Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesVietUniĐăng kýĐăng Nhập
Bài viết mới
Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Yesterday at 16:41

Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Thu 25 Apr 2024, 18:57

Thi tập "Chỉ là...Tình thơ" by Tú_Yên tv Thu 25 Apr 2024, 12:56

Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Thu 25 Apr 2024, 12:51

Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Thu 25 Apr 2024, 12:46

LỀU THƠ NHẠC by Thiên Hùng Wed 24 Apr 2024, 11:55

Quán Tạp Kỹ - Đồng Bằng Nam Bộ by Thiên Hùng Wed 24 Apr 2024, 11:48

Trụ vững duyên thầy by Trà Mi Tue 23 Apr 2024, 07:34

Mái Nhà Chung by Trà Mi Tue 23 Apr 2024, 07:33

THIỀN TUỆ (diệt trừ đau khổ) by mytutru Tue 23 Apr 2024, 00:07

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 09:57

Nhận dạng phụ nữ giàu có by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 08:36

Bức tranh gia đình by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 08:09

Mẹo kho thịt by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 07:29

SẦU LY BIỆT by Phương Nguyên Sun 21 Apr 2024, 23:01

Trang Họa thơ Phương Nguyên 2 by Phương Nguyên Sun 21 Apr 2024, 22:56

Trang viết cuối đời by buixuanphuong09 Sun 21 Apr 2024, 06:38

Mức thù lao không ai dám nghĩ đến by Trà Mi Wed 17 Apr 2024, 11:28

KHÔNG ĐỀ by Phương Nguyên Wed 17 Apr 2024, 11:00

Cách xem tướng mạo phụ nữ ngoại tình, không chung thủy by mytutru Tue 16 Apr 2024, 11:59

Ở NHÀ MỘT MÌNH by Phương Nguyên Tue 16 Apr 2024, 09:59

HÁ MIỆNG CHỜ SUNG by Phương Nguyên Sun 14 Apr 2024, 13:29

Trang thơ vui Phạm Bá Chiểu by phambachieu Fri 12 Apr 2024, 15:48

Những Đoá Từ Tâm by Việt Đường Fri 12 Apr 2024, 15:32

Chết rồi! by Phương Nguyên Fri 12 Apr 2024, 13:57

ĐÔI BÀN TAY NGHỆ NHÂN by mytutru Thu 11 Apr 2024, 17:43

THẬN TRỌNG SIÊU LỪA by mytutru Wed 10 Apr 2024, 20:33

Không đánh, không mắng, không phạt, không có học sinh ưu tú by Trà Mi Wed 10 Apr 2024, 11:45

KHÓ NGỦ by Phương Nguyên Wed 10 Apr 2024, 01:46

MỘT CHÚT BUỒN by Phương Nguyên Tue 09 Apr 2024, 15:33

Tự điển
* Tự Điển Hồ Ngọc Đức



* Tự Điển Hán Việt
Hán Việt
Thư viện nhạc phổ
Tân nhạc ♫
Nghe Nhạc
Cải lương, Hài kịch
Truyện Audio
Âm Dương Lịch
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
Đăng Nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập: 
:: Quên mật khẩu

Share | 
 

 MỘT BÀI CA DAO

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Tác giảThông điệp
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7112
Registration date : 01/04/2011

MỘT BÀI CA DAO Empty
Bài gửiTiêu đề: MỘT BÀI CA DAO   MỘT BÀI CA DAO I_icon13Thu 11 Jan 2024, 10:11

BÀN VỀ MỘT BÀI CA DAO THỜI MINH MẠNG


ĐÀO ĐỨC NHUẬN

Cái váy của người đàn bà đất Bắc không biết xuất hiện từ bao giờ, nhưng đến khi nhà Minh xâm lăng Việt Nam vào năm 1414, thì ngay sau đó “bọn Hoàng Phúc muốn bắt dân ta đồng hóa với người Tàu, cấm con trai con gái không được cắt tóc, đàn bà con gái phải mặc áo ngắn quần dài theo kiểu người Tàu, nghĩa là không được mặc váy như trước . . .” (ĐLQT, tr.206).


Váy là đồ mặc che nửa thân người phía dưới của người đàn bà xứ Bắc ngày xưa. Nó có hình thức gần giống như cái skirt (Mỹ) hay cái jupe (Pháp) của người phụ nữ Tây phương thường mặc. Và đúng như người bình dân của ta đã mô tả trong một câu đố như sau:

                       Vừa bằng cái thúng mà thủng hai đầu,
                       Bên ta thì có, bên Tàu thì không.


           Đến năm Cảnh Trị thứ 3 (1665) đời vua Lê Huyền Tông (1663-1671), nhà vua lại ra sắc dụ cấm đàn bà con gái mặc quần theo kiểu Tàu mà trở lại mặc váy theo y phục truyền thống của dân tộc.

           Vậy là, sau 250 năm, người đàn bà xứ Bắc lại mặc váy như trước thời kỳ bị quân Minh xâm lược bắt phải đồng hóa theo kiểu ăn mặc của đàn bà Tàu. Đó là tình trạng ở đất Bắc tức từ Thanh Hóa trở ra. Tình trạng ở phía nam đèo Ngang tức từ Quảng Bình trở vào lại khác.

           Số là, vào năm 1558, Nguyễn Hoàng được vua Lê cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa rồi sau đó cho kiêm nhiệm trấn thủ đất Quảng Nam. Nguyễn Hoàng lúc đầu còn phải ra vào đất Bắc để phục vụ cho vua Lê, nhưng đến năm 1559 cuối đời vua Lê Thế Tông (1573-1599), Trịnh Tùng xưng vương hiệu là Bình An Vương lập nên phủ Chúa và vua Lê chỉ còn hư vị thì ngay năm sau (1600), Nguyễn Hoàng cũng lo củng cố và xây dựng đất Thuận Hóa rồi sau đó là đất Quảng Nam để đối đầu với chúa Trịnh ở đất Bắc. Đến khi Nguyễn Hoàng mất (1613), con là Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) lên thay, Nguyễn Phúc Nguyên tự bổ nhiệm quan lại để cai trị đất Đàng Trong, không còn nhận quan lại của vua Lê và chúa Trịnh gởi vào nữa. Tuy nhiên, đến đời chúaNguyễn Phúc Trú (1725-1738)  các chúa Nguyễn vẫn chỉ xưng quận công hay quốc công và vẫn tuân theo một số luật lệ và phong tục của đất Bắc. Đến đời  Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), Khoát mới xưng vương gọi là Võ Vương (1744) đúc ấn quốc vương, định triều nghi và đưa ra một số cải cách để chứng tỏ sự tách biệt hoàn toàn với đất Đường Ngoài, chẳng hạn:

           “Vào khoảng năm 1744 chúa Võ Vương ở phương Nam bắt dân gian cải cách y phục. Theo giáo sĩ Koffler thì chúa bắt bỏ lối quần áo thô bỉ của người đường ngoài, mà châm chước theo lối quần áo của người Tàu. Có lẽ từ bấy giờ, người đàn bà đường trong bắt đầu mặc áo gài khuy và mặc quần, mà không mặc áo thắt vạt và mặc váy như người đường ngoài nữa.” (VNVHSC, tr.173)

           Vậy có thể nói, từ đời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát trở về sau, cách ăn mặc của người Đàng Trong lại giống như cách ăn mặc của người Đàng Ngoài thời kỳ trước khi vua Lê Huyền Tông ra lệnh bỏ lối phục sức theo kiểu nhà Minh, hay nói một cách khác, trong lúc phụ nữ Đàng Trong dưới quyền chúa Nguyễn mặc quần dài 2 ống thì người phụ nữ Đàng Ngoài dưới quyền vua Lê chúa Trịnh lại mặc váy.

Đến khi nhà Nguyễn dựng đế nghiệp (1802),  để thống nhất việc ăn mặc cho cả nước, vua Minh Mạng (1820-1840) đã hai lần ra sắc dụ bắt dân chúng Đàng Ngoài phải thay đổi cách ăn mặc theo người Đàng Trong. Việc cải đổi y phục của vua Minh Mạng đã gặp phải sức kháng cự của người dân Đàng Ngoài bằng hành động bất tuân phục và đặt ra những bài hò vè để chế diễu phản đối.

           Trong tác phẩm Đất Lề Quê Thói, tác giả Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu đã viết về vấn đề này như sau:

           “Người xứ Bắc vốn không qui phục nhà Nguyễn . . . lại gặp phải chính sự hà khắc cấm đoán cả về y phục, trái với lẽ thường, dân mất váy lần này có câu ca rằng:

Tháng chín có chiếu vua ra:
Cấm quầnkhông đáy người ta hãi hùng.
Không đi thì chợ không đông,
Đi ra bóc lột quần chồng sao đang.
Có quần ra quán bán hàng,
Không quần đứng nấp đầu làng trông quan ”

           (Đất Lề Quê Thói,  tr. 207-208)

Bài ca dao ở trên có nhiều dị bản.

* Trong Văn Học Bình Dân,  Nguyễn Trúc Phượng cũng sao lục giống như bài trên nhưng câu đầu  hoàn toàn khác: Chiếu vua mồng sáu tháng ba

* Trong Tục Ngữ Phong Dao (tập 2) cuả Nguyễn Văn Ngọc và Thi Ca Bình Dân Việt Nam (tập 2) của Nguyễn Tấn Long và Phan Canh ,  bài ca dao nầy được ghi lại như sau :

           Tháng sáu có chiếu vua ra,
           Cấm quần, cấm áo đôi ta ngặt ngùng.
           Không đi thì chợ không đông,
           Đi ra bóc lột quần chồng mà mang.


* Trong Xã Hội Việt Nam của Lương Đức Thiệp, bài ca dao được sao lục gần giống như của Vũ Văn Khiếu trong Đất lề Quê Thói nhưng “tháng Chín” được đổi ra “tháng Tám”:

           Tháng Tám có chiếu vua ra . . .

* Trong  Chuyện Cà Kê, Lãng Nhân Phùng Tất Đắc cũng sao lục giống như bài của Vũ Văn Khiếu trong Đất Lề Quê Thói.

* Trong một bài biên khảo nhan đề “Thi Ca Trào Phúng Việt Nam” đăng trong Thằng Mõ Nam Cali, giai phẩm Xuân Giáp Thân, 2004, tác giả Vọng Đông lại chép là “tháng Chạp” :

           Tháng Chạp có chiếu vua ra . . .

Như vậy là, trong câu đầu của bài ca dao nói về thời gian ban hành lệnh cấm mặc váy đã có những sai biệt như sau:

           * Chiếu vua mồng sáu tháng Ba ( theo Nguyễn Trúc Phượng)
           * Tháng Sáu có chiếu vua ra (theo Nguyễn Văn Ngọc , Nguyễn Tấn Long)
           * Tháng Tám có chiếu vua ra (theo Lương Đức Thiệp)
           * Tháng Chín có chiếu vua ra (theo Phùng Tất Đắc và Vũ Văn Khiếu)
           * Tháng Chạp có chiếu vua ra (theo Vọng Đông)

Bài ca dao nầy có liên quan đến một sắc chỉ của vua Minh Mạng triều nhà Nguyễn về việc cải cách y phục cho nhất thống từ Bắc chí Nam. Ngoại trừ một vài khác biệt không đáng kể về một số chữ không quan trọng trong bài, điểm khác biệt quan trọng trong các bài được sưu tập, đó là thời gian xuất hiện của “Chiếu vua” : Tháng Ba? Tháng Sáu? Tháng Tám? Tháng Chín? Hay tháng Chạp?

Chúng ta thử lần theo các trang sử để tìm ra sự thật.

Theo Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu:

           Năm Mậu Tý (1828) Minh Mạng thứ 9 “Tháng 10, truyền đổi cách ăn mặc từ sông Gianh trở ra Bắc”. (quyển 3, trang 74)
           Năm Đinh Dậu (1837), Minh mang thứ 18, “Tháng 9 . . . thân dụ dân tự Hà Tĩnh trở ra phải đổi cách ăn mặc” (quyển 3, trang 112)

Theo  Biên Niên Lịch Sử Cổ Trung Đại Việt Nam (Từ đầu đến giữa thế kỷ XIX) của Viện Sử Học Hà Nội, sự kiện nầy đã được ghi như sau :

           1828 (Mậu Tý) :“Tháng 10 Âm Lịch, Nhà nước ra lệnh cho nhân dân Bắc Thành từ Thanh Nghệ trở ra Bắc phải thay đổi y phục cho phù hợp với y phục của nhân dân từ sông Gianh trở vào Nam. Lại ấn định, từ Mùa Xuân 1829 y phục của nhân dân phải thay đổi đồng loạt trong cả nước.” (trang 436).

           1837 (Đinh Dậu) : “Tháng 9 âm lịch . . . . Ra lệnh cho nhân dân từ Hà Tĩnh trở ra phải đổi trang phục nữ mặc quần không được mặc váy. Lệnh nầy đã được ban hành từ năm 1827 (?), sau 10 năm nhân dân chưa thi hành, nên lệnh nầy được nhắc lại.”

Theo Đại Nam Thực Lục Chính Biên, đệ nhị kỷ, quyển 184  ghi lại chiếu dụ của vua Minh Mệnh ban hành vào năm Minh Mệnh thứ 18, năm Đinh Dậu (1837) như sau:

           “Từ sông Gianh ra Bắc, trước đây vẫn còn ăn mặc theo hủ tục. Trẫm đã ra lệnh đổi y phục như từ Quảng Bình trở vào để phong tục thuần nhất. Lại ban hạn rộng rãi để ai nấy có thì giờ khâu may. Nhưng đến nay, kể đã ngoài 10 năm, mà ở Đàng Ngoài bọn ngu phu, ngu phụ vẫn cứ chần chừ chưa chịu đổi thay. Từ Quảng Bình trở vào Nam, hết thảy đã ăn mặc theo lối nhà Hán, nhà Minh, mũ mãng, áo quần đều chỉnh tề, tươm tất. Dân Bắc Kỳ cứ ăn mặc theo lối cũ. Đàn ông, con trai đóng khố, đàn bà, con gái mặc áo vạt khép vào nhau, dưới thì mặc váy. Như vậy đẹp xấu ra sao, mọi sự đã rõ. Một số nơi đã theo thói hay. Nhưng nhiều nơi vẫn duy trì hủ tục, phải chăng cố ý trái lệnh của Trẫm. Nay truyền cho các viên tổng đốc, tuần phủ, bố chánh, án sát các tỉnh phải giải thích, khuyên nhủ cho dân biết rõ ý của Trẫm. Lại ban hạn trong năm nay tất cả phải thay đổi quần áo. Nếu năm tới còn có kẻ nào ngoan cố áo quần, phải trị tội thật nặng”(chép theo Hoàng Hải Thủy)

Trong tác phẩm Xã Hội Việt Nam, tác giả Lương Đức Thiệp đã nhắc đến vấn đề này như sau:

           “Dưới triều vua Tự Đức cũng có lệnh cấm đàn bà đường ngoài mặc váy. Câu ca dao sau đây đã đánh dấu việc cải cách y phục này:

Tháng tám có chiếu vua ra
Cấm quần, cấm áo người ta ngại ngùng
Không đi thì chợ không đông
Đi ra bóc lột quần chồng mà mang
Có quần thì ra đứng đàng
Không chồng (?) ta đứng đầu làng nghé quan”

                                   (XHVN, tr.252)

Như  đã được trình bày ở trên, sự kiện thay đổi y phục xảy ra vào thời vua Minh Mạng (1820-1840) chứ không phải dưới thời vua Tự Đức (1848-1883) như Lương Đức Thiệp đã nói đến trong tác phẩm Xã Hội Việt Nam của ông.

Trong Chuyện Cà Kê, Lãng Nhân Phùng Tất Đắc ghi “ ... (1828) Minh Mệnh thứ 9, trong tháng 9 có chiếu cấm dân Bắc mặc váy...”.

Như trên đã dẫn, chiếu cấm mặc váy được ban ra vào tháng 10 năm Mậu Tý, Minh Mệnh thứ 9 chứ không phải tháng 9 như Lãng Nhân đã ghi.

Như vậy, bước đầu ta có thể kết luận: thời gian “mồng sáu, tháng Ba”, “tháng Sáu”, “tháng Tám” hay “tháng Chạp” là không phù hợp với lịch sử. Chỉ còn lại tháng Chín hay tháng Mười mới đúng.

Đến đây, có một điều chúng ta cần bàn.

Như ta đã biết, vua Minh Mạng đã 2 lần hạ chiếu cải dịch y phục:

* Lần thứ nhất là vào tháng Mười năm Mậu Tý (1828), Minh Mạng thứ 9.

* Lần thứ hai là vào tháng Chín năm Đinh Dậu (1837), Minh Mạng thứ 18. Lần nầy, như trong Đại Nam Thực Lục đã ghi, ta thấy lệnh   có vẻ gay gắt hơn nhiều và bắt buộc các quan đầu tỉnh từ Tổng Đốc, Tuần phủ, Bố chánh, Án sát phải theo dõi việc thực hiện.

Nay ta thử xét về âm vận của thể thơ đã được dùng trong bài ca dao. Đây là một bài  ca dao làm theo thể thơ lục bát. Trong âm luật thơ lục bát, chữ thứ 2 của câu lục (câu 6 chữ) phải là âm bằng, trừ trường hợp câu lục được ngắt nhịp ở chữ thứ 3 thì chữ thứ 2 của câu lục thường phải là âm trắc. Thí dụ: Mai cốt cách, tuyết tinh thần – Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười ; Đau đớn thay phận đàn bà – Lời rằng bạc mênh cũng là lời chung . . . (Kiều – Nguyễn Du).

Nếu xét theo âm luật như trên thì câu lục phải là : “Tháng Mười có chiếu vua ra . . .” nghe vừa xuôi tai lại vừa hợp với sự kiện lịch sử như vừa được dẫn ở trên. Vậy thì tại sao trong tất cả các bản được sưu tập xưa nay lại không có bản nào ghi lại là “Tháng Mười có chiếu vua ra”? Như vậy, theo tôi, có thể là câu ca dao trên chỉ xuất hiện sau khi vua Minh Mạng thấy rằng sắc lệnh lần trước (tháng Mười năm Mậu Tý,1828) không được thi hành đúng mức, vậy nên, 10 năm sau nhà vua đã phải ra lệnh gắt gao hơn (tức lệnh vào tháng Chín năm Đinh Dậu – 1837) lệnh lại bắt buộc các quan đầu tỉnh theo dõi sát nên trong dân chúng mới có sự phản ứng bằng bài ca dao như trên. Cái hiện tượng các quan phải theo dõi việc thi hành đã bị dân chúng vạch trần trong câu cuối: Không quần ra đứng đầu làng trông quan!

Và như vậy, bài ca dao trên chỉ có thể xuất hiện sau khi vua Minh Mệnh ban chiếu Cải dịch y phục cho dân Đàøng Ngoài lần thứ hai vào tháng 9 năm Đinh Dậu (1837) và câu ca dao đúng phải là:

“Tháng Chín có chiếu vua ra . . .”

Dân chúng Bắc Thành , nhất là từ Thanh Nghệ trở ra, xưa mặc váy chứ không mặc quần (hai ống) như dân chúng Nam Hà thời các chúa Nguyễn. Đến thời Minh Mạng nhà vua bắt dân chúng Bắc Hà mặc quần 2 ống, tức không cho mặc váy, nên bị dân chúng phản ứng bằng bài ca dao mỉa mai nói trên.

Đồng thời với bài ca dao trên đây, ở vùng Thanh Nghệ còn lưu truyền bài vè sau đây:

Bước sang năm mới bình yên,
Chiếu vua hạ truyền:
Cải dịch y phục,
Quan huyện đã giục,
Lý trưởng, mục, tiên,
Lệnh vua đã truyền,
Bắt dân mặc cả.
. . . . .
Mai phiên chợ Trai,
Phải mượn quần chồng.
Đã cực trong lòng,
Lại thêm xấu hổ.
Không đời mô chộ
Ăn mặc ra ri.
Anh bước chân ra đi,
Không quần mà có áo.
Bắt từ ông lão,
Cho đến gái thanh tân,
Thân lại lập thân
Một người hai bộ.
. . . . .

           Như ở trên ta đã thấy, đối với dân gian, viết sử không phải chỉ là ghi lại sự kiện : “Tháng Chín có chiếu vua ra: Cấm quần không đáy” mà phần quan trọng chính là phần phê phán, phần nói lên cảm tưởng, thái độ  của dân gian đối với sự kiện : “người ta hãi hùng”, “Có quần ra quán bán hàng, Không quần ra đứng đầu làng trông quan!”. Chính cái phần phê phán, cái phần cảm tưởng này mới giúp ích nhiều cho các nhà xã hội học, các nhà sử học về sau.

                                                        (Trích trong Tản Mạn Về Ca Dao Lịch Sử)

                                                                       ĐÀO ĐỨC NHUẬN

-----------------------
Tài liệu tham khảo:
-Đất Lề Quê Thói, Vũ Văn Khiếu, NXB Đại Nam (Hoa Kỳ)
-Việt Nam Văn Hóa Sử Cương, Đào Duy Anh, NXB Xuân Thu (Hoa Kỳ)
-Văn Học Bình Dân, Nguyễn Trúc Phượng, NXB Sống Mới (Hoa Kỳ)
-Xã Hội Việt Nam, Lường Đức Thiệp, NXB Liên Hiệp Saigòn, 1950
-Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu, trang Web của Viện Việt Học
-Biên Niên Lịch Sử Cổ Trung Đại Việt Nam, Hà Nội, 1987
-Thằng Mõ Nam Cali, Xuân Giap Thân, 2004-11-26
-Các tuyển tập tục ngữ ca dao.
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7112
Registration date : 01/04/2011

MỘT BÀI CA DAO Empty
Bài gửiTiêu đề: Một quan là bao nhiêu?   MỘT BÀI CA DAO I_icon13Fri 12 Jan 2024, 09:59

“ĐI CHỢ TÍNH TIỀN” LÀ MỘT BÀI CA DAO LỤC BÁT

Phan Văn Cho

    Bài đã được in làm Bài HọcThuộc Lòng cho học sinh lớp “sơ đẳng” (tức lớp 3) trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư năm 1948. Bài thơ kể chuyện một người phụ nữ đi chợ về, phải trình bày minh bạch, rõ ràng việc chi tiêu với chồng.

    Ngày xưa khi học bài này thầy giáo chỉ nêu đại ý như rứa, đồng thời nêu bật tính đảm đang, khéo vén của người phụ nữ xưa…. sau đó yêu cầu học sinh học thuộc. Thầy không giảng về bài toán ẩn trong bài thơ, có lẽ vì thời thế đã khác (khoảng năm 1958, chưa được vào trường công lập, người viết học với Ông giáo…  ở khoảng giữa cầu An Cựu và lăng Vạn Vạn, không biết có phải là thân sinh của nhà văn Hải Triều không?) đồng tiền cũng đã đổi thay, hoặc giải bài toán chắc chi những học trò nhỏ hiểu được.

     Đã hơn năm mươi năm, bây giờ người học trò xưa đang ngồi ôm tóc trắng… một ngày mưa ngồi buồn chợt nhớ thầy đồ nơi xóm cũ ngày xưa chừ không còn, nhưng bài thơ vẫn còn đọng mãi trong đầu của bài Học thuộc lòng thửa ấy. Bèn tìm giấy giải thử.

       Ngay câu thơ đầu tiên đã gặp ngay vấn nạn.”Một quan tiền tốt mang đi”. Một quan là bao nhiêu? Quan là đồng tiền cổ, những người muôn năm cũ giờ không còn, biết hỏi ai đây? Chợt nghe vang vang trong đầu một bài nhạc của nhạc sĩ Văn Phụng:

       Một quan là sáu trăm đồng.
       Chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi.
(Thơ của Nguyễn Bính).

        Vận dụng cả 4 phép tính cộng trừ nhân chia, đảo xuôi ngược, lên xuống…mãi vẫn không đủ 600 đồng cho một quan tiền!  

        Lại phải đi tìm  trong lịch sử. Trong một ngàn năm Bắc thuộc, dân Việt không có đồng tiền riêng. Mãi đến sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, dân Việt vẫn còn dùng đến đồng tiền của phương Bắc. Đến năm 968, Đinh Bộ Lĩnh sau khi dẹp loạn 2 sứ quân, lên ngôi hoàng đế với đế hiệu Đinh Tiên Hoàng, niên hiệu Thái Bình. Năm 970 nhà vua đã cho đúc những đồng tiền Thái Bình Hưng Bảo. Đây chính là những đồng tiền đầu tiên của người Việt. Từ đó tiếp đến những triều đại sau đều theo.

         Đơn vị để tính tiền xưa gồm có: quan, tiền, đồng. Mỗi quan có giá trị là 10 tiền, mỗi tiền bằng bao nhiêu đồng tùy theo quy định của mỗi thời đại. Theo sử sách giá trị đồng tiền các thời đại như sau:

 1/ Năm 1225, vua Trần Thái Tông định phép dùng tiền. Một quan bằng 10 tiền. Một tiền bằng 70 đồng.
 2/ Năm 1428 vua Lê Thái Tổ cho đúc tiền Thuận Thiên. Một quan bằng 10 tiền. Một tiền bằng 50 đồng.
 3/ Năm 1439, vua Lê Thái Tông quy định 1 quan bằng 10 tiền, 1 tiền bằng 60 đồng.    
   
       Như vậy 1 quan = 10 tiền = 600 đồng.

      Từ đó các triều đại về sau,mỗi khi đúc một loại tiền mới đều theo tỷ lệ này, cho đến cuối triều Nguyễn năm 1945. Chỉ có tên đồng tiền là thay đổi theo tên hiệu.

       Năm 1905, chính quyền bảo hộ Bắc kỳ cho phát hành loại tiền đúc bằng hợp kim kẽm. Loại tiền này mặt trước in chữ Pháp, mặt sau ghi chữ Hán, có giá trị tương đương các loại tiền đồng như Gia Long Thông Bảo, Minh Mệnh Thông Bảo, Thiệu Trị Thông Bảo và Tự Đức Thông Bảo.

       Trong những đời vua sau của nhà Nguyễn còn có thêm hai đồng tiền khác là Khải Định Thông Bảo và Bảo Đại Thông Bảo, hai loại tiền này không đúc như những đồng tiền xưa mà được dập bằng máy dập nhập từ nước Pháp.

         Đến đây chắc chắn là bài toán ẩn bên trong bài ca dao đã giải được. Ghi lại như sau, bên phải là các phép tính đã giải.

   ĐI CHỢ TÍNH TIỀN

     Một quan tiền tốt mang đi,                                                       600    
     Nàng mua những gì chàng tính chẳng ra.
     Thoạt tiên mua ba tiền gà,                                         3×60   =  180
     Tiền rưỡi gạo nếp với ba đồng trầu.                        60+30+3   =   93
     Trở lại mua sáu đồng cau,                                                    =     6
     Tiền rưỡi miếng thịt, giá rau mười đồng.            1,5×60)+10   =   100
     Có gì mà tính chẳng thông?
     Tiền rưỡi gạo tẻ,sáu đồng chè tươi.                   60+30+6        =     96
     Ba mươi đồng rượu chàng ơi,                                                =     30
     Ba mươi đồng mật, hai mươi đồng vàng.                    30+20    =    50
     Hai chén nước mắm rõ ràng,
     Hai bảy mười bốn,kẻo chàng hồ nghi.                          2×7      =    14
     Hăm mốt (21) đồng bột nấu chè,                                           =    21
     Mười đồng nải chuối, chẵn thì một quan.                                 =    10
                                                                    ________________________
                                                                             CỘNG         =   600

      Trong sách QVGKT, bên dưới bài học thuộc lòng này có 3 từ giải nghĩa, ghi nguyên văn như sau:

“GIẢI NGHĨA:    
Tiền tốt       =   tiền tiêu được.
Vàng           =   đồ làm bằng giấy cúng rồi đốt đi.
Hồ nghi        =    ngờ vực,không biết rõ”.
 
   Những giải nghĩa này chỉ để giải thích cho lớp học trò tóc còn để chỏm, dễ hiểu, dễ nhớ. Đi chợ tất phải đem theo tiền, tiền phải có giá trị trong mua bán… là chuyện đương nhiên. Nhưng sao gọi là tiền tốt? Một bài ca dao được lưu truyền, được in trong sách giáo khoa từ lúc ra đời (bản in đầu tiên năm 1927) đến lúc cải tiến thay đổi, không lẽ vì bí vần mà viết vụng thế sao! Thế là người viết phải đi tìm tiếp.

     Có một giai thoại trong văn học về Bà Chúa thơ Nôm. Chuyện kể rằng Hồ Xuân Hương thiếu tiền bèn hỏi mượn của Chiêu Hổ 5 quan để tiêu tạm. Chiêu Hổ gởi tiền đến, đếm hoài vẫn chỉ thấy có 3 quan. Nữ sĩ bèn làm bài thơ trách người cho mượn tiền:

       Sao nói rằng năm chỉ có ba.
       Trách người quân tử hẹn sai ra.
       Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt.
       Nhớ hái cho xin nắm lá đa
.

       Chiêu Hổ họa lại:

       Rằng gián thì năm, quý có ba.
       Bởi người thục nữ tính không ra.
       Ừ rồi thong thả lên chơi nguyệt.
       Cho cả cành đa lẫn củ đa.


      Trong bài họa của Chiêu Hổ có chữ gián và quý. Đây là cơ sở dẫn người viết đi tìm tiếp. Đã “có công tất …chồng không phụ”, kết quả đã tìm được:

      Khoảng thế kỷ 18, dưới triều vua Minh Mạng có hai loại tiền lưu hành. Đó là tiền quý và tiền gián, tỷ lệ như sau: 1 quan quý = 600 đồng.  1 quan gián chỉ bằng 360 đồng.

    Khi hỏi mượn tiền, Hồ Xuân Hương chỉ nói mượn 5 quan, không nói là quan gì. Gặp lúc Chiêu Hổ chắc cũng đang thiếu nên chỉ cho mượn số tiền thấp xuống, nhưng vẫn đủ 5 quan:

           Quan quý :      3×600  =  1800 đồng
                             1800:360 =   5 quan gián    

Giá trị của các loại tiền xưa như thế nào?

Đây là những số liệu về lương tiền dưới triều vua Minh Mạng:

 
       -Quan Nhất Phẩm lãnh mỗi năm 400 quan, 300 phương gạo, 70 quan tiền Xuân Phục, tức tiền áo quần.
       -Quan Chánh ngũ phẩm, hàng tri phủ mỗi năm lương 40 quan, 43 phương gạo, 9 quan tiền Xuân Phục.
       -Lính, thơ lại, phục dịch  …lương mỗi tháng 1quan tiền, 1 phương gạo.
     
    Đồng quan ngày xưa nó to thế. Chẳng trách người ta bỏ …quan ra để mua phẩm hàm ,chức tước…để được làm quan!  Chẳng trách người phụ nữ “thời xưa” (tên khác của bài thơ Trăng sáng vườn chè) quên cả thanh xuân, gác tạm những ẩn ức, dồn nén để một ngày chồng vinh qui về làng… cùng nhau trãi trọn trong một đêm trăng!

    Qua những số liệu vừa tìm được, ta có thể thấy rõ bài ca dao “Đi chợ tính tiền” xuất hiện sớm nhất phải từ thời Minh Mạng. Bởi từ lúc này mới có “Một quan tiền TỐT” mang đi. Tiền tốt chính là tiền quý, phân biệt với tiền gián có giá trị thấp hơn. Cũng thấy được, người phụ nữ trong một buổi chợ quê đã tiêu số tiền bằng lương tháng một người lính. Nhà nàng chắc phải có chuyện quan hôn, kỵ giỗ chi đây!

     Thật thú vị, để giải bài toán ẩn bên trong bài ca dao, đã phải đi loanh quanh, lòng vòng. Gặp những bài thơ hay, giai thoại đẹp, biết thêm vài điều về lịch sử… Nếu không có Internet chắc gì người viết đã giải được bài toán ẩn bên trong bài ca dao cổ ? Chỉ nghĩ đến kho sách phải lục tìm, những thư viện phải đi đến… đã thấy chồn chân chẳng muốn trèo!
Về Đầu Trang Go down
Trăng



Tổng số bài gửi : 1841
Registration date : 23/04/2014

MỘT BÀI CA DAO Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: MỘT BÀI CA DAO   MỘT BÀI CA DAO I_icon13Mon 15 Jan 2024, 15:24

Trà Mi đã viết:
“ĐI CHỢ TÍNH TIỀN” LÀ MỘT BÀI CA DAO LỤC BÁT

Phan Văn Cho

    Bài đã được in làm Bài HọcThuộc Lòng cho học sinh lớp “sơ đẳng” (tức lớp 3) trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư năm 1948. Bài thơ kể chuyện một người phụ nữ đi chợ về, phải trình bày minh bạch, rõ ràng việc chi tiêu với chồng.

    Ngày xưa khi học bài này thầy giáo chỉ nêu đại ý như rứa, đồng thời nêu bật tính đảm đang, khéo vén của người phụ nữ xưa…. sau đó yêu cầu học sinh học thuộc. Thầy không giảng về bài toán ẩn trong bài thơ, có lẽ vì thời thế đã khác (khoảng năm 1958, chưa được vào trường công lập, người viết học với Ông giáo…  ở khoảng giữa cầu An Cựu và lăng Vạn Vạn, không biết có phải là thân sinh của nhà văn Hải Triều không?) đồng tiền cũng đã đổi thay, hoặc giải bài toán chắc chi những học trò nhỏ hiểu được.

     Đã hơn năm mươi năm, bây giờ người học trò xưa đang ngồi ôm tóc trắng… một ngày mưa ngồi buồn chợt nhớ thầy đồ nơi xóm cũ ngày xưa chừ không còn, nhưng bài thơ vẫn còn đọng mãi trong đầu của bài Học thuộc lòng thửa ấy. Bèn tìm giấy giải thử.

       Ngay câu thơ đầu tiên đã gặp ngay vấn nạn.”Một quan tiền tốt mang đi”. Một quan là bao nhiêu? Quan là đồng tiền cổ, những người muôn năm cũ giờ không còn, biết hỏi ai đây? Chợt nghe vang vang trong đầu một bài nhạc của nhạc sĩ Văn Phụng:

       Một quan là sáu trăm đồng.
       Chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi.
(Thơ của Nguyễn Bính).

        Vận dụng cả 4 phép tính cộng trừ nhân chia, đảo xuôi ngược, lên xuống…mãi vẫn không đủ 600 đồng cho một quan tiền!  

        Lại phải đi tìm  trong lịch sử. Trong một ngàn năm Bắc thuộc, dân Việt không có đồng tiền riêng. Mãi đến sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, dân Việt vẫn còn dùng đến đồng tiền của phương Bắc. Đến năm 968, Đinh Bộ Lĩnh sau khi dẹp loạn 2 sứ quân, lên ngôi hoàng đế với đế hiệu Đinh Tiên Hoàng, niên hiệu Thái Bình. Năm 970 nhà vua đã cho đúc những đồng tiền Thái Bình Hưng Bảo. Đây chính là những đồng tiền đầu tiên của người Việt. Từ đó tiếp đến những triều đại sau đều theo.

         Đơn vị để tính tiền xưa gồm có: quan, tiền, đồng. Mỗi quan có giá trị là 10 tiền, mỗi tiền bằng bao nhiêu đồng tùy theo quy định của mỗi thời đại. Theo sử sách giá trị đồng tiền các thời đại như sau:

 1/ Năm 1225, vua Trần Thái Tông định phép dùng tiền. Một quan bằng 10 tiền. Một tiền bằng 70 đồng.
 2/ Năm 1428 vua Lê Thái Tổ cho đúc tiền Thuận Thiên. Một quan bằng 10 tiền. Một tiền bằng 50 đồng.
 3/ Năm 1439, vua Lê Thái Tông quy định 1 quan bằng 10 tiền, 1 tiền bằng 60 đồng.    
   
       Như vậy 1 quan = 10 tiền = 600 đồng.

      Từ đó các triều đại về sau,mỗi khi đúc một loại tiền mới đều theo tỷ lệ này, cho đến cuối triều Nguyễn năm 1945. Chỉ có tên đồng tiền là thay đổi theo tên hiệu.

       Năm 1905, chính quyền bảo hộ Bắc kỳ cho phát hành loại tiền đúc bằng hợp kim kẽm. Loại tiền này mặt trước in chữ Pháp, mặt sau ghi chữ Hán, có giá trị tương đương các loại tiền đồng như Gia Long Thông Bảo, Minh Mệnh Thông Bảo, Thiệu Trị Thông Bảo và Tự Đức Thông Bảo.

       Trong những đời vua sau của nhà Nguyễn còn có thêm hai đồng tiền khác là Khải Định Thông Bảo và Bảo Đại Thông Bảo, hai loại tiền này không đúc như những đồng tiền xưa mà được dập bằng máy dập nhập từ nước Pháp.

         Đến đây chắc chắn là bài toán ẩn bên trong bài ca dao đã giải được. Ghi lại như sau, bên phải là các phép tính đã giải.

   ĐI CHỢ TÍNH TIỀN

     Một quan tiền tốt mang đi,                                                       600    
     Nàng mua những gì chàng tính chẳng ra.
     Thoạt tiên mua ba tiền gà,                                         3×60   =  180
     Tiền rưỡi gạo nếp với ba đồng trầu.                        60+30+3   =   93
     Trở lại mua sáu đồng cau,                                                    =     6
     Tiền rưỡi miếng thịt, giá rau mười đồng.            1,5×60)+10   =   100
     Có gì mà tính chẳng thông?
     Tiền rưỡi gạo tẻ,sáu đồng chè tươi.                   60+30+6        =     96
     Ba mươi đồng rượu chàng ơi,                                                =     30
     Ba mươi đồng mật, hai mươi đồng vàng.                    30+20    =    50
     Hai chén nước mắm rõ ràng,
     Hai bảy mười bốn,kẻo chàng hồ nghi.                          2×7      =    14
     Hăm mốt (21) đồng bột nấu chè,                                           =    21
     Mười đồng nải chuối, chẵn thì một quan.                                 =    10
                                                                    ________________________
                                                                             CỘNG         =   600

      Trong sách QVGKT, bên dưới bài học thuộc lòng này có 3 từ giải nghĩa, ghi nguyên văn như sau:

“GIẢI NGHĨA:    
Tiền tốt       =   tiền tiêu được.
Vàng           =   đồ làm bằng giấy cúng rồi đốt đi.
Hồ nghi        =    ngờ vực,không biết rõ”.
 
   Những giải nghĩa này chỉ để giải thích cho lớp học trò tóc còn để chỏm, dễ hiểu, dễ nhớ. Đi chợ tất phải đem theo tiền, tiền phải có giá trị trong mua bán… là chuyện đương nhiên. Nhưng sao gọi là tiền tốt? Một bài ca dao được lưu truyền, được in trong sách giáo khoa từ lúc ra đời (bản in đầu tiên năm 1927) đến lúc cải tiến thay đổi, không lẽ vì bí vần mà viết vụng thế sao! Thế là người viết phải đi tìm tiếp.

     Có một giai thoại trong văn học về Bà Chúa thơ Nôm. Chuyện kể rằng Hồ Xuân Hương thiếu tiền bèn hỏi mượn của Chiêu Hổ 5 quan để tiêu tạm. Chiêu Hổ gởi tiền đến, đếm hoài vẫn chỉ thấy có 3 quan. Nữ sĩ bèn làm bài thơ trách người cho mượn tiền:

       Sao nói rằng năm chỉ có ba.
       Trách người quân tử hẹn sai ra.
       Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt.
       Nhớ hái cho xin nắm lá đa
.

       Chiêu Hổ họa lại:

       Rằng gián thì năm, quý có ba.
       Bởi người thục nữ tính không ra.
       Ừ rồi thong thả lên chơi nguyệt.
       Cho cả cành đa lẫn củ đa.


      Trong bài họa của Chiêu Hổ có chữ gián và quý. Đây là cơ sở dẫn người viết đi tìm tiếp. Đã “có công tất …chồng không phụ”, kết quả đã tìm được:

      Khoảng thế kỷ 18, dưới triều vua Minh Mạng có hai loại tiền lưu hành. Đó là tiền quý và tiền gián, tỷ lệ như sau: 1 quan quý = 600 đồng.  1 quan gián chỉ bằng 360 đồng.

    Khi hỏi mượn tiền, Hồ Xuân Hương chỉ nói mượn 5 quan, không nói là quan gì. Gặp lúc Chiêu Hổ chắc cũng đang thiếu nên chỉ cho mượn số tiền thấp xuống, nhưng vẫn đủ 5 quan:

           Quan quý :      3×600  =  1800 đồng
                             1800:360 =   5 quan gián    

Giá trị của các loại tiền xưa như thế nào?

Đây là những số liệu về lương tiền dưới triều vua Minh Mạng:

 
       -Quan Nhất Phẩm lãnh mỗi năm 400 quan, 300 phương gạo, 70 quan tiền Xuân Phục, tức tiền áo quần.
       -Quan Chánh ngũ phẩm, hàng tri phủ mỗi năm lương 40 quan, 43 phương gạo, 9 quan tiền Xuân Phục.
       -Lính, thơ lại, phục dịch  …lương mỗi tháng 1quan tiền, 1 phương gạo.
     
    Đồng quan ngày xưa nó to thế. Chẳng trách người ta bỏ …quan ra để mua phẩm hàm ,chức tước…để được làm quan!  Chẳng trách người phụ nữ “thời xưa” (tên khác của bài thơ Trăng sáng vườn chè) quên cả thanh xuân, gác tạm những ẩn ức, dồn nén để một ngày chồng vinh qui về làng… cùng nhau trãi trọn trong một đêm trăng!

    Qua những số liệu vừa tìm được, ta có thể thấy rõ bài ca dao “Đi chợ tính tiền” xuất hiện sớm nhất phải từ thời Minh Mạng. Bởi từ lúc này mới có “Một quan tiền TỐT” mang đi. Tiền tốt chính là tiền quý, phân biệt với tiền gián có giá trị thấp hơn. Cũng thấy được, người phụ nữ trong một buổi chợ quê đã tiêu số tiền bằng lương tháng một người lính. Nhà nàng chắc phải có chuyện quan hôn, kỵ giỗ chi đây!

     Thật thú vị, để giải bài toán ẩn bên trong bài ca dao, đã phải đi loanh quanh, lòng vòng. Gặp những bài thơ hay, giai thoại đẹp, biết thêm vài điều về lịch sử… Nếu không có Internet chắc gì người viết đã giải được bài toán ẩn bên trong bài ca dao cổ ? Chỉ nghĩ đến kho sách phải lục tìm, những thư viện phải đi đến… đã thấy chồn chân chẳng muốn trèo
 đi chợ đã mệt rồi mà dìa nhà còn phải tính toán nữa chắc tiêu hết thanh xuân á tỷ 
Về Đầu Trang Go down
Ai Hoa

Ai Hoa

Tổng số bài gửi : 10556
Registration date : 23/11/2007

MỘT BÀI CA DAO Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: MỘT BÀI CA DAO   MỘT BÀI CA DAO I_icon13Tue 16 Jan 2024, 09:02

Trăng đã viết:
Trà Mi đã viết:
“ĐI CHỢ TÍNH TIỀN” LÀ MỘT BÀI CA DAO LỤC BÁT

Phan Văn Cho

    Bài đã được in làm Bài HọcThuộc Lòng cho học sinh lớp “sơ đẳng” (tức lớp 3) trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư năm 1948. Bài thơ kể chuyện một người phụ nữ đi chợ về, phải trình bày minh bạch, rõ ràng việc chi tiêu với chồng.

    Ngày xưa khi học bài này thầy giáo chỉ nêu đại ý như rứa, đồng thời nêu bật tính đảm đang, khéo vén của người phụ nữ xưa…. sau đó yêu cầu học sinh học thuộc. Thầy không giảng về bài toán ẩn trong bài thơ, có lẽ vì thời thế đã khác (khoảng năm 1958, chưa được vào trường công lập, người viết học với Ông giáo…  ở khoảng giữa cầu An Cựu và lăng Vạn Vạn, không biết có phải là thân sinh của nhà văn Hải Triều không?) đồng tiền cũng đã đổi thay, hoặc giải bài toán chắc chi những học trò nhỏ hiểu được.

     Đã hơn năm mươi năm, bây giờ người học trò xưa đang ngồi ôm tóc trắng… một ngày mưa ngồi buồn chợt nhớ thầy đồ nơi xóm cũ ngày xưa chừ không còn, nhưng bài thơ vẫn còn đọng mãi trong đầu của bài Học thuộc lòng thửa ấy. Bèn tìm giấy giải thử.

       Ngay câu thơ đầu tiên đã gặp ngay vấn nạn.”Một quan tiền tốt mang đi”. Một quan là bao nhiêu? Quan là đồng tiền cổ, những người muôn năm cũ giờ không còn, biết hỏi ai đây? Chợt nghe vang vang trong đầu một bài nhạc của nhạc sĩ Văn Phụng:

       Một quan là sáu trăm đồng.
       Chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi.
(Thơ của Nguyễn Bính).

        Vận dụng cả 4 phép tính cộng trừ nhân chia, đảo xuôi ngược, lên xuống…mãi vẫn không đủ 600 đồng cho một quan tiền!  

        Lại phải đi tìm  trong lịch sử. Trong một ngàn năm Bắc thuộc, dân Việt không có đồng tiền riêng. Mãi đến sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, dân Việt vẫn còn dùng đến đồng tiền của phương Bắc. Đến năm 968, Đinh Bộ Lĩnh sau khi dẹp loạn 2 sứ quân, lên ngôi hoàng đế với đế hiệu Đinh Tiên Hoàng, niên hiệu Thái Bình. Năm 970 nhà vua đã cho đúc những đồng tiền Thái Bình Hưng Bảo. Đây chính là những đồng tiền đầu tiên của người Việt. Từ đó tiếp đến những triều đại sau đều theo.

         Đơn vị để tính tiền xưa gồm có: quan, tiền, đồng. Mỗi quan có giá trị là 10 tiền, mỗi tiền bằng bao nhiêu đồng tùy theo quy định của mỗi thời đại. Theo sử sách giá trị đồng tiền các thời đại như sau:

 1/ Năm 1225, vua Trần Thái Tông định phép dùng tiền. Một quan bằng 10 tiền. Một tiền bằng 70 đồng.
 2/ Năm 1428 vua Lê Thái Tổ cho đúc tiền Thuận Thiên. Một quan bằng 10 tiền. Một tiền bằng 50 đồng.
 3/ Năm 1439, vua Lê Thái Tông quy định 1 quan bằng 10 tiền, 1 tiền bằng 60 đồng.    
   
       Như vậy 1 quan = 10 tiền = 600 đồng.

      Từ đó các triều đại về sau,mỗi khi đúc một loại tiền mới đều theo tỷ lệ này, cho đến cuối triều Nguyễn năm 1945. Chỉ có tên đồng tiền là thay đổi theo tên hiệu.

       Năm 1905, chính quyền bảo hộ Bắc kỳ cho phát hành loại tiền đúc bằng hợp kim kẽm. Loại tiền này mặt trước in chữ Pháp, mặt sau ghi chữ Hán, có giá trị tương đương các loại tiền đồng như Gia Long Thông Bảo, Minh Mệnh Thông Bảo, Thiệu Trị Thông Bảo và Tự Đức Thông Bảo.

       Trong những đời vua sau của nhà Nguyễn còn có thêm hai đồng tiền khác là Khải Định Thông Bảo và Bảo Đại Thông Bảo, hai loại tiền này không đúc như những đồng tiền xưa mà được dập bằng máy dập nhập từ nước Pháp.

         Đến đây chắc chắn là bài toán ẩn bên trong bài ca dao đã giải được. Ghi lại như sau, bên phải là các phép tính đã giải.

   ĐI CHỢ TÍNH TIỀN

     Một quan tiền tốt mang đi,                                                       600    
     Nàng mua những gì chàng tính chẳng ra.
     Thoạt tiên mua ba tiền gà,                                         3×60   =  180
     Tiền rưỡi gạo nếp với ba đồng trầu.                        60+30+3   =   93
     Trở lại mua sáu đồng cau,                                                    =     6
     Tiền rưỡi miếng thịt, giá rau mười đồng.            1,5×60)+10   =   100
     Có gì mà tính chẳng thông?
     Tiền rưỡi gạo tẻ,sáu đồng chè tươi.                   60+30+6        =     96
     Ba mươi đồng rượu chàng ơi,                                                =     30
     Ba mươi đồng mật, hai mươi đồng vàng.                    30+20    =    50
     Hai chén nước mắm rõ ràng,
     Hai bảy mười bốn,kẻo chàng hồ nghi.                          2×7      =    14
     Hăm mốt (21) đồng bột nấu chè,                                           =    21
     Mười đồng nải chuối, chẵn thì một quan.                                 =    10
                                                                    ________________________
                                                                             CỘNG         =   600

      Trong sách QVGKT, bên dưới bài học thuộc lòng này có 3 từ giải nghĩa, ghi nguyên văn như sau:

“GIẢI NGHĨA:    
Tiền tốt       =   tiền tiêu được.
Vàng           =   đồ làm bằng giấy cúng rồi đốt đi.
Hồ nghi        =    ngờ vực,không biết rõ”.
 
   Những giải nghĩa này chỉ để giải thích cho lớp học trò tóc còn để chỏm, dễ hiểu, dễ nhớ. Đi chợ tất phải đem theo tiền, tiền phải có giá trị trong mua bán… là chuyện đương nhiên. Nhưng sao gọi là tiền tốt? Một bài ca dao được lưu truyền, được in trong sách giáo khoa từ lúc ra đời (bản in đầu tiên năm 1927) đến lúc cải tiến thay đổi, không lẽ vì bí vần mà viết vụng thế sao! Thế là người viết phải đi tìm tiếp.

     Có một giai thoại trong văn học về Bà Chúa thơ Nôm. Chuyện kể rằng Hồ Xuân Hương thiếu tiền bèn hỏi mượn của Chiêu Hổ 5 quan để tiêu tạm. Chiêu Hổ gởi tiền đến, đếm hoài vẫn chỉ thấy có 3 quan. Nữ sĩ bèn làm bài thơ trách người cho mượn tiền:

       Sao nói rằng năm chỉ có ba.
       Trách người quân tử hẹn sai ra.
       Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt.
       Nhớ hái cho xin nắm lá đa
.

       Chiêu Hổ họa lại:

       Rằng gián thì năm, quý có ba.
       Bởi người thục nữ tính không ra.
       Ừ rồi thong thả lên chơi nguyệt.
       Cho cả cành đa lẫn củ đa.


      Trong bài họa của Chiêu Hổ có chữ gián và quý. Đây là cơ sở dẫn người viết đi tìm tiếp. Đã “có công tất …chồng không phụ”, kết quả đã tìm được:

      Khoảng thế kỷ 18, dưới triều vua Minh Mạng có hai loại tiền lưu hành. Đó là tiền quý và tiền gián, tỷ lệ như sau: 1 quan quý = 600 đồng.  1 quan gián chỉ bằng 360 đồng.

    Khi hỏi mượn tiền, Hồ Xuân Hương chỉ nói mượn 5 quan, không nói là quan gì. Gặp lúc Chiêu Hổ chắc cũng đang thiếu nên chỉ cho mượn số tiền thấp xuống, nhưng vẫn đủ 5 quan:

           Quan quý :      3×600  =  1800 đồng
                             1800:360 =   5 quan gián    

Giá trị của các loại tiền xưa như thế nào?

Đây là những số liệu về lương tiền dưới triều vua Minh Mạng:

 
       -Quan Nhất Phẩm lãnh mỗi năm 400 quan, 300 phương gạo, 70 quan tiền Xuân Phục, tức tiền áo quần.
       -Quan Chánh ngũ phẩm, hàng tri phủ mỗi năm lương 40 quan, 43 phương gạo, 9 quan tiền Xuân Phục.
       -Lính, thơ lại, phục dịch  …lương mỗi tháng 1quan tiền, 1 phương gạo.
     
    Đồng quan ngày xưa nó to thế. Chẳng trách người ta bỏ …quan ra để mua phẩm hàm ,chức tước…để được làm quan!  Chẳng trách người phụ nữ “thời xưa” (tên khác của bài thơ Trăng sáng vườn chè) quên cả thanh xuân, gác tạm những ẩn ức, dồn nén để một ngày chồng vinh qui về làng… cùng nhau trãi trọn trong một đêm trăng!

    Qua những số liệu vừa tìm được, ta có thể thấy rõ bài ca dao “Đi chợ tính tiền” xuất hiện sớm nhất phải từ thời Minh Mạng. Bởi từ lúc này mới có “Một quan tiền TỐT” mang đi. Tiền tốt chính là tiền quý, phân biệt với tiền gián có giá trị thấp hơn. Cũng thấy được, người phụ nữ trong một buổi chợ quê đã tiêu số tiền bằng lương tháng một người lính. Nhà nàng chắc phải có chuyện quan hôn, kỵ giỗ chi đây!

     Thật thú vị, để giải bài toán ẩn bên trong bài ca dao, đã phải đi loanh quanh, lòng vòng. Gặp những bài thơ hay, giai thoại đẹp, biết thêm vài điều về lịch sử… Nếu không có Internet chắc gì người viết đã giải được bài toán ẩn bên trong bài ca dao cổ ? Chỉ nghĩ đến kho sách phải lục tìm, những thư viện phải đi đến… đã thấy chồn chân chẳng muốn trèo
 đi chợ đã mệt rồi mà dìa nhà còn phải tính toán nữa chắc tiêu hết thanh xuân á tỷ 

thanh xuân chưa tiêu mà đã tiêu hết tiền á T. :tongue:

nhà em AH đưa tiền người giúp việc đi chợ mà cứ bị lén cắt xén bớt, sau phát hiện ra đuổi luôn! :potay:

_________________________
MỘT BÀI CA DAO Love10

Sông rồi cạn, núi rồi mòn
Thân về cát bụi, tình còn hư không
Về Đầu Trang Go down
buixuanphuong09

buixuanphuong09

Tổng số bài gửi : 37042
Age : 85
Registration date : 28/02/2012

MỘT BÀI CA DAO Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: MỘT BÀI CA DAO   MỘT BÀI CA DAO I_icon13Sun 28 Jan 2024, 09:40

Đọc trang này thấy thích quá. Bao ngày mắt mờ, giờ được đọc... Sướng quá!
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content




MỘT BÀI CA DAO Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: MỘT BÀI CA DAO   MỘT BÀI CA DAO I_icon13

Về Đầu Trang Go down
 
MỘT BÀI CA DAO
Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
daovien.net :: GIẢI TRÍ :: Quê Hương yêu dấu :: Phong tục tập quán-