Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesVietUniĐăng kýĐăng Nhập
Bài viết mới
LỀU THƠ NHẠC by Thiên Hùng Today at 12:06

Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Today at 08:53

Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 20:15

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN by Trà Mi Yesterday at 12:48

NỒI CƠM KHỔNG TỬ by mytutru Wed 27 Mar 2024, 23:23

Trang Thơ Phạm Đa Tình by Phạm Đa Tình Wed 27 Mar 2024, 20:46

Xem tướng mạo đàn ông ngoại tình, lăng nhăng by Trà Mi Tue 26 Mar 2024, 12:32

Giọng hát "Cọp nhai đậu phộng" by Trà Mi Tue 26 Mar 2024, 12:29

Những Bài Giảng Hay Thầy Thích Pháp Hoà by mytutru Tue 26 Mar 2024, 07:39

Khoảnh Khắc Vui Với Đường Thi by Tam Muội Mon 25 Mar 2024, 00:30

Con Đường Tâm Mytutru TKN Đào Liên by mytutru Sun 24 Mar 2024, 23:42

Tranh Thơ Viễn Phương by Viễn Phương Sat 23 Mar 2024, 02:26

Mái Nhà Chung by mytutru Fri 22 Mar 2024, 20:26

Người Em Gái Da Vàng by Viễn Phương Fri 22 Mar 2024, 19:10

Một thoáng mây bay 12 by Ai Hoa Fri 22 Mar 2024, 07:06

TRUYỆN KIỀU CÓ TRƯỚC ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH, VÀ LÀ CỦA VIỆT NAM ??? by Trà Mi Thu 21 Mar 2024, 10:43

Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Wed 20 Mar 2024, 11:16

Chùm thơ "Có lẽ..." by Tú_Yên tv Wed 20 Mar 2024, 11:07

Lục bát by Tinh Hoa Mon 18 Mar 2024, 07:21

PHÁP VIỆN MINH ĐĂNG QUANG TĂNG NI & Đại Chúng by mytutru Mon 18 Mar 2024, 00:55

SƯ TOẠI KHANH (những bài giảng nên nghe) by mytutru Sat 16 Mar 2024, 20:15

Putin dối trá khi trả lời Tucker Carlson by Trà Mi Fri 15 Mar 2024, 11:39

Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Fri 15 Mar 2024, 11:20

7 chữ by Tinh Hoa Fri 15 Mar 2024, 03:27

BẮT CÁ TRỜI MƯA by Phương Nguyên Wed 13 Mar 2024, 20:48

5 chữ by Tinh Hoa Wed 13 Mar 2024, 07:56

Tiến Trình Tu Học Phật - Thành Phật by mytutru Mon 11 Mar 2024, 23:17

Tập Mỗi Ngày by mytutru Mon 11 Mar 2024, 22:48

Lan ĐV 8 by buixuanphuong09 Mon 11 Mar 2024, 11:06

SẦU LY BIỆT by Phương Nguyên Mon 11 Mar 2024, 08:02

Tự điển
* Tự Điển Hồ Ngọc Đức



* Tự Điển Hán Việt
Hán Việt
Thư viện nhạc phổ
Tân nhạc ♫
Nghe Nhạc
Cải lương, Hài kịch
Truyện Audio
Âm Dương Lịch
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
Đăng Nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập: 
:: Quên mật khẩu

Share | 
 

 Truyện ngắn -Nguyên Nhung

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Tác giảThông điệp
CamlySg

CamlySg

Tổng số bài gửi : 235
Registration date : 06/03/2013

Truyện ngắn -Nguyên Nhung  Empty
Bài gửiTiêu đề: Truyện ngắn -Nguyên Nhung    Truyện ngắn -Nguyên Nhung  I_icon13Sun 10 Mar 2013, 05:47

Hạt Cát

Ngôi chùa nằm trong một hẻm sâu, bao xung quanh là một khu đất vuông vức trồng nhiều cây ăn trái và hoa để cúng Phật.
Trước tiên, người ta nhìn thấy một hàng rào trồng toàn hoa mẫu đơn đủ loại, quanh năm ra hoa rất đẹp, khác biệt hẳn với những căn nhà ngói cổ của cư dân sống gần nơi đó.
Vào mùa Xuân, con đường này bỗng dưng óng ả lên vì những cây mai trồng trước sân nhà đã nở rộ, người ta thích đi đến đây vào ngày Tết, trước vãn cảnh chùa sau để tìm cho mình một sự yên tĩnh.
Chỉ cách một đoạn đường ngắn với con lộ chính đầy những xe cộ và bụi đường, ngôi chùa và xã hội ngoài kia gần như là hai thế giới khác biệt hẳn nhau.
Tôi vẫn thường đến chùa ngày mùng một Tết, dù chưa hề là một Phật tử, chưa bao giờ đọc một câu kinh Phật, và tôi đi chỉ vì thói quen của những người nhàn rỗi, đầu năm đi tìm một nơi nào đó để du xuân.
Sau khi tới chúc Tết gia đình một người bạn ở gần đấy, thấy tôi trầm trồ những cây mai vàng trước ngõ, chị liền rủ tôi đến vãn cảnh chùa, vì sân chùa có nhiều loại mai quý, vào mùa Xuân hoa nở rộ lên như một tấm lụa vàng trải dưới nắng mai.
Sau khi theo chị bạn vào lễ Phật trong chánh điện, chúng tôi rủ nhau ra xem những hoa kiểng trồng rải rác trong mảnh sân sau, có một vài phụ nữ mặc áo màu lam đang loay hoay rửa rau bên bờ giếng.
Đó là những người quanh năm tới chùa làm công quả, họ đang sửa soạn cho bữa cơm cúng Ngọ ngày mùng một Tết.

Khi tới con đường gần bên bờ giếng, tôi chợt đứng lại để nhìn theo một người phụ nữ mặc chiếc áo màu lam, mái tóc được cuốn lại bằng một chiếc kẹp tóc, để lộ ra chiếc cổ xinh xẻo, vì cô đang cúi xuống để ra sức kéo chiếc thùng đầy nước từ giếng lên, đổ vào một chiếc chậu lớn để rửa rau.
Hình như cô chưa quen với công việc nặng nhọc này, dáng dấp của người phụ nữ chứng tỏ cô không quen làm những công việc tay chân nặng nhọc. Chị bạn thì thầm vào tai tôi:
"Mình sẽ giới thiệu với chị một nhân vật đặc biệt của ngôi chùa này, cái người đang kéo nước bên bờ giếng đó. Chị Trinh trước từng là giáo sư dạy Việt văn trường Phổ thông cấp Ba thành phố . . . "
Tôi yên lặng đứng ngắm nhìn tấm lưng thon thả trong chiếc áo màu lam rộng, cô ta vẫn không dấu được nét thanh tú của một thời xuân sắc.
Vẫn chăm chỉ làm công việc của mình, mãi tới khi bạn tôi lên tiếng gọi, cô mới ngừng tay và quay lại chào hỏi.
Đôi môi xinh xắn ấy vừa thốt lên câu " Mô Phật!" là tôi đã ngỡ ngàng như được đẩy ngược trở về một khoảng thời gian nào đó, vì người phụ nữ mặc áo màu lam, chính là cô bạn học cùng lớp với tôi ngày xưa.

Chúng tôi nhận ra nhau rất nhanh, dù thời gian qua đi có đến gần mười lăm năm, thuở chúng tôi mới mười sáu mười bảy tuổi. Nụ cười ấy, ánh mắt ấy, khuôn mặt ấy vẫn sáng ngời như hình ảnh bạn tôi những năm còn đi học.
Tôi làm sao quên được hình ảnh Trinh những ngày còn học chung với nhau một lớp, bởi vì ngoài khuôn mặt sáng sủa và nụ cười tươi,
Trinh còn là một cô học trò con nhà giàu, học giỏi. Buổi Tất niên năm ấy, bạn tôi là trưởng ban Văn nghệ, tính tình vui vẻ, có năng khiếu âm nhạc nên cũng nhờ Trinh mà cả lớp được một buổi liên hoan đặc biệt hơn những năm khác.
Gia đình Trinh rất khá giả, được hấp thụ nền văn minh phương Tây cho nên tính cô bạn tôi vì thế mà rất hồn nhiên, có lẽ điều kiện sống của Trinh khá sung túc, cho nên Trinh đâu có những nỗi lo lắng hay suy nghĩ như những đứa học trò con nhà nghèo.
Đám con trai chỉ nơm nớp sợ thi hỏng phải đi lính ra chiến trường, con gái thì mong học hành đỗ đạt rồi tìm việc làm giúp đỡ gia đình.
Chính vì thế mà lúc gặp lại Trinh trong lớp áo màu lam nhạt bên bờ giếng, nhẫn nại kéo từng thùng nước đầy để rửa rau, tôi vẫn cứ thắc mắc hoài về cô bạn cũ.
Trinh vui vẻ giao công việc lại cho một người khác, rồi dẫn tôi và chị bạn đi thăm vườn rau của chùa ở phía sau, bây giờ đang mùa cải xanh và rau tần ô, có những con bướm lượn lờ trên luống hoa thơm.
Hai đứa tôi nhìn nhau cười, nhắc lại những khuôn mặt bạn bè năm xưa, hoàn cảnh sống của mỗi người trong hiện tại, có thể Trinh đang cố nhớ lại những kỷ niệm mùa Xuân thuở còn đi học, còn tôi thì vẫn băn khoăn về sự thay đổi của bạn, từ hình ảnh một cô thiếu nữ đợt sóng mới năm xưa, tới hình ảnh người tu nữ bây giờ.

Chị bạn tôi bận việc phải về trước, buổi đầu xuân năm ấy chỉ còn tôi với Trinh ngồi bên nhau nơi chiếc tràng kỷ đặt bên hiên chùa ở sân trước.

Mắt vẫn nhìn ra khoảng sân ngập đầy nắng sớm trên những cành mai vàng óng ả, Trinh kể cho tôi nghe những truyện xảy ra cho bạn tôi từ khi cô từ giã mái trường, bước chân vào cuộc đời đầy thăng trầm, đau khổ.
"Tôi rời Cần Thơ vào những năm cuối của thời kỳ Trung học, vì gia đình có cơ sở làm ăn ở Sài Gòn.

Tuy vậy, tôi vẫn không quên được không khí vui nhộn, thân thương của mái trường tỉnh lỵ, vì sau nhiều năm học, tôi có rất nhiều bạn bè, và có biết bao nhiêu kỷ niệm vui buồn nơi mái trường ấy.
Tôi vẫn còn giữ cuốn Lưu Bút Ngày Xanh của các bạn cùng lớp. với nhiều tấm hình chụp chung ở sân trường.Tôi nhớ từng con đường hằng ngày mình đi học, hàng phượng đỏ nơi công viên mỗi chiều hè, bến sông, con đò nhỏ đưa đón người từ bờ bên này sang bên kia sông mỗi buổi chợ.
Sau khi học hết bậc Trung học, tôi theo học Sư phạm bốn năm ở trường Đại Học Sài Gòn, khi ra trường tôi trở thành một giáo sư đệ nhị cấp.
Thời gian ấy chỉ vỏn vẹn được ba năm, sau đó người ta gọi là giáo viên cấp Ba. Tôi may mắn được dạy trong một trường Trung học ở thành phố, cho nên đời sống cũng khá dễ chịu.
Tôi lập gia đình năm 25 tuổi, với một người lính ở một đơn vị xa thành phố. Anh ấy là người bạn cùng thời sinh viên với tôi, sau đó bị động viên đi sĩ quan Thủ Đức, và đến ngày tan hàng thì anh ấy cũng phải đi tù như bao nhiêu người lính khác.
Mối tình của tụi này có lẽ là mối tình đầu tiên trong đời tôi.
Chắc bạn ngạc nhiên lắm phải không? Nhưng sự thật là vậy, bởi vì tụi này quen nhau ngay từ lúc cả hai còn thích đi hát với nhau trong nhóm sinh viên của Trường Đại học, mối tình nghệ sĩ cứ nảy nở thêm khi hai đứa cùng có những sở thích giống nhau.
Bạn nhớ không?
Hồi còn Trung học, tôi đã từng tổ chức những buổi dạ vũ nhảy nhót với bạn bè, tụi mình vẫn ca những bản nhạc Pháp thịnh hành hồi ấy, và BB là cô đào Pháp mà tụi mình rất ái mộ .
Thời ấy tụi mình trẻ trung và yêu đời biết bao, đời chả bao giờ biết buồn cả. Thế mà, không ai đoán trước được những gì sẽ xảy tới ở tương lai phải không bạn?
Bạn hỏi về ba má tôi ư? Hồi ấy, hãng buôn của ba tôi là một trong những hãng nổi tiếng ở Sài Gòn, thế nhưng sau này chính ba má tôi lại khổ vì những của cải do ông bà tạo nên.
Mất hết rồi, đâu có ai giàu mà còn đứng được trong thời buổi đó, ba má tôi về quê hồi hương theo người con trai lớn, được ít lâu má tôi bịnh hoài nên đi trước, ba tôi cũng buồn rồi theo sau, anh chị tôi tạm thời buôn bán nhỏ sống qua ngày, cho tới khi chồng tôi đi tù về, họ rủ nhau tính chuyện vượt biển.
Chuyến tàu ấy chỉ cho những người đàn ông đi trước, mà lúc đó cũng đâu có tiền để đi hết một gia đình, cho nên, đó là lý do tại sao anh tôi và chồng tôi cùng chết một lượt ngoài biển khơi.
Sau này thì tôi cho là cái nghiệp của mỗi người phải chịu, nhưng hồi ấy chưa bao giờ tôi lại cảm thấy mình bị mất mát khổ đau như vậy.

Mất một người anh ruột thịt, mất luôn cả người bạn đầu gối tay ấp, tôi thấy mình bơ vơ giữa giòng đời đầy nghiệt ngã, và không làm sao quên được những ngày hạnh phúc cũng như khổ đau trong tình anh em, chồng vợ. May là tụi này chưa có con, vì vừa lấy nhau xong được ít lâu thì anh ấy đi tù, và khi anh ấy về tụi này không dám nghĩ tới chuyện có một đứa con vào lúc ấy.
Bởi vì anh ấy chỉ nghĩ đến chuyện ra đi, tìm một tương lai tốt đẹp rồi mới nghĩ tới chuyện có những đứa con.
Tôi không biết bây giờ bạn có mấy đứa con rồi, nhưng tôi làm nhà giáo, hằng ngày tiếp xúc với học trò và phụ huynh học sinh, tôi hiểu nỗi khổ của nhiều bậc cha mẹ, hình như họ cứ càng ngày càng tuyệt vọng đi vì không lo nổi cho con đầy đủ cơm ăn áo mặc.
Khi được báo tin chuyến tàu của anh tôi và chồng tôi đi bị mất tích trên biển Đông, vì trông chờ mãi mà không có tin về. Người ta cho biết cơn bão tháng mười hai năm ấy đến bất ngờ quá, hầu như tất cả những chuyến ra khơi vào mùa bão ấy đều không có chiếc nào tới được bến bờ bên kia, chiếc nào may thì quay ngược trở về, nhưng cũng lâm vào cảnh tù tội.
Giá anh ấy đừng chết, có phải tù tội thì tôi cũng còn hy vọng găp lại anh ấy, nhưng phần số con người có lẽ trời chỉ cho có bấy nhiêu, thành ra lần ra đi ấy ai ngờ lại là lần biền biệt cõi thiên thu.
Có lẽ bạn cũng hiểu cái đau khổ của tôi, vì ít nhiều gì chúng ta cũng có những nỗi khổ gần gần giống nhau.

Tôi không còn tâm trí đâu để tiếp tục dạy học, vì ngồi đâu tôi cũng nhìn thấy anh ấy, nhất là những kỷ niệm quá mới mẻ của một đôi vợ chồng trẻ, những buổi tối nằm bên nhau, anh ấy vẫn thủ thỉ bàn với tôi nhiều chuyện ở tương lai.
Anh ấy cho rằng phải chấp nhận lấy điều may rủi như số mệnh của Trời đã đặt để cho mỗi con người, và sự ra đi của anh ấy chưa biết như thế nào, nhưng ít ra cũng đốt lên được một ngọn đèn
Bốn năm tôi xa anh trong thời gian tù tội, nhưng vẫn có hy vọng anh ấy trở về, còn lần vượt biển ấy tôi cứ linh cảm như là lần cuối cùng chúng tôi sẽ không bao giờ nhìn thấy nhau nữa. Hình như giác quan thứ sáu của tôi khá nhạy bén, bởi vậy khi anh ấy sắp đi, nhiều lần tôi cứ muốn cản anh ấy đừng đi nữa, nhưng bạn có tin rằng, cái gì đến nó sẽ đến, không ai cưỡng chống được cái giờ của định mệnh.
Sau đó, tôi và người chị dâu thường tới ngôi chùa này, đó là một ngôi nhà thì đúng hơn, của một người chị họ không lập gia đình, có căn tu, đã sống nhiều năm ở đây với một nhóm cùng chí hướng, rồi dần dần căn nhà biến thành một ngôi chùa nhỏ, chuyên làm việc phước thiện, bốc mạch và hốt thuốc cho dân nghèo.

Thời gian đầu sau ngày anh ấy chết, tôi tìm tới đây để cầu nguyện cho hương linh anh tôi và anh ấy được siêu thoát, vì trong lòng tôi lúc ấy, lúc nào cũng chỉ nhìn thấy linh hồn họ ướt át, lạnh lẽo dưới đáy biển sâu.
Tôi chỉ nhìn linh hồn anh ấy qua lăng kính một người trần tục, vì thế tôi thương xót và đớn đau khi mỗi lần nghĩ về anh ấy , là tôi trông thấy hiển hiện một khuôn mặt, một đôi mắt, những giây phút hoảng hốt và chống chỏi tuyệt vọng với cái chết.

Thành ra khi tôi tưởng rằng mình cầu cho anh ấy được siêu thoát, thì chính tư tưởng tôi lại nhận chìm linh hồn anh ấy xuống đáy biển sâu, vì tôi nghĩ như thế nào nó sẽ ra như vậy. Phải mất nhiều tháng ngày tâm hồn tôi vẫn cứ đi vào con ngõ âm u của tuyệt vọng.
Tôi nghe tiếng chuông chùa mà lòng lại nặng nề những âm thanh gào thét của sóng biển, những tiếng kinh chỉ có nghĩa là những lời than van của bao linh hồn bất hạnh đang đòi lại mạng sống của họ, vì bị chết một cách tức tưởi giữa lúc còn đang mang trong lòng bao niềm hy vọng. . .
Làm sao nói hết bạn nhỉ nỗi đau xót ấy, nếu không có ngày tôi nhìn ra được chân lý về thân phận của những hạt cát trên bãi biển.
Có ngàn ngàn hạt cát nằm trên bờ biển, có hạt theo cơn sóng đẩy vào bờ để làm bạn với những hạt cát khác, rồi hôm nào hạt cát ấy lại được đẩy ra biển khơi , hay theo gió cuốn tới một nơi nào đó.
Tôi nghĩ lại thời gian tôi và anh ấy sống bên nhau, thì có khác gì sự lăn lóc của hai hạt cát trong muôn vàn hạt cát, do cơ duyên hay định mệnh mà đưa đẩy đến với nhau.
Bây giờ anh ấy ra đi, thì chỉ là một sự thay đổi chỗ ở của một hạt cát. Có khi chính tôi bi thảm quá nhiều cho cuộc đời của anh ấy, mà không hiểu hết ý nghĩa của sự giải thoát.
Từ đấy, mỗi khi buồn tôi hay nghĩ tới hạt cát.
Hạt cát óng ánh ngoài biển khơi, hạt cát nằm trong khuôn viên trường đại học với những tiếng chim hót, hạt cát đi theo gót chân người thiếu nữ rong chơi trên hè phố chiều thứ bảy, hay hạt cát trên sa mạc nắng cháy, thì có phải là mỗi hạt cát đã có chỗ để tới?
Sao tôi không chịu nhìn hạt cát với cái nhìn lạc quan như thế, để thấy dù ở nơi nào, bên này hay bên kia, thế giới loài người hay cõi của tiên phật, thì có phải chăng mỗi con người vẫn chỉ là hạt cát, nó cứ đến cứ đi, cứ hòa nhập vào cuộc đời chung quanh nó.
Dần dần thì tôi nhìn thấy linh hồn anh ấy bay vút lên, theo cái nhìn đổi khác trong tâm hồn tôi, như người ta thường nói khi mình nhìn ai với cái nhìn đẹp, thì mình sẽ thấy được cái đẹp của họ, mà hễ với cái nhìn nghi ngại, thì chính là mình đã áp đặt cho người ta điều xấu.
Đúng không bạn nhỉ?
Cái này lại dẫn đưa tôi đến một phiến diện khác của tư tưởng, và tôi cho là con người vốn sướng hay khổ là do chính tư tưởng của mình dẫn lối đưa đường.
Bây giờ mỗi khi nghĩ về anh ấy, tôi chỉ nhìn thấy linh hồn anh ấy thênh thang trên một con đường mà tôi chưa làm sao đạt tới, vậy tại sao tôi không làm điều gì để dù hai đứa hai ngả, tôi vẫn có thể đồng hành với anh ấy một nẻo đường hở bạn?
Điều suy nghĩ này khiến lòng tôi lâng lâng nhẹ nhõm, đôi khi tôi thấy mình là một giòng sông, lượn lờ quanh những ruộng đồng thơm phức mùi lúa chín.
Đôi khi tôi thấy tâm hồn mình là một vùng thảo nguyên bát ngát, đi mãi vẫn chưa tới chân trời.
Lắm khi tôi thấy mình bay lên đỉnh núi, hòa nhập vào với cái tĩnh lặng của thiên nhiên. Hay là tiếng sóng biển rì rào vỗ vào ghềnh đá, như là không lại nhập vào không để đi về một chốn không có gì hết.
Kỳ lạ lắm, tôi không tả nổi được điều này vì tôi vẫn còn mang thân xác của một con người phàm tục, vẫn phải ăn khi đói, uống khi khát, và vẫn ốm đau bệnh tật. . .
Đó là một trong những trạng thái biến chuyển của tâm hồn tôi cần kể bạn nghe, còn thì giờ đây tôi có nhiều việc để làm lắm.
Trước tiên, bạn sẽ ngạc nhiên nếu hôm nào tới đây, bạn sẽ nhìn thấy tôi chăm chú ngồi bắt mạch cho một người bịnh để bốc thuốc cho họ.
Khi tôi cầm tay họ, và nhìn thấy sự tin tưởng của họ đến với tôi, tôi cảm thấy ngay được sự chia xẻ niềm vui và nỗi khổ cho nhau, vì thế mà tôi thấy khi mình cứu người lại chính là mình đang cứu mình, từ nỗi khổ của người mình nhìn ra nỗi khổ của mình, và có lẽ vì vậy mà tôi tìm được tôi trong những giao tiếp đó với tha nhân.
Bây giờ lắm khi tôi ngồi yên nghe tiếng gió thổi lướt qua rặng chuối sau hè, tôi lại mỉm cười cảm ơn anh ấy. Có mâu thuẫn lắm không hở bạn?
Nhưng chính sự ra đi vĩnh viễn của anh ấy đã khoác cho tâm hồn tôi một chiếc áo mới, tốt đẹp hơn, lành lặn hơn, dù bạn nhìn tôi bây giờ, chắc chỉ thấy chiếc áo màu lam ảm đạm, phải không bạn?"
Mùng một Tết năm đó , tôi ở lại chùa với cô bạn cũ trọn vẹn một ngày đầu năm.

Bữa cơm trưa thanh đạm của chùa chỉ có rau đậu, măng khô và nấm tươi, nhưng tôi có cảm tưởng chưa bao giờ ăn bữa cơm nào ngon hơn thế.
Buổi trưa, Trinh theo các bạn đồng tu vào tụng kinh cầu an và cầu siêu giờ cúng Ngọ, tôi cứ ngồi đằng sau mà nghĩ hoài tới những hạt cát bạn tôi vừa kể cho nghe.
Tôi nhìn dáng ngồi ẩn nhẫn của bạn tôi trong màu áo lam, rồi bất chợt nhìn ra khoảng sân đầy bóng mát, tôi thấy những cánh mai đã rụng đầy trên mặt đất như một tấm thảm màu vàng tuyệt đẹp.
Hoa mai nở trên cành, hay những cánh hoa tả tơi trên nền đất, ở mỗi chỗ vẫn mang cái đẹp riêng của nó, hay là lúc ấy tâm hồn tôi đã có chút đổi khác, khi nghe xong câu chuyện của bạn tôi vào một sáng đầu Xuân.

Nguyên Nhung
Về Đầu Trang Go down
CamlySg

CamlySg

Tổng số bài gửi : 235
Registration date : 06/03/2013

Truyện ngắn -Nguyên Nhung  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Truyện ngắn -Nguyên Nhung    Truyện ngắn -Nguyên Nhung  I_icon13Sun 10 Mar 2013, 05:53

Như Chim Nhớ Rừng, Như Cây Nhớ Cội

Chị Đào gốc người Trà Vinh, một tỉnh nhỏ êm đềm và cổ kính, ảnh hưởng nền văn hóa Khờ Me nên có rất nhiều ngôi chùa Miên mái cong vút, và những vị sư áo vàng trẻ tuổi
. Nhà chị có vườn tược, ở bên kia cầu Long Bình, đường đi ra Đầu Bờ có những thửa ruộng mênh mông, bát ngát xải những cánh cò bay.
Chị là vợ một người lính, theo anh rời Trà Vinh về quê chồng ở Vũng Liêm, nơi có món nem chua nổi tiếng
. Sau khi chồng tử trận, chị tìm được một việc làm cho cơ quan dân sự Mỹ .Tuy chỉ là chân lau chùi, dọn dẹp văn phòng nhưng đến cuối tháng Tư năm 75, chị cũng hối hả chạy theo đám nhân viên sở Mỹ vào được sân bay Tân Sơn Nhứt, nhét lên chiếc C 130 như cá hộp, đi một lèo qua đảo Guam.
Lúc chiếc phi cơ như con cá mập bay vút lên trời , để lại quê hương một vùng lửa đạn, chị Đào ngó quanh không thấy ai cười, chỉ là những đôi mắt hoe đỏ và những tiếng khóc rấm rứt vì không biết chừng nào mới quay về quê cha đất tổ.
Sau nhiều thủ tục giấy tờ, mẹ con chị gồm bà mẹ ba mươi mấy tuổi với ba đứa con dại, được dời đảo vào đất liền, sống thêm một thời gian nữa trong một trại tỵ nạn ở vùng California, dưới những lều bạt mà mỗi đêm nghe tiếng gió thổi phần phật bên ngoài, chị Đào lại bật lên khóc rưng rức.

Mấy đứa con còn bé dại, đứa con gái lớn năm ấy mới chín tuổi, còn hai đứa bé, một gái một trai, đứa lên bảy và đứa lên sáu.
Chúng nó còn nhỏ dại, ăn chưa no lo chưa tới, nên không làm sao nghĩ nổi được nỗi buồn của mẹ chúng.
Ngày ngày mẹ con xếp hàng rồng rắn đi lấy thức ăn, ngó quê người lại nhớ tới quê mình xa lăng lắc ở bên kia, cha mẹ anh em ở đó không biết ra sao sau cuộc đổi đời,
Chị Đào không làm sao nuốt nổi chén cơm nấu nhão như cháo, ăn với thịt hộp của Mỹ.
Chồng chị đi lính đã chết trận bốn năm rồi, từ lúc thằng con út mới hai tuổi. Số tiền tử tuất của chồng để lại quá ít ỏi, chỉ xoay quanh cái đám ma đã thấy hết phân nửa.
Bởi vậy chị đành gửi con cho mẹ chồng lo, rồi tìm việc làm nuôi lũ con thơHồi chồng chị còn sống, chị Đào cũng mấy khi được gần gũi anh , vì đơn vị hành quân liên miên, toàn những nơi đèo heo hút gió.
Thỉnh thoảng anh về phép, vợ chồng đầm ấm, vui vẻ được mấy ngày, anh lại ra đi để chị cứ thắc thỏm trông chờ lần về phép tới.
Kỳ phép cuối cùng anh về thăm vợ con, ai biết được rằng lại là lần cuối cùng vợ chồng, cha con được gần gũi nhau.
Người ta nói rằng kẻ sắp chết thường hay có nhiều điềm gở.
Mãi tới khi anh ấy chết đi chị Đào mới nhớ rõ nét mặt buồn đăm đắm của anh khi ôm đứa con út vào lòng, hai con mắt anh lờ đờ như say thuốc, nhìn vào một nơi nào đó mà sau này chị cho là anh đã linh cảm thấy bóng dáng tử thần.
Nếu đôi mắt là cửa sổ của linh hồn, thì đôi mắt anh ngày hôm ấy đúng là biểu hiện cho sự buồn thảm và ly biệt.

Mấy ngày phép anh đưa vợ con đi chơi đây đó, thăm họ hàng, bè bạn, dẫn con đi ăn uống thỏa thuê, làm như anh chỉ còn có chút thời gian ngắn ngủi đó thôi để bước hẳn qua thế giới bên kia.
Bởi vậy khi mẹ con đã an ổn trên xứ người, lòng chị vẫn lấn quấn mãi ngôi mộ của chồng còn nằm trong nghĩa trang Quân Đội.
Mẹ con chị Đào ở trong trại tỵ nạn ít lâu thì được một người Mỹ già tốt bụng, trong Hội từ thiện của nhà thờ, đón về một thị trấn nhỏ thuộc tiểu bang New Hampshire, vùng Đông Bắc Hoa Kỳ
Ở đây, lần đầu tiên mẹ con chị được thấy những rừng thông bạt ngàn , núi non trùng trùng điệp điệp, chiếc quạt gió trên nóc những mái nhà kho chứa cỏ khô cho gia súc, vào mùa Đông tuyết phủ trắng những con đường quanh co dọc theo thung lũng đầy gió hú.
Thị trấn nhỏ, đồi núi mênh mông, nhà cửa thưa thớt, nối tiếp nhau chỉ là những cánh rừng và đồi cỏ chập chùng, nóc chuông nhà thờ với cây thánh giá cao lêu nghêu trên vòm trời đầy mây trắng.
Chị Đào suốt ngày ủ ê ngó cảnh mùa Đông quê người, tìm mỏi mắt không thấy một bóng người đi qua đi lại.
Mấy đứa nhỏ chưa hiểu bao nhiêu, riêng chị khóc hoài khóc hủy, đôi mắt lúc nào cũng mòng mọng những giọt nước mắt chỉ chực rơi xuống khi có ai hỏi han tới.
Sao lúc ấy chị nhớ nhà quá đỗi.
Ăn những miếng bánh mì khô khan với thịt nguội, chị bắt nhớ tộ cá kho tiêu ở quê nhà, nhớ mùi khô nướng, nhớ tộ canh chua, nhớ mắm kho cà tím với đầy một rổ rau tươi , những món tầm thường ấy sao bây giờ nó quý hơn cao lương mỹ vị.
Quê hương giờ đây đối với chị đã ngàn trùng xa cách, chị nghĩ mãi vẫn không hình dung ra được con đường nào để trở về, bởi vì ngồi trên máy bay chị chỉ nhìn thấy toàn mây trắng và mây trắng. . . .

Mấy đứa nhỏ được tới trường để đi học, buổi sáng đã có xe "school-bus" đến đón tận nhà.
Chỉ ít lâu sau cả ba đứa bắt đầu xí xô xí xào nói tiếng Anh với nhau, chúng nó gọi chị bằng
" Mom" thay cho tiếng " Má ơi!" quen thuộc .
Thời gian qua mau, con chị gần như không xử dụng tiếng Việt nữa, cả cái thị trấn đìu hiu này chắc chỉ có mình gia đình chị là người Việt.

Rồi từ đấy chị ít có thì giờ gần gũi con, mỗi lần nói với con những câu nói thân quen ở quê nhà, chúng thường giương mắt ra nhìn mẹ. Không có người đồng hương ở đây, tiếng Việt bỗng nhiên hiếm hoi từ đấy, chị Đào thường ao ước có lúc nào gặp được một người Việt Nam, nói cho thỏa hết những tâm sự đầy ắp trong lòng chị.
Gặp một người có khuôn mặt Á Đông, chị mừng hết lớn, nhưng khi bập bẹ được vài câu tiếng Anh để hỏi nhau, người kia lắc đầu quầy quậy, chị lại thất vọng đến não nề khi không có ai nói lại cho chị nghe thứ tiếng nói quê mùa , giản dị của quê hương.
Chị Đào phải tập làm quen với đời sống của nước Mỹ. Chị tới cơ quan từ thiện, vừa học nghề vừa học chữ, buổi chiều chị đến phụ dọn dẹp cho một cửa hàng tạp hóa nằm ven con đường xe cộ xuyên bang đi lại tối ngày, chị chỉ mong gặp một người Việt, để hỏi thăm về quê hương xứ sở.
Có lần chị gặp một người đàn ông Việt Nam lái xe đi qua chốn khỉ ho cò gáy này, dừng lại mua mấy thứ lặt vặt, chị mừng quá gần như muốn khóc, nhưng người đàn ông không ân cần lắm với chị.
Hình như ông ta không tha thiết lắm với một người phụ nữ Việt Nam, mà nét quê mùa hình như vẫn còn đọng lại trong dáng vẻ cũng như tiếng nói.
Nào ai biết được cái mơ ước giản dị trong lòng chị, chỉ là được gặp gỡ hàn huyên với một người cùng xứ sở, được nói lại ngôn ngữ mẹ đẻ dù chỉ bằng một câu rất giản dị như " Trời đất quỷ thần thiên địa ơi!"
Sau mười năm ở bên Mỹ, chị Đào đã tương đối hòa nhập được với phong tục và cách sống của người Hoa Kỳ.
Chị đã biết lái xe để đưa con đi học, đi nhà thờ và thỉnh thoảng đi thăm mấy vùng lân cận.

Mùa Lễ Tạ Ơn hay Giáng Sinh, chị và các con đến nhà những người Mỹ trong vùng để dự lễ Tạ Ơn và ăn gà Tây với họ.
Ăn gì thì ăn, uống gì thì uống, chị Đào vẫn thấy không có món " soup" nào ngon bằng món hủ tíu Trà Vinh, bánh nào ngon bằng thứ bánh tét thơm lá dứa của miền quê chị.
Mỗi lần bước qua đầu Xuân, nhớ không khí Tết ở quê nhà, trong chị lại dằn vặt một nỗi nhớ mung lung.
Khi chỉ còn một mình ngồi trong nhà, ngó ra rặng thông xanh ngắt chập chùng lượn theo những đồi núi nối tiếp nhau, chị vẫn thường hay thổn thức khóc một mình.

Mẹ con chị quanh quẩn trong khu thị trấn nhỏ bé, chỉ loanh quanh mấy tiệm tạp hóa, cây xăng, khu chợ nhỏ và đi tới nhà thờ mỗi ngày chủ nhật là hết đất.
Qua sinh hoạt ở nhà thờ, chị được giới thiệu với một người Mỹ góa vợ đã trọng tuổi.
Đời sống ông này cũng ảm đạm như mùa Đông miền Bắc, loanh quanh luẩn quẩn với cuốn Kinh Thánh và mấy Hội Từ Thiện
Sáng chủ nhật cả nhà ăn mặc đẹp đẽ đi nhà thờ, sau đó kéo nhau tới một tiệm ăn của người Trung Hoa ở một thành phố kế bên, nhưng những món ăn của họ vẫn không mang lại cho chị mùi vị của những món ăn của quê hương.
Có lần, mẹ con chị được ông chồng Mỹ đưa qua Canada thăm xứ sở của rừng phong vào một mùa thu.

Phong cảnh thật đẹp với những rừng phong đầy lá vàng lá đỏ, thành phố cổ kính có ngôi nhà thờ bằng đá xám, còn vùng thôn quê của họ thì bằng phẳng như miền đồng bằng Cửu Long quê chị, nhưng chỉ nhiều hồ mà không thấy được giòng sông uốn khúc quanh những vườn cây ăn trái.
Mãi tới hôm ông chồng Mỹ đưa mẹ con chị xuống khu China-Town ở Boston, chị mới có dịp tìm lại được những thực phẩm Việt Nam mà lâu rồi chị không thấy.
Chuyến về chị mua đủ thứ, gần hết số tiền lương trong tháng của chị
. Nước mắm, nước tương, bún tàu, tôm khô, bánh tráng, hủ tíu .
. . Còn một món chị không quên, đó là mấy bao gạo thơm Thái Lan, hàng thùng bún khô, măng khô để chị ăn dần trong nhiều tháng.
Lão chồng Mỹ thấy chị ướp mấy khúc cá tươi với chút nước mắm nước màu, rồi kho riu riu trên bếp ngoài garage, ngó chị hít hà với vẻ mặt sung sướng, ông ta đã phải lái xe bỏ đi chơi loanh quanh một lát vì không chịu nổi cái mùi quái dị ấy.
Chị nấu một nồi cơm gạo tám, ăn với rau luộc và cá kho khô suốt một tuần lễ mà chưa đã thèm.
Chỉ hiềm một nỗi cả nhà không có ai ăn với chị những bữa cơm đầy hương vị quê hương ấy, chị vẫn thấy đời như thiếu vắng điều gì.
Hóa ra chị thèm tiếng cười tiếng nói mang không khí quê mình, trong căn nhà trống trải lao xao tiếng lá mận reo trước khoảng sân nắng.
Sự thiếu vắng ấy khiến chị vẫn hay bần thần ngó trời hiu quạnh ngoài khu thung lũng mỗi khi chiều xuống, rồi lầm bầm nói một mình những câu tiếng Việt mà lâu rồi không ai nói với chị.
Mùa Đông năm đó trời rét và tuyết đóng dầy hơn mọi năm, cả thị trấn nhỏ bé này như đóng băng giữa vùng tuyết trắng
Chị Đào một hôm đi làm về, bánh xe bị trơn trợt tông vào một gốc cây ven đường.
Tuy may mắn không nguy hiểm tới tính mạng, nhưng ảnh hưởng cột sống và gãy xương chân nên từ đấy chị đi đứng không còn ngay ngắn như xưa.
Chị được chính phủ cấp dưỡng tiền tàn tật, cuộc sống vì thế càng hiu quạnh hơn, bên cạnh ông chồng già suốt ngày dạy chị học Kinh thánh , thú vui của những ngày còn lại.
Chị cố dạy cho ông chồng Mỹ vài câu tiếng Việt ngăn ngắn, nhưng khi ông nói, giọng lơ lớ khiến chị bật cười, vả lại xung quanh toàn người Mỹ, ông đâu có hứng để mà học tiếng Việt của vợ.
Mấy đứa con lớn dần lên, đứa lớn còn lõm bõm hiểu những câu tiếng Việt mẹ nói, nhưng hầu như nó không thể trao đổi được với mẹ lối tâm tình của người đàn bà Việt Nam quê mùa.
Chị cứ cô đơn với thế giới của mình, dù bên cạnh đã có lão Mỹ già hủ hỉ, và đàn con ba đứa nay đã lớn khôn.
Đứa con gái năm ấy đã học xong Trung học, nó thường hay theo bạn bè đi chơi những thành phố khác, tình cờ gặp được thằng bạn trai người Á châu, bèn dẫn về giới thiệu với gia đình.
Mới ngó thấy thằng nhỏ chị mừng hết lớn, vì khuôn mặt Ắ Đông khiến chị nghĩ ngay nó là người Việt.
Chừng hỏi tới thì mới biết thằng này là con của một chủ nhà hàng gốc Tàu Hồng Kông, ngang hông Chợ Lớn, nó cũng chỉ bập bẹ vài câu tiếng Việt rồi lại xổ tiếng Anh như gió.
Dù gì thằng Tàu này cũng có nét giống Việt Nam, chị không kỳ thị nhưng nếu hai đứa thương nhau thiệt tình, chị cũng mừng.
Hai đứa quen nhau được hai năm, lúc tính chuyện hôn nhân, chị mừng húm.

Đám cưới xong, hai đứa túi bụi trông coi cái nhà hàng Tàu của ông bố, kịp đến khi con bé có thai, chị nghĩ ngay tới chuyện ở nhà trông nom, săn sóc đứa nhỏ theo kế hoạch của chị.
Sự tính toán của chị thật là tội nghiệp. Nó chỉ đơn giản là được gần gũi một đứa trẻ con, sẽ dạy cháu nói lại thứ ngôn ngữ của quê nhà mà bao lâu nay chị thèm thuồng được nghe, được đối đáp, thứ ngôn ngữ ấy như tiếng chim sơn ca hót réo rắt trong lòng chị.
Mai đây khi đứa cháu chào đời, chị sẽ chăm sóc cháu mình bằng tâm tình một bà ngoại Việt Nam, sẽ cho cháu ăn, sẽ dạy cháu nói. Chỉ nghĩ tới lúc đứa cháu biết thỏ thẻ những tiếng gọi Bà, gọi Mẹ đầu tiên, chị đã rưng rưng nước mắt.
Nào ai hiểu nổi nỗi vui trong lòng người đàn bà Việt Nam quê mùa đó.
Con cái chị ngày một xa dần với bản sắc dân tộc, chúng nó giờ đây là người Việt hoàn toàn mang tâm hồn Mỹ, chỉ có chị nghĩ con mình là người Việt, còn chính con chị cũng nghĩ nó là người Mỹ.
Bởi thế chị Đào quyết tâm tìm cơ hội được săn sóc đứa cháu ngoại, tạo cho mình một niềm vui ấm áp khi mai này nó lớn lên, mỗi tiếng khóc tiếng cười của cháu, tiếng nói đầu tiên sẽ chỉ là tiếng Việt.
Đúng như những điều chị mong mỏi. Vì bận rộn chuyện làm ăn, đứa cháu ngoại vừa ra đời đã được cha mẹ nó gửi gấm cho bà ngoại trông nom, săn sóc.
Đó là một con bé đầy nét Á Đông, đôi mắt đen như hai hột nhãn và cái miệng nhỏ xinh xinh.
Chị thương cháu lắm, thương từ tiếng khóc tiếng cười của cháu.
Về Đầu Trang Go down
CamlySg

CamlySg

Tổng số bài gửi : 235
Registration date : 06/03/2013

Truyện ngắn -Nguyên Nhung  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Truyện ngắn -Nguyên Nhung    Truyện ngắn -Nguyên Nhung  I_icon13Sun 10 Mar 2013, 05:56

Từ đó mỗi lần cháu khóc, chị Đào lại có dịp ru cháu bằng những bài ru con dân ca Nam Bộ, trong lòng chị lại hiện ra dòng sông ở quê nhà năm xưa, nhịp cầu tre lắc lẻo đưa chị trở về những con đường quen có hàng dừa lơi lả, mảnh sân đất đầy bóng nắng dưới cây mận đỏ. Mùa thu tới, chị ru cháu bài

" Gió mùa thu mẹ ru con ngủ, năm canh chầy thức đủ cả năm", nước mắt chị cứ tuôn lả chả khi nghĩ tới những ngày còn trẻ, một mình ở nhà với mấy đứa con thơ khi anh chồng là lính chiến có mấy khi được ở nhà với vợ con.
Suốt một thời thanh xuân chị chỉ những ngóng chờ và mong đợi, thỉnh thoảng chồng chị có mấy ngày phép được về thành phố thăm vợ con, đó là những ngày hạnh phúc ngắn ngủi của vợ chồng chị.
Sau đó , chị còn lại một mình với gánh nặng chăm sóc mấy đứa con thơ, cộng thêm nỗi lo lắng cho người chồng ngoài mặt trận.
Ngắn ngủi chỉ có sáu , bảy năm làm vợ lính mà những giây phút hạnh phúc thật hiếm hoi, nhưng so sánh với ông Mỹ già trong hiện tại, chị thấy hai thứ hạnh phúc nó khác nhau một trời một vực.
Phải chăng đó là sự khác biệt giữa văn hóa Đông Tây muôn đời vẫn không thể là hai dòng sông, hòa vào nhau để cùng chảy ra biển.
Mấy vụ đó chị Đào bù trất, chỉ nghe mấy ông mấy bà nhiều chữ nghĩa nói với nhau như vậy, để bảo tồn cái gì đó mà họ gọi là Văn Hóa Dân Tộc.
Riêng chị Đào, người đàn bà quê mùa Việt Nam lạc loài nơi xứ lạ quê người, chỉ cảm thấy tâm hồn lúc nào cũng hụt hẫng và nhớ nhung những tình cảm thân thiết của một thời xa lắc.
Đứa cháu ngoại ra đời đã đem lại niềm ấm áp cho trái tim bà ngoại nó, đó là những ngày cháu bập bẹ những tiếng nói đầu đời thật dễ thương.
Trái tim chị Đào như muốn nhảy tưng ra khỏi lồng ngực khi con bé thốt ra những tiếng " bà" tiếng " mẹ" lúc nó khóc, hay khi mẹ nó đi làm về, con bé đã bất ngờ reo lên những tiếng " mẹ, mẹ" thật dễ thương.
Điều đó khiến con gái chị tuy đã lâu không nói tiếng Việt, cũng sung sướng nghe lại những tiếng nói của quê hương từ chính miệng đứa con bé bỏng của nó, hoàn toàn không ngờ được.
Khi con bé được ba tuổi, hai bà cháu đã có thể trao đổi những câu tiếng Việt ngăn ngắn
, Cháu chị đã hiểu được chút chút những câu chuyện cổ tích bằng tiếng Việt, và nó đã thỏ thẻ kể lại cho mẹ nó nghe bằng cái giọng đả đớt rất ngây thơ của một đứa bé ba, bốn tuổi.
Từ đây, đứa con gái Việt Nam vừa làm mẹ bỗng hiểu ra nỗi cô đơn trong lòng mẹ nó, nỗi thèm thuồng được nói lại thứ ngôn ngữ thân thương của quê nhà, cũng là niềm hạnh phúc nhỏ nhoi mà mẹ nó cần thiết còn hơn cơm ăn, áo mặc.

Trong căn nhà cũ kỹ ở một thị trấn nhỏ vùng Đông bắc Hoa Kỳ, muà hè ngắn hơn mùa Đông vì khí hậu lúc nào cũng lạnh lẽo,
Giờ đây đã vang lên thứ tiếng nói réo rắt đầy âm thanh trầm bổng quê nghèo miền Nam, của một người đàn bà Việt Nam quê mùa với đứa cháu ngoại bé bỏng của mình ra đời tại nước Mỹ.

Chị Đào đâu phải một người được ăn học để hiểu được sự bảo tồn văn hóa quê nhà, thế mà chỉ bằng tấm lòng tha thiết của một người Việt Nam với ngôn ngữ quê hương, chị đã làm được một việc phi thường, hơn bất cứ một nhà ngôn ngữ Việt Nam nào nổi tiếng trên đất Mỹ
Sau khi ông Mỹ già qua đời vì bịnh ung thư, chị Đào cũng làm ma chay và chôn cất ông thật chu đáo theo tâm tình của người vợ Việt Nam.
Dù chỉ gắn bó với nhau do hoàn cảnh đưa đẩy, chị Đào vẫn quan niệm rằng " một ngày là tình, hai ngày là nghĩa" như chị đã được cha mẹ ông bà dạy dỗ hồi còn trẻ.
Điều đó khiến những người Mỹ trong vùng cảm động, họ không dám coi thường người đàn bà Việt Nam nhỏ bé và quê mùa này, bởi lối hành xử của chị đã nói lên tư cách một con người có tấm lòng chân thật, ăn ở có trước có sau.

Nếu đem chị Đào so sánh với những người đàn bà Việt Nam tài giỏi, học cao hiểu rộng khác, chưa chắc những tấm bằng của họ đã có giá trị bằng tâm hồn người phụ nữ Việt Nam bình dị này.

Chị Đào không hiểu nhiều về những thứ lắt léo của cuộc đời và sách vở, nhưng suốt đời chị chỉ đơn sơ sống theo cái đạo làm người, nhờ thế mà qua những sóng gió cuộc đời, chị lúc nào cũng " thân tâm an lạc".
Hai đứa con nhỏ lớn lên, học giỏi, đươc học bổng của trường Đại Học tại Boston, chúng nó đã rời mẹ từ lâu.
Vợ chồng đứa con gái lớn cũng chán nơi khỉ ho cò gáy này, bàn với chị bán nhà đưa nhau về tiểu bang Massachusetts, nơi có nhiều người Tàu của nước nó và người Việt của nước chị.
Thế là cả nhà dời New Hampshire, thị trấn nhỏ với những đồi núi cỏ mượt và thông reo, về mùa Đông tuyết phủ trắng xóa trên các đồi thông và những mái nhà mốc thếch màu xám nhạt.
Hôm gia đình chị Đào dời đi, những gia đình người Mỹ quen biết ở nhà thờ đều tới ăn bữa cơm Việt Nam thật ngon, và vài món ăn Tàu do thằng rể chị nấu nướngậy mà thôi, hễ đem tình cảm chân thành mà đối đãi với nhau thì cũng sẽ được đền đáp lại như vậy.
Chị Đào vẫn theo lối Việt Nam, gửi gấm ngôi mộ ông chồng Mỹ già cho bạn bè của ông chăm sóc, khiến họ lại càng cảm động.
Đời chị tuy không may mắn về đường hôn nhân, nhưng chị Đào quả là một con người rất đáng khâm phục, vì mộ của ba mấy nhỏ chôn trong nghĩa trang Quân Đội ở quê nhà, chị cũng đã gửi tiền về để người nhà lo bốc mộ đem về quê, xây mồ mả tử tế đẹp đẽ.
Bây giờ đứa cháu ngoại đầu đã lớn bộn, nó đang học trường Middle-School, mẹ nó đẻ thêm hai đứa em nữa.
Chị Đào nay đã lớn tuổi, vẫn ở nhà trông cháu, vẫn tiếp tục kế hoạch của một bà ngoại Việt Nam, dạy cho mấy đứa nhỏ ăn cơm Việt, nói tiếng Việt.
Mỗi buổi chiều con lớn đi học về, nó vẫn không quên chào bà ngoại bằng những câu tiếng Việt quen thuộc, vẫn đòi ăn hủ tíu do bà ngoại nấu, vẫn ăn mì xào Quảng Đông với nước tương theo lối của ba nó.

Mấy chị em chơi với nhau, nói với nhau bằng tiếng Anh pha tiếng Việt, thậm chí khi cãi nhau ồn ào vẫn bị bà ngoại nó rầy rà bằng tiếng Việt, y như mấy đứa nhỏ ở Việt Nam.
Thằng rể quan niệm thực tế theo lối của người Trung Hoa, thích thương mại, đối với nó lũ nhỏ biết được nhiều thứ tiếng càng tốt.
Tiếng Anh, tiếng Việt, tiếng Hoa, tiếng gì cũng là tiếng, tiếng nào cũng chỉ làm cho con người gần gũi nhau mà thôi, và nhất là để cơ sở làm ăn của nó ngày càng phát đạt.

Nguyên Nhung.
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content




Truyện ngắn -Nguyên Nhung  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Truyện ngắn -Nguyên Nhung    Truyện ngắn -Nguyên Nhung  I_icon13

Về Đầu Trang Go down
 
Truyện ngắn -Nguyên Nhung
Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Similar topics
-
» Truyện Kiều - Nguyễn Du
» Tỳ bà truyện - Nguyễn Bính
» Lĩnh Nam Chích Quái
» Truyện cười Nguyễn Ngọc Ngạn
» Truyện ma nguyễn ngọc ngạn - Bùa yêu
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
daovien.net :: VƯỜN VĂN :: Truyện Sưu tầm :: Truyện ngắn-