Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesVietUniĐăng kýĐăng Nhập
Bài viết mới
Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 20:54

Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Yesterday at 00:28

Mức thù lao không ai dám nghĩ đến by Trà Mi Wed 17 Apr 2024, 11:28

Nhận dạng phụ nữ giàu có by Phương Nguyên Wed 17 Apr 2024, 11:17

KHÔNG ĐỀ by Phương Nguyên Wed 17 Apr 2024, 11:00

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN by Trà Mi Wed 17 Apr 2024, 09:02

Mái Nhà Chung by mytutru Tue 16 Apr 2024, 12:01

Cách xem tướng mạo phụ nữ ngoại tình, không chung thủy by mytutru Tue 16 Apr 2024, 11:59

Ở NHÀ MỘT MÌNH by Phương Nguyên Tue 16 Apr 2024, 09:59

Quán Tạp Kỹ - Đồng Bằng Nam Bộ by Trà Mi Tue 16 Apr 2024, 09:39

HÁ MIỆNG CHỜ SUNG by Phương Nguyên Sun 14 Apr 2024, 13:29

Trang thơ vui Phạm Bá Chiểu by phambachieu Fri 12 Apr 2024, 15:48

Những Đoá Từ Tâm by Việt Đường Fri 12 Apr 2024, 15:32

Chết rồi! by Phương Nguyên Fri 12 Apr 2024, 13:57

ĐÔI BÀN TAY NGHỆ NHÂN by mytutru Thu 11 Apr 2024, 17:43

LỀU THƠ NHẠC by Thiên Hùng Thu 11 Apr 2024, 02:15

THẬN TRỌNG SIÊU LỪA by mytutru Wed 10 Apr 2024, 20:33

Không đánh, không mắng, không phạt, không có học sinh ưu tú by Trà Mi Wed 10 Apr 2024, 11:45

Thi tập "Chỉ là...Tình thơ" by Tú_Yên tv Wed 10 Apr 2024, 11:37

Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Wed 10 Apr 2024, 11:32

KHÓ NGỦ by Phương Nguyên Wed 10 Apr 2024, 01:46

MỘT CHÚT BUỒN by Phương Nguyên Tue 09 Apr 2024, 15:33

Trụ vững duyên thầy by buixuanphuong09 Mon 08 Apr 2024, 08:14

"Vãi" Tiếng Việt! by Trà Mi Mon 08 Apr 2024, 08:09

7 chữ by Tinh Hoa Sun 07 Apr 2024, 22:30

TRANG ALBUM GIA ĐÌNH KỶ NIỆM CHUYỆN ĐỜI by mytutru Sun 07 Apr 2024, 19:29

Trang viết cuối đời by buixuanphuong09 Sat 06 Apr 2024, 09:10

Tranh Thơ Viễn Phương by Viễn Phương Fri 05 Apr 2024, 17:59

Những Bài Giảng Hay Thầy Thích Pháp Hoà by mytutru Thu 04 Apr 2024, 22:35

Còn mãi duyên thầy by buixuanphuong09 Thu 04 Apr 2024, 19:48

Tự điển
* Tự Điển Hồ Ngọc Đức



* Tự Điển Hán Việt
Hán Việt
Thư viện nhạc phổ
Tân nhạc ♫
Nghe Nhạc
Cải lương, Hài kịch
Truyện Audio
Âm Dương Lịch
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
Đăng Nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập: 
:: Quên mật khẩu

Share | 
 

 Từ Hán Việt

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Tác giảThông điệp
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7103
Registration date : 01/04/2011

Từ Hán Việt  Empty
Bài gửiTiêu đề: Từ Hán Việt    Từ Hán Việt  I_icon13Wed 30 Aug 2023, 08:00

Từ Hán Việt có phải tiếng Việt?

Đỗ Thành Dương

Gần đây, trên một diễn đàn có nêu ý kiến: “Có cần phải cho học sinh học tiếng nước ngoài là từ Hán Việt”; nhiều ý kiến đã nhất trí và mạnh mẽ phản đối trên cơ sở ngộ nhận, đồng nhất từ Hán Việt với chữ Hán, đã lên tiếng bài xích từ Hán Việt. Từ góc độ là người có thời gian dài, đã và đang giảng dạy bộ môn ngữ văn, chúng tôi xin nêu đôi điều suy nghĩ.

Từ Hán Việt không phải là tiếng Hán

Trước hết, chúng ta cần phân biệt rõ hai khái niệm khác nhau nhưng rất dễ nhầm lẫn: “chữ Hán” và “từ Hán Việt”/ “từ Việt gốc Hán”. Chữ Hán có thể hiểu là chữ Nho, một loại ký tự đã từng có thời kỳ đóng vai trò “chữ quốc ngữ” của nước ta trong thời gian hàng nghìn năm, dưới thời kỳ phong kiến, nay vẫn còn hiện diện ở các văn bia, câu đối ở các đình chùa... Trong chương trình ngữ văn phổ thông thì chữ Hán tồn tại trong các văn bản gốc của các tác phẩm như “Hịch tướng sĩ” (Trần Quốc Tuấn), “Cáo Bình Ngô” (Nguyễn Trãi), đặc biệt là trong “Nhật ký trong tù” (Hồ Chí Minh) và nguyên tác các tác phẩm của các nhà thơ Trung Quốc như Lý Bạch, Đỗ Phủ... đang được dạy trong chương trình THCS, THPT hiện hành.

Ở bậc ĐH, chuyên ngành sư phạm ngữ văn, “Hán Nôm học” là một môn học, sinh viên được học kéo dài liên tục hai năm, trong chương trình có thời gian học tỉ mỉ về cách đọc, viết chữ Hán và chữ Nôm. Nội dung này chưa bao giờ xuất hiện trong chương trình ngữ văn phổ thông.

Từ Hán Việt chính là từ tiếng Việt

Thực tế, trong từ vựng mỗi nước, bên cạnh vốn từ bản địa bao giờ cũng tồn tại bộ phận từ ngoại lai từ nhiều nguồn, như từ vựng tiếng Việt bao gồm nhiều từ ngữ du nhập từ các nguồn tiếng Hán, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga... đã được Việt hóa. Tất cả những từ này là từ tiếng Việt.

Tương tự, từ Hán Việt là “Từ tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng Hán, đã nhập vào hệ thống từ vựng tiếng Việt, chịu sự chi phối của các quy luật ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa của tiếng Việt, còn gọi là từ Việt gốc Hán” (Nguyễn Như Ý, 1996, Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học).

Chương trình phổ thông hiện hành đã có các bài học về “từ Hán Việt”: Đó là bài lý thuyết “Từ Hán Việt” ở chương trình lớp 7 THCS và bài “Luyện tập từ Hán Việt” ở chương trình lớp 10 THPT. Các nhà soạn sách giáo khoa đã bố trí ở hai cấp học hai bài về từ Hán Việt như trên theo phương hướng tích hợp dọc (tích hợp đồng tâm) là rất phù hợp. Ngoài ra, cuối mỗi cuốn sách giáo khoa ngữ văn (tập II), trong chương trình THCS và THPT hiện hành đều có Bảng tra yếu tố Hán Việt (lớp 6, 7, 8, 9) và Bảng tra cứu từ Hán Việt (lớp 10, 11, 12); trong bảng là những yếu tố/từ Hán Việt thường dùng hoặc/và thông dụng trong các văn bản cổ, mà học sinh đã tiếp xúc trong năm học đó.

Nên tăng cường dạy và học từ Hán Việt

Theo nhà nghiên cứu H. Maspéro (1912), “có đến 60% vốn từ tiếng Việt là từ gốc Hán” (Trần Ngọc Thêm, 2002, Lời giới thiệu). Do đó, việc cung cấp từ vựng - ngữ nghĩa của từ Hán Việt, từ tiếng Việt gốc Hán cho học sinh trong chương trình phổ thông là rất quan trọng và rất cần thiết, để học sinh nước nhà có thể làm chủ được ngôn ngữ mẹ đẻ của mình - một công cụ quan trọng mà các em sẽ sử dụng trong suốt cuộc đời của mình.

Trở lại với ý kiến “đề xuất đưa chữ Hán vào chương trình phổ thông...” như một môn học - từng “nổi sóng” dư luận gần đây, theo chúng tôi rõ ràng là chưa cần thiết, vì trước hết, chắc chắn nó sẽ làm tăng thêm gánh nặng cho học sinh phổ thông vốn đã quá tải về chương trình như hiện nay. Vả lại, ở mức độ chương trình kiến thức phổ thông, học sinh chưa nhất thiết phải đi sâu vào chuyên ngành Hán Nôm này.

Cái mà ta cần giúp cho học sinh thủ đắc qua chương trình ngữ văn phổ thông không phải là “tiếng Hán”, mà là “từ Hán Việt”. Còn nhằm mục đích “để giúp tiếng Việt giàu có hơn, trong sáng hơn, ít bị sai hơn” thì - theo chúng tôi - nên tăng cường thêm số tiết học về “từ Hán Việt” trong chương trình phổ thông là đủ; mà hai nội dung người soạn sách giáo khoa và đội ngũ giáo viên ngữ văn cần đặc biệt lưu ý là: Nhận diện từ Hán Việt và phương hướng nắm vững, mở rộng vốn từ Hán Việt theo phương châm “học ít biết nhiều” và “học ít hiểu kỹ”(*).

Ngoài ra, giáo viên cũng cần tham khảo thêm nhiều sách chuyên ngành về Hán Nôm khi soạn giảng, đồng thời giới thiệu cho học sinh tham khảo thêm một số tài liệu về từ Hán Việt(**) để các em có thể tự mình bổ sung kiến thức về bộ phận từ tiếng Việt này.

Đỗ Thành Dương

Tài liệu tham khảo

(*) Đặng Đức Siêu (2001), Dạy và học từ Hán Việt ở trường phổ thông, NXB Giáo dục, Hà Nội.

(**) Lê Đình Khẩn (2002), Từ vựng gốc Hán trong tiếng Việt, NXB ĐH Quốc gia, TP.HCM.

(Nguồn: Giáo dục)
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7103
Registration date : 01/04/2011

Từ Hán Việt  Empty
Bài gửiTiêu đề: “HÁN -VIỆT” VÀ “THUẦN VIỆT”    Từ Hán Việt  I_icon13Wed 30 Aug 2023, 08:33


“HÁN -VIỆT” VÀ “THUẦN VIỆT”

Cao Xuân Hạo

Ðã có một thời người ta bài trừ hai chữ trực thăng và thay nó bằng mấy chữ máy bay lên thẳng, vì trực thăng là “từ Hán-Việt”, một thứ từ ngữ “ngoại lai”, “đi mượn của người Hán”, tức là từ của tiếng nước ngoài, còn lên thẳng là từ “thuần Việt”, là sản phẩm “cây nhà lá vườn” đáng tự hào của người Việt Nam “chính cống”, tức người “Kinh”, người “Giao Chỉ”, người “Keo” hay người “Yuôn”.

Việc sử dụng nhiều các từ Hán-Việt được nhiều người coi là một hành vi lạm dụng, thậm chí vô đạo đức, cần tránh đến mức tối đa, nhất là khi đã có sẵn những từ “thuần Việt” có thể dùng đề thay thế, và việc thay thế này được coi là một nghĩa cử có tác dụng “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”, một trong những nhiệm vụ hàng đầu của mọi công dân nước Việt. Việc thay thế trực thăng bằng lên thẳng đã từng được đánh giá là “một thắng lợi vẻ vang của chủ nghĩa yêu nước”, “một thành tựu lớn lao trong việc bảo vệ nền văn hoá dân tộc”.

Ðến khi trong kỹ nghệ hàng không lần lượt xuất hiện những kiểu máy bay cất cách theo chiều thẳng đứng, không cần chạy trên mặt đất để lấy đà, tức là “lên thẳng” thực sự, nhưng lại tuyệt nhiên không phải là “trực thăng”, người ta mới thấy “hố”, bèn vội vàng dùng lại hai chữ trực thăng.

Những trường hợp tương tự và những tình trạng lúng túng mà phong trào bài xích “từ Hán Việt” gây ra cũng còn thấy có với những từ ngữ như phi công, bị thay bằng giặc lái (từ này được thay bằng người lái khi dùng cho phi công của ta: ai nấy đều đã được nghe anh hùng không quân Nguyễn Văn Cốc nói trên Ðài phát thanh “Tôi là người lái nhân dân Việt Nam”); giáo cụ trực quan bị thay bằng đồ dùng để dạy, không phận bị thay bằng vùng trời; hải phận bị thay bằng vùng biển (trong khi lãnh thổ không hề bị thay bằng vùng đất)[1]; hoả tiễn bị thay bằng tên lửa[2] ; công tố viên bị thay bằng ủy viên buộc tội; tuần dương hạm bị thay bằng tàu tuần biển, v.v., v.v. [3]

Vậy thiết tưởng cũng nên xét lại xem nội dung của hai khái niệm Hán–Việt và thuần Việt là gì, để thấy rõ hơn việc bài trừ các từ ngữ Hán-Việt và tìm cách thay thế nó bằng những từ ngữ “thuần Việt” có phải là một biện pháp “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” hay không.

Trước hết phải nói ngay rằng không làm gì có những từ có thể gọi một cách chính xác là “thuần Việt”, nếu định nghĩa đó là những từ do chính người Việt (dân tộc Việt) sáng tạo ra từ đầu, chứ không bắt nguồn từ tiếng nói của một dân tộc hay một tộc người nào khác. Trước khi có tiếng Việt hiện đại đã từng có một thời đai mà tiền thân của nó là tiếng Việt-Mường, bắt nguồn từ một chi của tiếng Môn-Khmer. Liệu có thể nói rằng những từ ngữ Việt Mường là “thuần Viêt” không, hay nói rằng những từ ngữ Môn-Khmer là “thuần Việt-Mường” không? Khó lòng có thể nói như vậy, vì có thể khẳng định rằng tiếng Việt-Mường là một ngôn ngữ khác chứ không phải là tiếng Việt, cũng như tiếng Môn-Khmer là một ngôn ngữ khác chứ không phải là tiếng Việt-Mường. Vậy có thể coi những từ Môn-Khmer hay những từ Việt-Mường là “thuần Việt” không? Hay đó là những từ mà tiếng Việt đã vay mượn của tiếng Môn-Khmer hay tiếng Việt-Mường? Khó lòng có thể chọn một trong hai cách trả lời, vì cả hai đều không đúng.

Thật ra phải nói rằng đó là những từ Việt có nguồn gốc trong một ngôn ngữ “mẹ” (hay “ngôn ngữ bà ngoại”) của chính nó[4], có khác với những từ Thái, những từ Mã Lai, những từ Hán hay những từ Ấn Âu, vốn bắt nguồn từ những ngôn ngữ không có quan hệ thân tộc với nó.

Vậy tại sao không nói đó là những từ vay mượn? “Từ vay mượn”(emprunts, loan words) là một khái niệm cần được định nghĩa trên quan điểm lịch sử, và trên cơ sở một cái mốc đánh dấu sự thành hình của ngôn ngữ đang xét. Kể từ cái thời đại mà tiếng Việt-Mường chẳng hạn, có thể coi là đã thành hình như một ngôn ngữ, hay nói cho đúng hơn, một ngữ trạng (état de langue) có những đặc trưng khiến nó có thể coi như không còn là thứ tiếng trước kia (hay ngữ trạng trước kia) nữa, thì những từ ngữ mà nó du nhập từ những ngôn ngữ khác có tiếp xúc với nó có thể coi là những yếu tố vay mượn, trong khi những từ ngữ mà “mẹ nó” vay mươn lại không thể coi là như thế, vì những từ ngữ này đã là những di sản của thời trước do “mẹ nó” để lại và được nó xử lý như những yếu tố thuộc vốn từ vựng của tiếng “mẹ đẻ”. Khi những người nói tiếng Việt-Mường không còn vay mượn những từ ngữ Thái (gạo, gà, vịt và hơn 100 từ khác) như hồi chưa tách hẳn ra khỏi tiếng Môn-Khmer, thì những từ này đã được nhập vào vốn từ vựng của tiếng mẹ đẻ của họ, nghĩa là đã trở thành những từ “thuần Việt-Mường”.

Ðối với các từ gốc Hán cũng vậy, tuy ở đây tình hình có phức tạp hơn một chút. Qua hơn 1000 năm bắc thuộc, tiếng Việt đã mượn của tiếng Hán một số từ ngữ nhiều gấp bốn lần vốn từ ngữ đã có trước kia. Trong số từ vay mượn này, có những từ “bình dân” dần dần được người bản ngữ đồng hoá và dần dần có được một dáng dấp ngữ âm riêng, được dùng y hệt như những từ gốc của bản ngữ, và đến vài ba thế hệ sau khi vay mượn, không còn bị người bản ngữ tri giác như những từ ngoại lai nữa. Bên cạnh đó có những từ ngữ Hán đi vào tiếng Việt theo con đường “bác học”, chủ yếu là qua các văn bản hành chính sự vụ mà ngay trong các triều đại đã giành được độc lập cũng được viết bằng chữ Hán cổ điển. Ðó chính là tiền thân của các “từ “Hán-Việt” sau này. Những từ này có một diện mạo ngữ âm được quy định chính xác theo các tự điển Trung quốc – theo cách chú âm bằng thủ pháp “phiên thiết”. Do đó các nhà nghiên cứu thường thấy cần phân biệt giũa những từ ngữ gốc Hán “bình dân” và những từ “Hán-Việt”. Dĩ nhiên sự phân biệt này hoàn toàn có cơ sở. Nhưng nó không đủ để phân biệt đối xử với những từ như đầu, tính, dân, học, hiểu được coi như những từ “thuần Việt” và với những từ ngữ như đại bác, tín nhiệm được coi là cần được loại bỏ trong chừng mưc có thể.

Khi dựng lên sự phân biệt nhân tạo giữa “Hán-Việt” và “thuần Việt”, người ta thường quên mất rằng hầu hết những từ được gọi là “thuần Việt” cũng đều có nguồn gốc ngoại quốc (Thái, Mã-Lai, Chăm, Căm-Pu-Chia, Quảng Ðông, Ấn Ðộ, v.v.) không kém gì các từ “Hán-Việt” và các từ mới vay mượn của tiếng Pháp, tiếng Anh. Thật ra, cái sắc thái đặc biệt mà người ta tri giác được ở các từ Hán -Việt không phải là do một đặc trưng “ngoại quốc” gì của các từ này. Chẳng hạn, xét về ngữ âm, các từ Hán-Việt đều có một cấu trúc âm tiết chuẩn mực của những từ thuần Việt, như các công trình nghiên cứu cấu trúc ngữ âm của các từ Hán-Việt đã cho thấy, chứ không có một âm hưởng là lạ như các từ vay mượn như pa-tê, gòong, soóc, xéc, boong, tỉm xắm, vằn thắn (kể cả những tên riêng Quảng Ðông như Cóong, Dzếnh).

Sở dĩ các từ Hán-Việt được một số người Việt “có học” phân biệt với các từ “thuần Việt”, trong đó có cả các từ gốc Hán được phát âm đúng như trong tự điển phiên thiết như đầu, dân, hiểu, học, là vì những lý do khác, không mấy khi được ý thức rõ ràng. Ðó là:

1.    Những yếu tố “Hán-Việt” không được dùng “độc lập” như các yếu tố “thuần Việt”, mà chỉ xuất hiện trong những tổ hợp hai tiếng trở lên. Sự phân biệt này trở nên quan trọng và có dáng “khoa học” kể từ khi giới học giả Việt Nam phát hiện ra cái chuẩn tắc hình thức của phái ngữ học miêu tả dùng sự khu biệt giữa “bound forms” và “free forms” làm nguyên tắc toàn năng và tuyệt đối quyết định mọi thao tác phân tích và thuyết minh ngôn ngữ học.

Thật ra nguyên tắc này, tuy có một tác dụng thực tiễn nhất định, nhưng xét về lý thuyết hoàn toàn không liên quan gì đến ngôn ngữ học, cho nên nếu được ứng dụng một cách máy móc, sẽ dẫn đến những sự lầm lẫn hết sức thô lậu, như chúng tôi đã chứng minh trong khá nhiều bài vở, và như giới ngữ học thế giới sau những năm 30 đã thấy rõ. Riêng trong lĩnh vực đang xét, nó dẫn tới những kết quả phi lý sau đây :

        - quốc ca là một từ nhưng dân ca là hai từ
        - súng trường là một từ nhưng súng ngắn là hai từ
        - hải quân là một từ nhưng không quân là hai từ

Cái chuẩn tắc thô thiển này phủ nhận tư cách từ của tất cả những từ bao giờ cũng đi với một phụ ngữ (bổ ngữ hay định ngữ); đó là các vị từ ngoại động (transitive verbs) như nai (lưng) hay các danh từ đơn vị (unit nouns) như chiếc (đũa) chẳng hạn, và làm nảy sinh ra những sự ngộ nhận đáng xấu hổ trong lý thuyết ngữ học phổ thông, như khái niệm “loại từ” (“classifier”) chẳng hạn, mà mãi gần đây (đến tận 1994) vẫn có người ta còn chưa thấy rõ tính phi lý.

2.    Trong tiếng Việt, các từ “Hán-Việt” làm thành một lớp riêng, có những đăc trưng ngữ pháp (a) và tu từ (phong cách học) (b) riêng.

3.    Về ngữ pháp, các từ tổ Hán-Việt tuy cũng chứa đựng những mối quan hệ cú pháp (đẳng lập hay chính phụ) rõ rệt không kém các từ tổ “thuần Việt”, nhưng mối quan hệ cú pháp này chặt hơn nhiều, một phần là nhờ cái “trật tự ngược” (phụ trước chính sau) so với các từ tổ thuần Việt.

Chẳng hạn quan hệ cú pháp chính phụ trong xạ thủ hay phi công chặt hơn nhiều so với mối quan hệ tương đương trong người bắn hay người lái: trong khi xạ thủ Nam chỉ có thể hiểu một cách, thì người bắn Nam không cho biết đó là kẻ đã bắn anh Nam hay là người lính tên là Nam (chắc hẳn cách hiểu thứ nhất (trọng âm [111]) tự nhiên hơn cách hiểu thứ hai (trọng âm [011]) [5].

Tính chất “chặt” của môí quan hệ cú pháp này giữa hai từ”Hán-Việt” làm cho các từ tổ tương tự dễ được hiểu đúng hơn nhiều khi được dùng làm thuật ngữ chuyên môn (khoa học hay kỹ thuật), nhờ đó mà khi cần cấu tạo một thuật ngữ, từ “Hán Việt” bao giờ cũng có ưu thế hơn hẳn từ “thuần Việt”, tuy có một thời, nhân danh tính “đại chúng”, người ta đã thay những thuật ngữ như khủng long hay nhược điểm bằng những thuật ngữ như thằn lằn kinh khủng [6] hay điểm yếu (đến bây giờ thuật ngữ sau lại bị thay nhầm bằng yếu điểm, vốn có nghĩa khác hẳn). Hồi ấy, người ta còn yêu cầu đặt thuật ngữ khoa học làm sao mỗi người chỉ cần biết đọc chữ quốc ngữ là hiểu ngay được nội dung. Phải chi có thể làm được như vậy, thì có lẽ toàn dân ngay từ sáu bảy tuổi đã không còn phải đi học nữa, vì đã hiểu được đủ thứ khái niệm như nguyên tử, điện tử. lượng tử, tích phân, vi phân, v.v. sau khi những từ Hán-Việt được chuyển thành từ “thuần Việt”.

“thuần Việt” dễ hiểu thật, nhưng đó chính là nhược điểm lớn nhất của nó, vì khi một thuật ngữ quá dễ hiểu, thì cách hiểu “quá dễ” ấy có rất nhiều xác suất là lối “vọng văn sinh nghĩa” – tức là cứ nhìn chữ mà đoán mò ra nghĩa, cho nên có thể sai hoàn toàn. Trong nhiều ngành, trên thực tế đã có hàng ngàn thuật ngữ được hiểu như thế, chẳng hạn như tình thái, hàm nghĩa, ngữ dụng, sở chỉ, v.v. là những thuật ngữ có vẻ dễ hiểu đến nỗi ai cũng cho là mình hiểu rồi, cho nên không thấy cần đọc sách nữa.

Chính tính chất trừu tượng, khó hiểu (?) của thuật ngữ Hán-Việt tránh được cho ta cái hiểm họa ấy.

   Về phương diện ngữ nghĩa, hầu như ai cũng đã thấy từ lâu rằng phần lớn các từ Hán Việt đều có một sắc thái ngữ nghĩa (hay tu từ) khiến cho nó khác một cách khá rõ với các từ thuần Việt dường như đồng nghĩa với nó. Ðó là sắc thái “trang trọng”, hay “thi vị”, hay “cổ kính”, hay “bác học”, hay “mờ ảo”của các từ Hán-Việt. Ðiều đáng ngạc nhiên là lẽ ra cái sắc thái đặc thù ấy phải cho thấy ngay rằng những từ ấy đã trở thành những từ “thuầnViệt” từ lâu, chính vì trong tiếng Hán nó không hề có, thì ngược lại nó lại được dùng như một cái cớ để bài bác và để tìm đủ cách loại trừ.

Trong tiếng Hán, nữ chỉ có nghĩa là “gái”, phụ nữ chỉ là “đàn bà”, trượng phu là “đàn ông” (hay “chồng”), hoa đăng chỉ là “đèn hoa/bông”, sơn động chỉ là “hang núi”, lam sơn chỉ là “núi xanh”, tử sĩ chỉ là “quân lính chết”, mãnh hổ chỉ là “con cọp mạnh”, tràng kỷ chỉ là “cái ghế dài”, lôi vũ chỉlà “mưa giông”, phong ba chỉ là “sóng gió”, hài chỉ là “giày”[7]

Sở dĩ khi chuyển sang tiếng Việt những từ ngữ này có được cái sắc thái “thi vị”. “cổ kính” hay “bác học” và cái sức mạnh tu từ của nó chính vì nó đối lập với những từ ngữ “thuần Việt” (hay “nôm na”), và đó chính là nguyên nhân làm cho nó có được cái sắc thái ngữ nghĩa hay tu từ mà nó vốn không có trong tiếng Hán, và cái sắc thái mới ấy cũng chính là bằng chứng hoàn toàn chắc chắn cho thấy rằng nó đã là một bộ phận hữu cơ của hệ thống từ vựng của tiếng Việt, hay nói gọn lại, nó đã hoàn toàn trở thành những từ ngữ của tiếng Việt, tức những từ ngữ “thuần Việt”.

Chính cái phong vị riêng (trang trọng, bác học, v.v.) của các từ ngữ Hán-Việt đã cám dỗ một số người làm công tác tuyên truyền vận động quần chúng sính dùng loại từ ngữ này. Ðáng lẽ nói “bàn nhanh” thì người ta thích nói “hội ý” hơn; đáng lẽ nói “nói chuyện phiếm” thì người ta thích nói “mạn đàm” hơn, đáng lẽ nói “đi thăm” hay “đi xem” thì người ta thích nói “tham quan” hơn, v.v.

Trước tình hình đó, hồi kháng chiến chống Pháp chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy cần nhắc nhở cán bộ trong cuốn Sửa đổi lối làm việc (dưới bút danh XYZ) là nên nói năng với quần chúng một cách giản dị hơn, dễ hiểu hơn, bình dân hơn, đừng dùng những từ ngữ quá trang trọng, quá bác học mà thành ra khó hiểu. Nói tóm lại, phải dùng từ ngữ sao cho thích hợp với quần chúng.

Về sau, những lời dặn dò ấy dần dần bị hiểu thành một chủ trương thanh lọc từ ngữ ngoại lai, và người ta hè nhau tìm cách thay thế những từ Hán-Việt bằng những từ “thuần Việt”, nghĩa là những từ ngoại lai khác, gốc Thái, Mã Lai, Môn-Khmer, Ấn độ, v.v. trong khi xây dựng thuật gốc Mã Lai, gốc Chàm, gốc Ấn, v,v., trong đó có cả những thuật ngữ khoa học và kỹ thuật.

Người ta tưởng làm như vậy là bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt, trong khi đó chính là làm cho tiếng Việt nghèo đi, và thay những cách nói đúng đắn, hay ho và thích hợp với tình huống, với ngôn cảnh hay văn cảnh bằng những cách nói ngô ngọng, lạc lỏng, thậm chí vô lễ và man rợ. Nếu gọi con gái bạn mình bằng quý nữ chẳng hạn là lố lăng, thì gọi một người đàn bà bằng đồng chí gái hay y tá gái cũng lố lăng không kém. Thủ tướng gái không bằng nữ thủ tướng. nhưng đầy tớ gái lại hơn nữ đầy tớ. Ngài Tổng thống và vợ không bằng Ngài tổng thống và phu nhân, nhưng thằng Út nhà tôi và phu nhân lại không bằng Thằng Út nhà tôi và vợ nó. Nói chung những sự kết hợp không tương thích đều cho những kết quả xấu.

Gần đây ta thấy xuất hiện những từ ngữ kỳ quặc mà lại hoàn toàn thừa, nhưng được những người sính chữ “sành điệu” hoan nghênh, chẳng hạn như cụm từ chí ít mà theo gương một vài nhân vật thời thượng người ta ưa dùng thay cho ít nhất, ít ra hay tối thiểu. Từ tổ này vừa lai căng vừa sai trái. Trong tiếng Hán cũng như trong tiếng Việt, chí không bao giờ có ý nghĩa “cực cấp tương đối” (superlatif relatif), thường được diễn đạt bằng hơn cả, nhất hay tối. Nó chỉ có thể có nghĩa “cực cấp tuyệt đối” (superlatif absolu), tức là cái nghĩa thường được diễn đạt bằng rất, lắm, như trong chí phải, chí lý, chí tôn, chí hiếu, chí công, chí minh.

Khoa Việt Nam học
Đai học Khoa học xã hội và nhân văn



Từ Hán Việt  Tiengv10


Ðăng lần đầu trong Kiến thức ngày nay số 118 năm 1993

Nguồn: Tiếng Việt, văn Việt, người Việt, nxb Trẻ 2001

[1] Về sau từ vùng biển lại bị thay bằng lãnh hải

[2] Ngày trước, thứ tên có châm lửa dùng để bắn vào những mục tiêu có thể bốc cháy được gọi là hoả hổ. Gíá để dành
tên lửa để dịch thuật ngữ này thì thích hợp hơn nhiều so với cách dùng tên lửa để dịch missile hay fusée , vì thứ “đạn” này chẳng giống mũi tên chút nào.

[3] Ðể chứng minh rằng tiếng Việt đủ giàu để tự cung cấp những thuật ngữ cần thiết, có người đã đề nghị thay “Ðại hội Phụ nữ toàn quốc” bằng “Buổi sum họp lớn của đàn bà cả nước” và ở một cuộc hội thảo năm 1979 có người đề nghị dịch các thuật ngữ chỉ tâm bệnh tính dục như zoophily, gerontophily, necrophily, v.v. bằng những thuật ngữ bắt đầu bằng loạn dâm như loạn dâm con vật, loạn dâm người già, loạn dâm xác chết v.v. thay cho các thuật ngữ cũ như ái thú, ái lão, ái thi, v.v.

[4] Dĩ nhiên các thuật ngữ này đều phải hiểu theo một nghĩa có tính chất ước định chứ không phải theo nghĩa đen.

[5] Thí dụ của Nguyễn Tài Cẩn (1965)

[6] Ðây là một lỗi ngữ pháp rất nặng: kinh khủng, một định ngữ trang trí, không thể kết hợp với thằn lằn, nhất là trong một thuật ngữ, vốn chỉ có thể chấp nhận một định ngữ hạn định (phân loại) cf. Cao Xuân Hạo. Cấu trúc của Danh ngữ. Tiếng Việt, Mấy vấn đề… (1998)

[7] Những từ “Hán-Việt” không có một tử “thuần Việt” tương phản với nó làm thành một cặp đâiệp thức (doublet), như đầu, hiểu, đông, tây, nam, bắc, v.v. thì không có những sắc thái tu từ này
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7103
Registration date : 01/04/2011

Từ Hán Việt  Empty
Bài gửiTiêu đề: Xin đừng ghẻ lạnh “từ Hán Việt”   Từ Hán Việt  I_icon13Fri 01 Sep 2023, 09:21

Xin đừng ghẻ lạnh “từ Hán Việt”

Trung Hiếu

VOV.VN- Cái mà chúng ta quen gọi là “từ Hán Việt” đóng vai trò không hề nhỏ trong ngôn ngữ dân tộc. Thế nhưng nhiều khi lớp từ đó lại bị rẻ rúng một cách vô lý.

Bản thân khái niệm “từ Hán Việt” vốn chứa nhiều mâu thuẫn và thuộc diện gây tranh cãi. Ở đây tôi tạm dùng thuật ngữ này theo cách hiểu của số đông hiện nay.


Từ Hán Việt  Namquo10

Bài thơ “Nam quốc sơn hà” viết bằng chữ Hán (Hình ảnh từ xuandienhannom blog)


Qua quan sát, tôi thấy một bộ phận đáng kể dân mình, bao gồm cả các biên tập viên, tỏ ra coi thường hoặc e sợ lớp “từ Hán Việt” này. Họ cho rằng lớp từ này là ngoại lai, gắn với các thế lực ngoại bang từng áp bức dân tộc Việt trong quá khứ. Theo họ, dùng “từ Hán Việt” nhiều là sính ngoại, lai căng, kệch cỡm, là thiếu tinh thần dân tộc, là làm mất đi sự “trong sáng” của tiếng Việt. Sự cay nghiệt đối với “từ Hán Việt” diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau.

Nhưng liệu sự thật có hoàn toàn đúng như cách phê phán này?

Ưu điểm lớn của “từ Hán Việt” và trật tự “Hán Việt”

Dù ai đó ghét bỏ “từ Hán Việt” thì họ cũng không thể phủ nhận vai trò to lớn của lớp từ này (hay rộng hơn là các “từ tố Hán Việt” và trật tự phụ-chính) đối với ngôn ngữ và tư duy dân tộc.

Thứ nhất, có những từ mà “tiếng Việt thuần” không hề có thuật ngữ tương đương, đó thường là các từ mang tính chất trừu tượng, bao gồm cả các từ cơ bản, trong các lĩnh vực khoa học, triết học, chính trị, nghệ thuật… Theo một số học giả thì lớp “từ Hán Việt” chiếm tới 70% hoặc chí ít là 60% kho từ tiếng Việt.

Thứ hai, trong trường hợp có “từ thuần Việt” tương ứng thì các “từ Hán Việt” lại có ưu điểm chính xác hơn, chặt chẽ hơn, khái quát hơn, và súc tích hơn (trong khi đó, yếu tố thuần Việt thường lỏng lẻo hơn). Các từ tố “Hán Việt” có năng lực ghép rất linh hoạt và dồi dào để sản sinh ra các từ ghép vừa mới vừa ngắn gọn vừa thống nhất. Nếu dùng yếu tố “thuần Việt” thì nhiều khi phải dùng cả cụm từ dài mang tính giải thích.

Đây là lý do mà các yếu tố “Hán Việt” cùng trật tự phụ-chính (đặc trưng của danh ngữ tiếng Hán) thường được sử dụng một cách áp đảo để xây dựng hệ thống thuật ngữ chuyên ngành ở Việt Nam (bên cạnh các yếu tố Latin). Nếu được phép so sánh thì yếu tố Hán trong từ vựng tiếng Việt na ná yếu tố Latin và Hy Lạp (thậm chí cả Arab) trong từ vựng tiếng Anh.

Chẳng hạn, đối với người Việt, “yêu nước” có thể hiểu theo 2 nghĩa (yêu đất nước và yêu thứ vật chất gọi là nước với công thức hóa học là H20), còn “ái quốc” chỉ có một nghĩa (yêu đất nước). “Thai nhi” thì ngắn gọn hơn cụm từ “đứa con còn trong bụng mẹ” (hoặc chí ít là “con trong bụng”). “Pháo kích” = “đánh bằng pháo, sử dụng pháo để tấn công”. Rồi, “quân phục” = “trang phục quân đội/quân sự, đồng phục quân đội/quân sự” (nhưng e hèm, cái đằng sau dấu “=” này cũng là cụm các “từ Hán Việt” nốt!). “Sơn pháo” = “loại pháo chuyên dùng ở vùng rừng núi”. Và giới chuyên môn chỉ nói “Việt ngữ học”, chứ không nói “tiếng Việt học”.

Tương tự, bình thường chúng ta sẽ không thể nói “đứng một mình” thay cho “độc lập”, “đánh chạy/đánh rong chơi” thay cho “du kích”.

Thứ ba, do sử dụng từ tố khác và trật tự khác nên “từ Hán Việt” sẽ tránh được tình trạng lặp và có thể có phần hơi lủng củng khi chỉ dùng yếu tố “thuần Việt”. So sánh: “Phi cơ bay qua vùng A/Máy bay bay qua vùng A”, “Xạ thủ bắn 2 loạt đạn/Người bắn bắn 2 loạt đạn”, “Các oanh tạc cơ ném bom xuống mục tiêu X/Các máy bay ném bom ném bom xuống mục tiêu X”. Trong trường hợp “chiến thuật Việt Nam/cách đánh Việt Nam” thì cái thứ 1 chỉ có một cách hiểu, trong khi cái thứ 2 có thể hiểu theo 2 nghĩa: 1- cách đánh của Việt Nam; 2- cách thức để đánh Việt Nam. Còn đối với danh ngữ “máy bay ném bom của Mỹ”, người đọc sẽ phân vân không rõ liệu “của Mỹ” là định ngữ của riêng “bom” hay của cả cụm “máy bay ném bom” (với “máy bay” là thành tố trung tâm).

Thứ tư, hệ thống “từ Hán Việt” mang sắc thái riêng, thường là trang nhã, trang trọng hoặc văn chương, cổ kính (tùy theo ý đồ diễn đạt). Chẳng hạn sẽ rất “thô” nếu vì lý do bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt mà thay từ “sinh” bằng “đẻ”, “phu nhân” bằng “vợ”, và “an tọa” bằng “ngồi yên/xuống [vào chỗ]” để tạo ra những câu như thế này: “Đồng chí XYZ đẻ ra và lớn lên trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng”, “Xin mời Ngài Tổng thống cùng vợ bước lên lễ đài!”, hay “Kính mời các vị đại biểu ngồi yên [vào chỗ]”. Tình hình tương tự xảy ra với cặp “nhà báo nữ/nhà báo gái”.

Thứ năm, trong trường hợp “thuần Việt” và “Hán Việt” ngang hàng thì rõ ràng lớp “từ Hán Việt” vẫn có tác dụng giúp tiếng Việt của chúng ta thêm phong phú và tinh tế với nhiều phương tiện biểu đạt, tránh sự đơn điệu, nhàm chán. Các nhà văn có lẽ rõ điều này hơn ai hết. (Tương tự, một nguyên nhân khiến tiếng Anh phong phú vào hàng nhất nhì thế giới là nó sở hữu một lượng lớn từ đồng nghĩa vay mượn từ nhiều ngôn ngữ khác nhau).

Điều vô lý

Dù đóng góp quan trọng cho ngôn ngữ Việt và tư duy Việt, lớp “từ Hán Việt” lại có số phận long đong giống như dân ngụ cư hay công dân hạng 2 vậy.

Giả dụ lớp từ này đúng là có nguồn gốc Hán thật thì việc chúng ta đối xử với nó như hiện nay đã thật sự công bằng chưa? Ở đây có mấy vấn đề cần bàn:

Thứ nhất, các “từ thuần Việt” có thực sự tất cả đều “thuần Việt” không?

Sự thực là có nhiều từ rất cơ bản, được sử dụng trong lời ăn tiếng nói hàng ngày mà nhiều người ngỡ là thuần Việt, như “đầu” (trong “đầu tóc”), “ông” (trong “ông/bà”) trên thực tế lại có gốc “Hán”! Ví dụ, chữ “ông” tồn tại trong từ “Hán Việt” “ngư ông”. Chỉ có điều các từ này được “vay mượn” từ rất rất lâu và được sử dụng với tần suất lớn. Một số nhà ngôn ngữ học gọi đây là từ “Hán Việt cổ”. Như vậy ngay ở trong cái gọi là từ “thuần Việt” vẫn có gốc gác ngoại. Vậy chúng ta có cần xử lý nốt số “ngoại lai” này hay không?!



Từ Hán Việt  Chu-no10

Một văn bản mẫu chữ Nôm (Hình ảnh từ omniglot)


Thứ hai, thế nào thì gọi là “thuần Việt”? Nếu chúng ta nhìn nhận vấn đề một cách biện chứng thì sẽ thấy chẳng ngôn ngữ lớn nào trên thế giới tồn tại một cách cô lập cả. Khái niệm thuần Việt cũng mang tính tương đối và phải được xem xét trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Chẳng hạn những từ tiếng Anh mới du nhập vào tiếng Việt như “MC”, “laptop”, “hacker”.. có dấu vết “Ăng-lê” còn đậm. Nhưng nhiều từ tiếng Pháp như “cà vạt”, “xà phòng”… thì đã được Việt hóa rất cao, không khác mấy các từ bản địa. Ở các từ gọi là “Hán Việt”, mức độ Việt hóa còn cao hơn nữa và có tính hệ thống.

Khái niệm “Hán Việt” hàm chứa một nét nghĩa khá nguy hiểm - rằng đây là tiếng nước ngoài do người Việt sử dụng! Nhưng thực tế ta đâu có nói tiếng nước ngoài mà vẫn nói tiếng Việt. Đây hoàn toàn không phải là một phiên bản của tiếng Hán hay tiếng Quan thoại. Các từ “Hán Việt” đó đã trở thành một phần máu thịt trong hệ thống của Việt ngữ. Tiếng Việt và người Việt hoàn toàn chế ngự lớp từ “Hán Việt” đó (trên các phương diện ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp), chủ động bắt nó phải phục tùng mình một cách hiệu quả. Có nhiều từ “Hán Việt” đã bị đảo trật tự các yếu tố bên trong hoặc thay đổi ngữ nghĩa so với các từ tương đương trong tiếng Hán. Thí dụ, từ “thủ đoạn” trong tiếng Hán mang sắc thái trung tính, sang tiếng Việt nó có thêm sắc thái xấu (phổ biến) bên cạnh sắc thái trung tính. Còn từ “truyền hình” là sáng tạo của người Việt dựa trên các yếu tố “Hán Việt” (thuật ngữ tương ứng của người Hán là “điện thị”).

Và còn nhiều ví dụ nữa về các trường hợp từ “thuần Việt” (và cách nói “thuần Việt”) được sử dụng áp đảo so với từ “Hán Việt”, như chúng ta chỉ nói “Bộ/Sở/Công ty Xây dựng” chứ không nói “Bộ/Sở/Công ty Kiến thiết”. Tương tự, người ta cũng chỉ nói “công ty cầu đường” và “ngành đường sắt” chứ chả ai nói “công ty kiều lộ” hay “ngành thiết lộ”. “Cảng biển” và “chủ nghĩa yêu nước” được nói nhiều hơn là “hải cảng” và “chủ nghĩa ái quốc”. Người Việt hầu hết nói “tàu ngầm” chứ hiếm khi nói “tiềm thủy đĩnh” như người Trung Quốc. Theo trật tự tiếng Hán, phải nói “chấn tâm” (tâm của động đất), nhưng người Việt chủ yếu nói “tâm chấn”. Tức là ngôn ngữ có quy luật vận động riêng, không phụ thuộc ý muốn chủ quan của một cá nhân nào đó.

Nói chung, không chỉ ngôn ngữ đâu, kể cả tên lửa Liên Xô, súng trường Trung Quốc hay xe đạp của Pháp (xe Peugeot) mà vào tay “ông Việt Nam” thì “thần thái” sẽ khác.

Thứ ba, người ta thường chỉ trích lớp từ “Hán Việt” là ngoại lai mà quên rằng đồng bào người Hoa là một trong 54 dân tộc anh em cùng chung sống trên lãnh thổ Việt Nam. Ngôn ngữ riêng của bà con người Hoa cũng là ngôn ngữ quốc nội, dù đó không phải là tiếng phổ thông.

Thuyết mới

Gần đây một số nhà nghiên cứu người Việt trên tinh thần khoa học và tự tôn dân tộc đã khẳng định rằng văn hóa Việt có những nét bản sắc riêng khu biệt với văn hóa Trung Hoa, và ngôn ngữ Việt không chịu ảnh hưởng mạnh từ ngôn ngữ Trung Hoa. Các nhà nghiên cứu này cho rằng lớp từ “Hán Việt” không tồn tại. Theo họ, chính người Hán đã vay mượn từ vựng của người Việt, và tiếng Việt là một cơ sở quan trọng hình thành nên tiếng Hán. Không những vậy, họ còn cho rằng đến cả chữ Hán cũng bắt nguồn từ nhóm Bách Việt (các tộc người Việt, sinh sống ở Việt Nam và khu vực miền nam của Trung Quốc trước đây).

Thuyết này không phải là không có lý. Người Hán vốn nằm giữa địa bàn của người Mông Cổ ở phương bắc và người Bách Việt ở phương nam. Lịch sử Trung Quốc là lịch sử thâu tóm lãnh thổ và thâu hóa văn hóa của các dân tộc nhỏ yếu hơn. Vùng Hoa Nam rộng lớn (từ sông Dương Tử trở xuống) vốn là nơi sinh sống của nhóm Bách Việt và đã bị hoàng đế khét tiếng Tần Thủy Hoàng thôn tính.

Nếu thuyết về cội nguồn “từ Hán Việt” nêu trên mà đúng thì về mặt lịch sử, cái gọi là “từ Hán Việt” cũng hoàn toàn thuộc về dân tộc Việt.

Nhìn ra thế giới

Các nước Mỹ và Úc ban đầu là những vùng mà người Anh di cư sang, khai phá hoặc chiếm lấy từ người bản địa. Lúc đầu các vùng này đều có mối quan hệ chặt chẽ với Anh Quốc (riêng Úc tới nay vẫn coi Nữ hoàng Anh (UK) đồng thời là nữ hoàng của mình, lá cờ của họ chứa đựng quốc kỳ Anh). Thế nhưng việc chung cội nguồn văn hóa và cùng nói tiếng Anh (English) vẫn không ngăn được các thực thể này trở thành các nước độc lập. Riêng Mỹ đã phát động cả một cuộc chiến tranh cách mạng để tách ra khỏi Đế chế Anh. Ngày nay người Mỹ và Úc vẫn nói tiếng Anh như ngôn ngữ mẹ đẻ của họ nhưng Mỹ và Úc không phải là quốc gia-dân tộc Anh.

Một trường hợp nữa là hệ thống 19 nước nói tiếng Tây Ban Nha ở châu Mỹ Latin  – những nước này từ lâu không còn là một bộ phận của nước Tây Ban Nha ở châu Âu nữa dù 20 nước này cùng chung một ngôn ngữ. Không những vậy, 19 nước châu Mỹ Latin nói tiếng Tây Ban Nha kia cũng không sáp nhập với nhau thành một quốc gia dù cùng nói một ngôn ngữ, cùng chung một cội nguồn văn hóa và nằm cạnh nhau về mặt địa lý (ở vùng Nam Mỹ và Trung Mỹ). Lịch sử vẫn có quy luật vận động riêng của nó.

Ở Trung Đông đại bộ phận các nước nói tiếng Arab nhưng các nước này hiện nay không thống nhất thành một dân tộc Arab và một quốc gia Arab.

Ở Bắc Phi, người Ai Cập thậm chí bỏ cả tiếng mẹ đẻ của họ để chuyển sang dùng tiếng Arab. Nhưng đối với thế giới, dân tộc Ai Cập vẫn là dân tộc Ai Cập với các nét khác biệt với các dân tộc Trung Đông, dù cho hiện nay một bộ phận người Ai Cập tự nhận mình là người Arab.

Ở Đông Nam Á, hai nước Malaysia và Indonesia cùng nói chung một thứ tiếng Mã Lai (ở nước thứ nhất, ngôn ngữ này có tên gọi là Bahasa Malaysia, ở nước thứ 2 thì được gọi là Bahasa Indonesia) nhưng đây vẫn là 2 dân tộc riêng, 2 quốc gia riêng. Tương tự, Singapore nói tiếng Hán, một tỷ lệ lớn dân cư là người Hoa, nhưng nước này không tự nhận mình là một bộ phận lãnh thổ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Các trường hợp trên chứng tỏ một điều rằng nhiều dân tộc, nhiều quốc gia có thể cùng chung một ngôn ngữ, và ngôn ngữ chỉ là một khía cạnh của chủ nghĩa dân tộc.

Tinh thần Việt

Ngày nay khó ai có thể nghi ngờ tinh thần dân tộc “ngút trời” của người Nhật Bản. Tuy “nhập Âu thoát Á”, người Nhật vẫn tôn trọng truyền thống và có ý thức gìn giữ rất tốt bản sắc của họ. Với chủ nghĩa dân tộc cực đoan, họ còn từng tham gia Chiến tranh Thế giới thứ nhất và thứ hai. Đến nay quan hệ giữa họ và Trung Quốc vẫn căng thẳng do di sản của Thế chiến 2 và vấn đề quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Du khách Nhật khi ra nước ngoài nhìn chung đều rất trật tự và giữ gìn cẩn thận hình ảnh đất nước họ. Khi đối mặt với thảm họa thiên nhiên như động đất và sóng thần, người Nhật đã thể hiện một tinh thần đoàn kết và bản lĩnh Nhật mà cả thế giới phải nể phục. Nhật Bản còn đóng góp cho văn minh nhân loại bằng những phát triển công nghệ đầy sáng tạo.

Ấy vậy mà kho từ tiếng Nhật lại bao gồm rất nhiều từ “Hán-Nhật”. Không những thế, quốc gia Nhật Bản còn lấy Hán tự (Kanji) làm chữ viết chính thức và áp đảo của họ trong mọi mặt đời sống. Hiện không có dấu hiệu nào cho thấy Nhật Bản sẽ bỏ chữ Hán để chuyển sang dùng hoàn toàn chữ Hiragana và Katakana (2 loại chữ ghi âm tiết do họ tạo ra dựa trên Hán tự) cũng như chữ Latin. Cũng xin lưu ý, khác với Hàn Quốc/Triều Tiên, Nhật Bản chưa bao giờ bị một triều đại Trung Quốc nào cai trị. Do vậy việc “vay mượn” cả từ và chữ này là trên tinh thần tự nguyện khi người Nhật thấy những yếu tố vay mượn đó phục vụ đắc lực cho văn hóa dân tộc.

Thực tế này gợi ý rất có thể yếu tố quyết định trong thành công của Nhật Bản không nằm ở hình thức từ vựng và chữ viết của họ mà là ở tinh thần Nhật Bản, ý chí Nhật Bản.



Từ Hán Việt  Kanji-10

Sự hiểu biết về chữ kanji (Hán tự) cần thiết để đọc được báo chí Nhật Bản (Hình ảnh từ Japan Experience)


Trở lại với vấn đề tiếng Việt, nhà trí thức Phạm Quỳnh từng nói “tiếng ta còn, nước ta còn” (tức tiếng Việt còn thì nước Việt còn). Điều này không sai. Ngôn ngữ không chỉ phản ánh văn hóa và lối tư duy mà còn thể hiện sự độc lập chính trị.

Nhưng như các phân tích ở các phần trên, ngôn ngữ Việt tuy quan trọng nhưng chỉ là một phần của cái quan trọng hơn, bao trùm hơn, đó là tinh thần Việt, giá trị Việt, hồn cốt Việt.

Chính nhờ cái tinh thần Việt này mà tiếng Hán khi được đưa vào nước ta bằng gươm đao và vó ngựa xâm lược với mưu đồ đồng hóa đã không tài nào xâm nhập sâu vào cơ cấu xã hội Việt được, chỉ phổ biến ở một bộ phận dân cư thành thị và tầng lớp quan lại làm việc cho chính quyền phương bắc. Mãi đến khi Việt Nam giành độc lập tự chủ hoàn toàn sau 1.000 năm Bắc thuộc thì các từ gốc Hán mới bắt đầu xuất hiện nhiều và chủ động trong tiếng Việt, để phục vụ nhu cầu chấn hưng dân tộc và phát triển đất nước. Hay sau này, khi buộc phải nói tiếng Pháp dưới chế độ thực dân, người Việt vẫn âm thầm và kiên trì nuôi ý chí phục thù, giành lại độc lập dân tộc.

Vậy ngày nay chúng ta phải thể hiện và phát huy tinh thần Việt như thế nào?

Tất nhiên chúng ta có thể và nên cố gắng sử dụng ngôn ngữ Việt chuẩn mực. Phải biết tôn trọng tiếng mẹ đẻ. Những chỗ phải in song ngữ trên lãnh thổ mình thì phải ưu tiên tiếng Việt (không phải tiếng Anh hay tiếng Hán với tư cách là tiếng nước ngoài). Khi ra nước ngoài thì đừng làm xấu hình ảnh người Việt trong mắt người ngoại quốc.

Theo vov.vn
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content




Từ Hán Việt  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Từ Hán Việt    Từ Hán Việt  I_icon13

Về Đầu Trang Go down
 
Từ Hán Việt
Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
daovien.net :: GIẢI TRÍ :: Quê Hương yêu dấu :: Tiếng Việt-