới, mỗi khi thấy cầm thú lọt vào đều thả ra hết. 
Tới bữa ăn, gởi rau trong nồi thịt, có người hỏi thì trả lời: “Chỉ ăn rau luộc bên cạnh thịt mà thôi”.
Một ngày kia nghĩ rằng: “Đã đến lúc phải hoằng pháp không nên ẩn hoài”, liền ra chùa Pháp Tánh Quảng Châu, gặp Ấn Tông Pháp Sư giảng Kinh Niết Bàn. 
Có hai vị Tăng tranh luận về nghĩa “gió và lá phướn”; kẻ nói gió động, người nói phướn động, tranh cãi không ngừng, Huệ Năng chen vào nói: “Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, mà tâm các ông động”.
Cả chúng đều ngạc nhiên. Ấn Tông mời Năng ra ngồi trên cao tòa, hỏi những nghĩa lý thâm sâu, thấy Huệ Năng lời gọn mà đúng lý, chẳng do văn tự. 
Ấn Tông nói: “Hành giả ắt chẳng phải người thường, lâu nay đã nghe Y Pháp Huỳnh Mai về Nam, có phải là hành giả chăng?
Huệ Năng nói “Không dám”.
Ấn Tông liền đảnh lễ, xin thỉnh Y Bát ra cho đại chúng xem.
Ấn Tông hỏi rằng: “Sự phó chúc của Huỳnh Mai truyền thọ như thế nào ?”
Huệ Năng nói: “Truyền thọ thì không, chỉ cần kiến tánh, chẳng cần thiền định giải thoát”.
Ấn Tông hỏi: “Tại sao chẳng cần thiền định giải thoát?”
Đáp: “Vì đó là nhị pháp, chẳng phải Phật Pháp, Phật Pháp là pháp bất nhị”.
Ấn Tông lại hỏi: “Thế nào là Pháp Bất Nhị của Phật Pháp?”
Đáp: “Pháp Sư giảng Kinh Niết Bàn, đã rõ Phật tánh là Pháp Bất Nhị của Phật Pháp! Như trong Kinh Niết Bàn nói: “Cao Quý Đức Vương Bồ Tát bạch Phật rằng: Phạm tứ trọng cấm (bốn giới trọng nhất trong giới Tỳ kheo, giống như người thế gian phạm tội tử hình), làm tội ngũ nghịch và nhất xiển đề, phải bị đoạn dứt thiện căn Phật  tánh không? Phật nói: Thiện căn có hai, một là thường, hai là vô thường, Phật tánh phi thường phi vô thường, nên chẳng đoạn dứt gọi là bất nhị. 

Một là thiện, hai là bất thiện, Phật tánh phi thiện, phi bất thiện, gọi là bất nhị. Uẩn và Giới, phàm phu thấy cho là nhị, người trí liễu đạt thì biết tánh ấy bất nhị, tánh bất nhị tức là Phật tánh vậy”.

Ấn Tông nghe xong hoan hỷ chấp tay rằng: “Tôi giảng kinh như gạch nát ngói bể, ông giảng nghĩa cũng như vàng ròng”
Do đó, vì Huệ Năng xuống tóc, nguyện thờ làm Thầy.
Huệ Năng bèn ở nơi gốc cây Bồ Đề khai giảng pháp môn Đông Sơn (Ngũ Tổ): “Huệ Năng đắc pháp nơi Đông Sơn, chịu nhiều cay đắng, gặp nhiều nguy hiểm, tánh mạng tựa như chỉ mành, hôm nay được cùng các quan, các Tăng Ni đạo tục đồng tụ tại hội này, là do quá khứ nhiều kiếp cúng dường chư Phật, cùng gieo thiện căn mới được nghe cái nhơn đắc pháp và pháp Đốn Giáo kể trên. 
Giáo pháp là do bậc Thánh xưa truyền lại, chẳng phải tự trí của Huệ Năng. 

Người muốn nghe giáo pháp của bậc Thánh xưa, phải làm cho tâm thanh tịnh (trong sạch), nghe rồi phải tự đoạn trừ nguồn gốc nghi ngờ giống như các bậc Thánh xưa chẳng có khác biệt”.
Đại chúng nghe pháp xong hoan hỷ đảnh lễ lui ra.


Được sửa bởi mytutru ngày Thu 12 May 2016, 10:59; sửa lần 4.
Về Đầu Trang Go down
http://<marquee>mytutru_welcome.. tứ trụ kính chúc T
mytutru

mytutru

Tổng số bài gửi : 11074
Registration date : 08/08/2009

Kinh Pháp Bảo Đàn  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Bảo Đàn    Kinh Pháp Bảo Đàn  I_icon13Thu 12 May 2016, 10:26

PHẨM THỨ II: BÁT – NHÃ
 
Qua ngày sau, Vi Sử Quân lại xin giảng nữa, Sư thăng tòa bảo đại chúng rằng: “Cần phải tĩnh tâm niệm Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa”. 
Lại nói: “Thiện tri thứ, trí Bồ Đề Bát Nhã của chúng sanh vốn tự có, chỉ vì tâm mê chẳng thể tự ngộ, phải nhờ đại thiện tri thức khai thị dẫn dắt để đi đến kiến tánh. 
Phải biết Phật tánh của kẻ ngu người trí vốn chẳng sai biệt, chỉ vì mê ngộ chẳng đồng, nên mới có kẻ ngu người trí. 
Nay ta thuyết Pháp Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, khiến cho mọi người đều được trí huệ, hãy chú tâm nghe.
“Thiện tri thức, người đời suốt ngày miệng niệm BÁT NHÃ, chẳng nhận được TỰ TÁNH BÁT NHÃ, cũng như nói ăn mà không ăn thì chẳng no, miệng chỉ thuyết “KHÔNG”, muôn kiếp chẳng được KIẾN TÁNH, rốt cuộc vô ích.
 
Thiện tri thức, Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật là tiếng Phạn, dịch là đại trí huệ đến bờ bên kia, đây cần phải tâm hành, chẳng phải ở miệng niệm, miệng niệm tâm chẳng hành thì cũng như huyễn hóa. 
Miệng niệm tâm hành thì tâm và miệng tương ưng. Bản tánh là Phật, lìa tánh chẳng có Phật.
Sao gọi là Ma Ha? Ma Ha là đại, tâm lượng quảng đại như hư không, chẳng có biên giới cũng chẳng có vuông tròn lớn nhỏ, cũng chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, cũng chẳng trên dưới dài ngắn, cũng chẳng giận, chẳng vui, chẳng phải chẳng quấy, chẳng thiện chẳng ác, chẳng đầu chẳng đuôi.
 
Các cõi Phật đều đồng như hư không, diệu tánh con người vốn không, chẳng có một pháp có thể đắc, tự tánh chơn không cũng như thế.
Thiện tri thứ, chớ nên nghe ta nói “KHÔNG” mà liền chấp “KHÔNG”. Trước nhất chớ chấp “KHÔNG”, nếu để tâm “KHÔNG” tĩnh tọa là lọt vào “VÔ KÝ KHÔNG”.
Thiện tri thức, thế giới hư không bao hàm sắc tướng vạn vật, mặt trời, mặt trăng, núi sông, đất đai, cây cối, biển lớn, kẻ dữ người lành, pháp ác pháp thiện, thiên đàng địa ngục, tất cả đều ở trong hư không, “TÁNH KHÔNG” của con người cũng vậy.
Thiện tri thức, tự tánh hay bao hàm muôn pháp là ĐẠI, muôn pháp đều ở trong tự tánh của con người. Nếu thấy điều dữ điều lành của người, tất cả đều chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng chấp chẳng nhiễm, tâm như hư không gọi là ĐẠI, nên nói là MA HA.
Thiện tri thức, kẻ mê miệng nói, người trí tâm hành. 
Lại có kẻ mê để tâm “không” mà tĩnh tọa, trăm điều chẳng nghĩ, tự xưng là đại, với bọn người này không thể nói gì được, vì họ bị rơi vào tà kiến.
Thiện tri thức, tâm lượng quảng đại cùng khắp pháp giới, dùng thì liễu liễu rõ ràng, ứng dụng liền biết tất cả. 
Tất cả tức một, một tức tất cả, tới lui tự do, tâm thể vô ngại tức là BÁT NHÃ.
Thiện tri thức, tất cả TRÍ BÁT NHÃ đều từ tự tánh mà sanh, chẳng từ bên ngoài vào, chớ lầm dùng ý thức, gọi là chơn tánh tự dụng.
Nhất chơn nhất thiết chơn, tâm lượng là việc lớn, chẳng nên hành đạo nhỏ, miệng chớ trọn ngày nói “không” mà trong tâm chẳng tu hạnh này, giống như thường dân tự xưng là vua thì không được, hạng người này chẳng phải đệ tử của ta.
Thiện tri thức, sao gọi là BÁT NHÃ? BÁT NHÃ dịch là trí huệ. Bất cứ nơi nào lúc nào, niệm niệm chẳng ngu muội (chẳng chấp thật), thường hành đúng trí huệ, tức là hạnh BÁT NHÃ một niệm ngu muội, chấp thật thì BÁT NHÃ tuyệt, một niệm trí huệ thì BÁT NHÃ sanh. 
Con người ngu mê chẳng thấy BÁT NHÃ, miệng nói BÁT NHÃ mà trong tâm thường ngu muội, tự nói ta tu BÁT NHÃ, niệm niệm nói “KHÔNG” mà chẳng biết “CHƠN KHÔNG”. 
BÁT NHÃ không hình tướng, ấy là tâm trí huệ, nếu hiểu thấu như thế gọi là TRÍ BÁT NHÃ.
Sao gọi là Ba La Mật? Ba La Mật là tiếng Ấn Độ, dịch là đến bờ bên kia, nghĩa là lìa sanh diệt. Chấp cảnh thì sanh diệt dấy lên như nước nổi làn sóng, tức gọi bờ bên này, lìa cảnh thì chẳng sanh diệt như nước chảy im lìm, tức là bờ bên kia, nên gọi là Ba La Mật.
Thiện tri thức, kẻ mê miệng niệm, đang trong lúc niệm có vọng có sai, niệm niệm nếu hành gọi là chơn tánh. Kẻ ngộ pháp này là PHÁP BÁT NHÃ, kẻ tu hạnh này là HẠNH BÁT NHÃ, chẳng tu tức là phàm phu, một niệm tu hành, tự thân bằng Phật.
Thiện tri thức, phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ Đề; niệm trước mê tức phàm phu, niệm sao ngộ tức Phật. Niệm trước chấp cảnh, tức phiền nảo, niệm sau lìa cảnh tức Bồ Đề. 
Thiện tri thức! MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT, tối cao tối thượng tối đệ nhất, không trụ không đi cũng không đến, tam thế chư Phật từ đó ra. 
Cần phải dùng ĐẠI TRÍ HUỆ, phá ngũ uẩn phiền não trần lao, tu hành như thế, nhất định thành Phật, đổi TAM ĐỘC thành GIỚI, ĐỊNH, HUỆ.
Thiện tri thức, pháp môn này từ một BÁT NHÃ mà sanh ra tám mươi bốn ngàn trí huệ. 
Tại sao vậy? Vì con người có tám mươi bốn ngàn trần lao, nếu không có trần lao thì trí huệ luôn luôn hiển hiện, chẳng lìa tự tánh. Người ngộ pháp này tức là vô niệm vô ức (không ghi nhớ), vô nhiễm trước, chẳng khởi cuồng vọng. Đối với tất cả pháp, dùng trí huệ của chơn như tự tánh chiếu soi, chẳng lấy chẳng bỏ, tức là KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT.
Thiện tri thức, muốn đi vào pháp giới thâm sâu và BÁT NHÃ TAM MUỘI, phải tu hạnh BÁT NHÃ, thực hành theo Kinh Kim Cang thì sẽ được KIẾN TÁNH. Phải biết cái công đức của kinh này vô lượng vô biên, trong kinh rõ ràng tán thán, chẳng thể kể xiết. 
Pháp môn này là TỐI THƯỢNG THỪA, vì người đại trí mà thuyết, vì người thượng căn mà thuyết, kẻ căn khí nhỏ nghe được khó tin. 
Tại sao vậy? Ví như trận mưa bão lụt thành thị nông thôn đều bị cuốn trôi như cỏ lá, nếu mưa bão trong biển lớn thì chẳng thêm chẳng bớt: Như người thượng thừa, người Tối Thượng Thừa nghe được Kinh Kim Cang, tâm liền khai ngộ. Nên biết tự tánh vốn có cái TRÍ BÁT NHÃ, trí huệ tự tánh thường chiếu soi nên chẳng nhờ văn tự, ví như nước mưa, chẳng do trời có mà khí trời làm nên, khiến cho tất cả chúng sanh, tất cả cây cối, hữu tình vô tình, đều được thấm nhuần, tất cả sông ngòi đều chảy về biển lớn, hợp thành nhất thể. 
Cái TRÍ TỰ TÁNH BÁT NHÃ của chúng sanh cũng vậy. Thiện tri thức, kẻ tiểu căn nghe được PHÁP MÔN ĐỐN GIÁO này, cũng như cây cỏ mà gặp mưa bão, đều tự gãy đổ chẳng sanh trưởng được, kẻ tiểu căn thì cũng như vậy: họ vốn có cái TRÍ BÁT NHÃ đồng với người đại trí, chẳng có khác biệt, tại sao nghe pháp mà chẳng được tự ngộ? Đó là do tà kiến chướng nặng, phiền não căn sâu, cũng như mây lớn che khuất mặt trời, chẳng được gió thổi nên chẳng hiện ánh sáng.
CÁI TRÍ của BÁT NHÃ vốn chẳng lớn nhỏ, chỉ vì tất cả chúng sanh tự tâm mê ngộ chẳng đồng, tâm mê tu hành hướng ngoại tìm Phật mà chưa ngộ tự tánh, tức là tiểu căn. Nếu khai ngộ đốn giáo chẳng chấp lấy hình tướng bên ngoài, chỉ ở trong tự tâm thường khởi chánh kiến, phiền não trần lao thường chẳng ô nhiễm, tức là KIẾN TÁNH.
Thiện tri thức, trong ngoài chẳng trụ, đi lại tự do, nếu trừ được chấp tâm thì thông đạt vô ngại. 
Nếu tu được hạnh này, với kinh BÁT NHÃ vốn chẳng sai biệt. Thiện tri thức, tất cả kinh điển và văn tự, đại tiểu nhị thừa, mười hai bộ kinh đều do người đặt ra, vì có tánh trí huệ mới được kiến lập; nếu chẳng có con người thì vạn pháp vốn chẳng tự có. 
Nên biết vạn pháp vốn do tâm người kiến tạo, tất cả kinh sách là vì con người mà nói. Vì trong con người có kẻ ngu người trí, ngu là tiểu nhơn, trí là đại nhơn, kẻ ngu hỏi pháp với người trí, người trí thuyết pháp cho kẻ ngu, kẻ ngu đốn ngộ tự tâm thì chẳng khác với người trí vậy.
 
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật là chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ thì chúng sanh tức Phật, Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm, vậy sao chẳng ở trong tự tâm đốn thấy chơn như bản tánh? Kinh Phạm Võng nói: “Tự tánh vốn thanh tịnh, nếu nhận được tự tâm, thấy được bản tánh, tức thành Phật đạo”. 
Kinh Duy Ma Cật nói: “Ngay lúc đó hoát nhiên đốn ngộ, liền được bổn tâm”. Thiện tri thức, ta ở nơi Hòa Thượng Hoằng Nhẫn vừa nghe câu nói liền ngộ, đốn thấy chơn như bản tánh, cho nên hoằng dương giáo pháp này, khiến hành giả đốn ngộ Bồ Đề, mọi người tự thấy bổn tâm, tự kiến tánh, nếu chẳng tự ngộ, phải tìm người đã khai ngộ pháp Tối Thượng Thừa, chỉ ngay  đường lối CHÁNH PHÁP, vì thiện tri thức có nhân duyên lớn giáo hóa dẫn dắt, khiến hành giả được KIẾN TÁNH, tất cả thiện pháp đều do thiện tri thức mà được kiến lập.
Tam thế chư Phật, mười hai bộ kinh ở trong tự tánh vốn đã đầy đủ, vì tự ngộ chẳng được, nên phải nhờ Thiện tri thức chỉ ra mới thấy, kẻ tự ngộ thì chẳng phải nhờ đến người khác. 
Nếu cố chấp rằng phải luôn luôn ỷ lại Thiện tri thức mới mong được giải thoát thì không bao giờ được. Tại sao vậy? Vì ở trong tự tâm sẵn có tri thức tự ngộ, nếu khởi tà kiến mê chấp vọng tưởng, điên đảo, dẫu cho gặp thiện tri thức dạy bảo cũng chẳng cứu được. 
Nếu khởi chơn chánh BÁT NHÃ tham cứu, trong một sát na vọng tưởng đều tiêu, nhận được tự tánh, đốn siêu Phật địa.
Thiện tri thức, dùng trí huệ chiếu soi, trong ngoài sáng tỏ rõ ràng thì nhận được bổn tâm. Nếu nhận được bổn tâm tức vốn là giải thoát, được giải thoát tức là BÁT NHÃ TAM MUỘI, BÁT NHÃ TAM MUỘI tức là VÔ NIỆM. 
 
Sao gọi là VÔ NIỆM? Nếu thấy tất cả pháp tâm không nhiễm trước gọi là VÔ NIỆM, dùng thì khắp nơi, cũng chẳng dính mắc ở khắp nơi, hễ sạch được bổn tâm, khiến lục thức ra cửa lục căn, đối với lục trần mà chẳng nhiễm chẳng trước, đi lại tự do, ứng dụng vô ngại tức là BÁT NHÃ TAM MUỘI, tự tại giải thoát gọi là hạnh VÔ NIỆM. 
Chứ chẳng phải như người lầm tưởng cho là “trăm điều chẳng nghĩ, chỉ cho niệm tuyệt”, ấy là pháp trói buộc, tức là biên kiến.
Thiện tri thức, kẻ ngộ pháp VÔ NIỆM thông đạt vạn pháp, ngộ pháp VÔ NIỆM thấy được cảnh giới chư Phật, ngộ pháp VÔ NIỆM được đến địa vị Phật.
 
Thiện tri thức, nếu người đời sao ngộ được pháp này, đem pháp môn đốn giáo này với những người đồng một chánh kiến, chánh hạnh phát nguyện cùng tu, như cúng dường Phật mà suốt đời chẳng thối lui, người ấy nhất định được vào Thánh vị. 
Nhưng phải truyền thọ, từ trước đến nay các Tổ đều mặc truyền tâm ấn, chẳng được ẩn giấu Chánh Pháp. 
Nếu chẳng phải đồng môn chánh kiến, chánh hạnh, là người đã ở trong pháp khác thì chẳng được truyền thọ, vì sợ kẻ ngu chẳng hiểu, lại sanh phỉ báng pháp môn này, phá hoại truyền thống CHÁNH PHÁP của Cổ đức, làm cho muôn ngàn kiếp sau đoạn dứt Phật chủng, cuối cùng vô ích.
Thiện tri thức, nay ta có một bài VÔ TƯỚNG TỤNG, mọi người hãy tự giữ lấy, không kể xuất gia tại gia, nên y theo bài tụng mà tu hành, nếu chẳng tự tu mà chỉ ghi nhớ lời ta cũng chẳng lợi ích gì.
Về Đầu Trang Go down
http://<marquee>mytutru_welcome.. tứ trụ kính chúc T
mytutru

mytutru

Tổng số bài gửi : 11074
Registration date : 08/08/2009

Kinh Pháp Bảo Đàn  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Bảo Đàn    Kinh Pháp Bảo Đàn  I_icon13Thu 12 May 2016, 10:32

Bài tụng rằng:
 
Thuyết thông cập tâm thông,
Như nhựt xử hư không.          
Duy truyền kiến tánh pháp,
Xuất thế phá tà tông.
Pháp tức vô đốn tiệm,
Mê ngộ hữu trì tật.
Chỉ thử kiến tánh môn,
Ngu nhơn bất khả tất.
Thuyết tức tuy vạn ban,
Hợp lý huờn quy nhất.
Phiền não ám trạch trung,
Thường tu sanh huệ nhựt.
Tà lai phiền não chí,
Chánh lai phiền não trừ.
Tà chánh câu bất dụng,
Thanh tịnh chí vô dư.
Bồ đề bổn tự tánh,
Khởi tâm tức thị vọng.
Tịnh tâm tại vọng trung,
Đản chánh vô tam chướng.
Thế nhơn nhược tu đạo,
Nhất thiết tận bất phương.
Thường kiến tự kỷ quá,
Dữ đạo tất tương đương.
Sắc loại tự hữu đạo,
Các bất tương phương não.
Ly đạo biệt mích đạo,
Chung thân bất kiến đạo.
Ba ba độ nhất sanh,
Đáo đầu huờn tự áo.
Dục đắc kiến chơn đạo,
Hạnh chánh tức thị đạo.
Tự nhược vô đạo tâm,
Ám hành bất kiến đạo.
Nhược chơn tu đạo nhơn,
Bất kiến thế gian quá.
Nhược kiến tha nhơn phi,
Tự phi khước thị tả.
Tha phi ngã bất phi,
Ngã phi tự hữu quá.
Đản tự khước phi tâm,
Đả trừ phiền não phá.
Tắng ái bất quan tâm,
Trường thân lưỡng cước ngọa.
Dục nghĩ hóa tha nhơn,
Tự tu hữu phương tiện.
Vật linh bỉ hữu nghi,
Tức thị tự tánh hiện.
Phật pháp tại thế gian,
Bất ly thế gian giác.
Ly thế mích bồ đề,
Cáp như cầu thố giác.
Chánh kiến danh xuất thế,
Tà kiến danh thế gian.
Tà chánh tận đã khước,
Bồ đề tánh uyển nhiên.
Thử tụng thị đốn giáo,
Diệc danh đại pháp thiền.
Mê văn kinh lũy kiếp,
Ngộ tắc sát na gian.
 
Dịch nghĩa:
Thuyết thông lại Tâm thông (1)
Như mặt trời giữa không.
Chỉ truyền pháp kiến tánh,
Hoằng pháp phá tà tông.
Pháp vốn chẳng đốn tiệm,
Mê ngộ có nhanh chậm.
Pháp môn kiến tánh này,
Kẻ ngu chẳng thể tri.
Thuyết tuy muôn ngàn lối,
Đúng lý chỉ là một.
Nhà phiền não đen tối,
Thường nên sanh huệ nhựt.
Tà khởi phiền não tới,
Chánh đến phiền não trừ.
Tà chánh đều chẳng chấp,
Thanh tịnh đến cùng tột.
Tự tánh vốn Bồ Đề,
Khởi tâm tức là vọng.
Tịnh tâm ở trong vọng,
Niệm chánh chẳng tam chướng.
Người đời muốn tu đạo,
Tất cả đều chẳng ngại.
Thường tự thấy lỗi mình,
Với đạo tức tương ưng.
Muôn loài tự có đạo,
Mỗi mỗi chẳng ngại nhau,
Ngoài tâm đi tìm đạo,
Suốt đời chẳng thấy đạo.
Bôn ba qua một đời,
Sau cùng tự áo não.
Muốn được thấy chơn đạo,
Hạnh chánh tức là đạo.
Nếu tự chẳng đạo tâm,
Đen tối chẳng thấy đạo.
Nếu là người chơn tu,
Chẳng thấy lỗi thế gian.
Nếu thấy lỗi của người,
Trái lại thành tự quấy.
Người quấy ta chẳng quấy,
Thấy quấy thành tự lỗi.
Hễ bỏ tâm chấp quấy,
Phiền não tự tan rã.
Thương ghét chẳng quan tâm,
Duỗi thẳng hai chân nằm
Muốn hóa độ chúng sanh,(2)
Tự phải có phương tiện.
Khiến họ hết nghi ngờ,
Tức là tự tánh hiện.
Phật pháp tại thế gian,
Chẳng rời thế gian giác.
Lìa thế tìm Bồ Đề,
Cũng như tìm sừng thỏ.
Chánh kiến gọi xuất thế,
Tà kiến gọi thế gian.
Tà chánh đều quét sạch,
Tánh Bồ Đề rõ ràng.
Tụng này là đốn giáo,
Cũng gọi đại pháp thiền.
Lúc mê tu nhiều kiếp,
Ngộ chỉ một sát na.
Sư lại nói: “Nay ta ở chùa Đại Phạn thuyết pháp đốn giáo này, nguyện cho pháp giới chúng sanh nghe được pháp này liền kiến tánh thành Phật”.
Lúc ấy Vi Sử Quân và tất cả quan chức, đạo tục nghe Sư thuyết pháp đều được tỉnh ngộ, đảnh lễ tán thán rằng: “Lành thay đâu ngờ xứ Lãnh Nam lại có Phật ra đời”.
GHI CHÚ:
(1) Thuyết thông lại tâm thông,
Như mặt trời giữa không.
Thuyết thông chưa chắc là tâm thông, tâm thông tự nhiên thuyết cũng thông? Vậy thế nào là tâm thông?
Trên phù hợp ý Phật, dưới khế hợp đương cơ mới được gọi là tâm thông, khi tâm đã thông rồi mới có thể giống như mặt trời giữa hư không.
Mặt trời giữa hư không chẳng có nhờ cậy dính mắc gì cả, nên chiếu soi khắp nơi chẳng thiếu sót.
Nếu mặt trời có nhờ cậy bằng một sợi chỉ buộc treo lên, thì sợi chỉ ấy sẽ che khuất mặt trời, làm cho chổ chiếu soi của mặt trời có sự thiếu sót vậy.
Như Giáp Sơn Hòa Thượng ra hoằng pháp, Tăng hỏi: “Thế nào là Pháp Thân?”.
Giáp Sơn đáp: “Pháp Thân chẳng tướng”.
Hỏi: “Thế nào là Pháp Nhãn?”.
Đáp: “Pháp Nhãn chẳng bệnh”. Khi đó có Đạo Ngộ Thiền Sư nghe xong liền cười, Giáp Sơn xuống tòa hỏi Đạo Ngộ rằng: “Giáp Sơn vừa trả lời Tăng này, chắc có chỗ không đúng khiến Thượng Tọa bật cười, xin Thượng Tọa từ bi chỉ dạy cho”. Đạo ngộ nói: “Hòa Thượng ra hoằng pháp chưa có thầy”.
Giáp Sơn nói: “Nay xin lễ Thượng Tọa làm Thầy”.
Đạo Ngộ nói: “Thầy của Hòa Thượng là Huê Đình Thuyền Tử”.
     Giáp Sơn đến Huê Đình gặp Thuyền Tử được khai ngộ, trở về nơi cũ hoằng pháp.
Đạo Ngộ lại sai một vị Tăng đến hỏi: Thế nào là Pháp Thân?. Giáp Sơn đáp rằng: Pháp Thân chẳng tướng.
Hỏi Thế nào là Pháp Nhãn?. Đáp: Pháp Nhãn chẳng bệnh. Tăng về lập lại với Đạo Ngô. Đạo Ngộ nói: Ông ấy nay đã triệt ngộ.
Lời Giáp Sơn đáp Tăng trước, Đạo Ngộ chê cười cho là thuyết thông tâm chẳng thông: lời đáp Tăng sau cũng giống như lời đáp trước mà Đạo Ngộ lại tán thán, cho là tâm thông thuyết thông, chỗ này chớ nên dùng ý thức để phân biệt; nếu dùng ý thức tìm hiểu thì chỉ có thể thuyết thông, chẳng thể tâm thông.
Muốn tâm thông cần phải tham ngộ mới được.
(2) Muốn hóa độ  chúng sanh,
Tự phải có phương tiện
Khiến họ hết nghi ngờ,
Tức là tự tánh hiện.
Hai chữ “phương tiện” này chẳng phải giống như những người lạm dụng để cầu thêm danh lợi, hoặc che giấu tội lỗi; cũng chẳng phải dùng để độ người sơ cơ.
Phương tiện ở đây là xuất phát từ Bát Nhã, phải người kiến tánh mới có phương tiện này, mà dùng để khiến  cho đương cơ từ NGHI đến NGỘ.
Từ NGHI đến NGỘ: tùy theo người, từ một sát na cho đến năm, mười năm không chừng, cũng như:
- Ngài Huệ Minh vừa nghe, ngộ liền,
- Ngài Giáp Sơn, trong vài phút được ngộ,
- Ngài Pháp Nhãn, một tháng được ngộ,
- Tổ  Hoài Nhượng, tám năm mới ngộ.
Không phải mau ngộ là cao, chậm ngộ là thấp. Người chứng ngộ mới đoạn dứt được NGHI CĂN (nguồn gốc nghi ngờ đối với vạn pháp).Đoạn dứt NGHI CĂN tức là KIẾN TÁNH. Nên nói: “Tức là tự tánh hiện (kiến tánh).


Được sửa bởi mytutru ngày Thu 19 May 2016, 06:47; sửa lần 2.
Về Đầu Trang Go down
http://<marquee>mytutru_welcome.. tứ trụ kính chúc T
mytutru

mytutru

Tổng số bài gửi : 11074
Registration date : 08/08/2009

Kinh Pháp Bảo Đàn  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Bảo Đàn    Kinh Pháp Bảo Đàn  I_icon13Thu 12 May 2016, 11:00

Về Đầu Trang Go down
http://<marquee>mytutru_welcome.. tứ trụ kính chúc T
Sponsored content




Kinh Pháp Bảo Đàn  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Bảo Đàn    Kinh Pháp Bảo Đàn  I_icon13

Về Đầu Trang Go down
 
Kinh Pháp Bảo Đàn
Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Similar topics
-
» Đặc Khu Kinh Tế?
» THÁNG BẢY TỤNG KINH VU LAN BỒN
» HỘI XUÂN KINH BẮC
» Những câu nói dối 'kinh điển' của đàn ông khi yêu
» * TỰ ĐIỂN TẠNG KINH
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
daovien.net :: VƯỜN VĂN :: Truyện sáng tác, truyện kể ::   :: mytutru-