Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesVietUniĐăng kýĐăng Nhập
Bài viết mới
Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Yesterday at 16:41

Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Thu 25 Apr 2024, 18:57

Thi tập "Chỉ là...Tình thơ" by Tú_Yên tv Thu 25 Apr 2024, 12:56

Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Thu 25 Apr 2024, 12:51

Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Thu 25 Apr 2024, 12:46

LỀU THƠ NHẠC by Thiên Hùng Wed 24 Apr 2024, 11:55

Quán Tạp Kỹ - Đồng Bằng Nam Bộ by Thiên Hùng Wed 24 Apr 2024, 11:48

Trụ vững duyên thầy by Trà Mi Tue 23 Apr 2024, 07:34

Mái Nhà Chung by Trà Mi Tue 23 Apr 2024, 07:33

THIỀN TUỆ (diệt trừ đau khổ) by mytutru Tue 23 Apr 2024, 00:07

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 09:57

Nhận dạng phụ nữ giàu có by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 08:36

Bức tranh gia đình by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 08:09

Mẹo kho thịt by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 07:29

SẦU LY BIỆT by Phương Nguyên Sun 21 Apr 2024, 23:01

Trang Họa thơ Phương Nguyên 2 by Phương Nguyên Sun 21 Apr 2024, 22:56

Trang viết cuối đời by buixuanphuong09 Sun 21 Apr 2024, 06:38

Mức thù lao không ai dám nghĩ đến by Trà Mi Wed 17 Apr 2024, 11:28

KHÔNG ĐỀ by Phương Nguyên Wed 17 Apr 2024, 11:00

Cách xem tướng mạo phụ nữ ngoại tình, không chung thủy by mytutru Tue 16 Apr 2024, 11:59

Ở NHÀ MỘT MÌNH by Phương Nguyên Tue 16 Apr 2024, 09:59

HÁ MIỆNG CHỜ SUNG by Phương Nguyên Sun 14 Apr 2024, 13:29

Trang thơ vui Phạm Bá Chiểu by phambachieu Fri 12 Apr 2024, 15:48

Những Đoá Từ Tâm by Việt Đường Fri 12 Apr 2024, 15:32

Chết rồi! by Phương Nguyên Fri 12 Apr 2024, 13:57

ĐÔI BÀN TAY NGHỆ NHÂN by mytutru Thu 11 Apr 2024, 17:43

THẬN TRỌNG SIÊU LỪA by mytutru Wed 10 Apr 2024, 20:33

Không đánh, không mắng, không phạt, không có học sinh ưu tú by Trà Mi Wed 10 Apr 2024, 11:45

KHÓ NGỦ by Phương Nguyên Wed 10 Apr 2024, 01:46

MỘT CHÚT BUỒN by Phương Nguyên Tue 09 Apr 2024, 15:33

Tự điển
* Tự Điển Hồ Ngọc Đức



* Tự Điển Hán Việt
Hán Việt
Thư viện nhạc phổ
Tân nhạc ♫
Nghe Nhạc
Cải lương, Hài kịch
Truyện Audio
Âm Dương Lịch
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
Đăng Nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập: 
:: Quên mật khẩu

Share | 
 

 Mái Nhà Xưa

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Chuyển đến trang : 1, 2  Next
Tác giảThông điệp
nhanbkvn



Tổng số bài gửi : 1612
Registration date : 16/07/2012

Mái Nhà Xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Mái Nhà Xưa   Mái Nhà Xưa I_icon13Sun 05 Jan 2014, 22:23

Mái Nhà Xưa Ckpptg59zkixylo94

Thông tin ebook
Tên truyện : Mái Nhà Xưa
Tác giả : Bích Thùy
Thể loại : Văn học trong nước
Nhà xuất bản : Xuân Thu
Tủ sách : Tuổi Hoa - Hoa Xanh
Số quyển / 1 bộ : 1
Hình thức bìa : Bìa mềm
----------------------------------


Chương I
 

Tôi không thể nào quên được buổi nói chuyện với cô tôi chiều hôm ấy. Buổi chiều quận lỵ vẫn buồn, nhất là vào lúc mặt trời lịm tắt. Chiều tím dâng lên, quạnh hiu len lén theo về thường gợi nên những cảm xúc bâng khuâng man mác.
Cô cháu tôi vẫn có thói quen, cứ mỗi chiều ra ngoài hàng hiên nhìn ra thửa vườn trải rộng trước nhà, vừa hóng mát vừa chuyện trò thủ thỉ với nhau. Đó là những chiều hạnh phúc, những giây phút êm đềm trong suốt quãng đời thơ ấu của tôi.
Cô tôi là một góa phụ. Duyên phận của cô tôi thực hẩm hiu. Chú tôi sớm lìa trần giữa lúc cô tôi còn xuân sắc, và không để lại cho cô đứa con nào. Cô là em ruột của cha tôi, và vì cha mẹ tôi gặp nạn chết cả hai trong một vụ đắm tàu, nên cô tôi nuôi dưỡng tôi từ nhỏ tới nay. Cô không thể nào quên được đêm hãi hùng đó, một đêm giông bão đã chôn vùi người anh thân yêu của cô vào lòng biển cả. Cô là người sống sót và may thay cứu thoát được tôi.
Từ đó cô ấp ủ tôi trong tình thương yêu ruột thịt, quãng đời thơ ấu của tôi trôi qua êm đềm ở quận Phong Điền này, nơi cô tôi được bổ đến dạy học và lập nên sản nghiệp gồm mấy mẫu vườn với một ngôi nhà khá khang trang.
Chiều chiều cô cháu tôi ngồi trước hiên nhà. Tôi lơ đãng nhìn những tia vàng thoi thóp ngoài vườn, thả hồn theo những cánh chim bay về tổ, tâm trí thanh thản, yên vui bên cạnh cô tôi. Cô tôi thường đem chuyện đắm tàu ra kể, hình như tai nạn đau buồn xảy ra cách đây trên mười năm vẫn còn là một kỷ niệm chưa phai. Chuyện đã xa rồi, cái đêm hãi hùng đó. Nhưng qua lời cô tôi kể lại, tôi vẫn thấy xúc động. Tuổi khôn hiểu biết, tôi ý thức được mặc dù cô tôi rất mực thương yêu tôi nhưng tôi vẫn là một đứa con côi.
Tôi ray rứt muốn biết hai đấng sinh thành của tôi ra sao, thuộc hạng người nào? Tôi thường hỏi cô tôi có còn nhớ gương mặt của Ba tôi không? Ba tôi hiền hay dữ? Còn Má tôi đẹp xấu thế nào? Tôi giống Ba tôi hay Má tôi?
Những câu hỏi tương tự, liên quan ít nhiều đến hai người quá cố, làm cô tôi bùi ngùi. Cô rưng rưng nước mắt vuốt ve tôi, mô tả đại khái: Tôi có cặp mắt giống cha, cặp mắt to đen biểu lộ tính ôn hòa ngay thẳng, có cái miệng giống mẹ, lúc cười tươi như... cái hoa rau muống! Dễ thương vô cùng!
Bao nhiêu câu hỏi với bao nhiêu chi tiết được trả lời tôi vẫn không hình dung nổi cha mẹ tôi ra sao. Điều bất hạnh là cô tôi không giữ được tấm ảnh nào của cha mẹ tôi cả.
Tôi cũng biết thêm rằng cha tôi là một nhà giáo, gốc người miền Bắc. Hồi tôi mới sinh ra, cha tôi đang dạy học ở một trường Trung học thuộc tỉnh Nghệ An. Cô tôi lúc ấy theo chồng vào Nam lập nghiệp rồi trở thành góa phụ. Được tin anh chị mới sinh cháu, cô ra thăm. Rồi sẵn dịp bãi trường cô đón cha mẹ tôi vào nghỉ hè với cô luôn.
Con tàu chúng tôi đi là con tàu định mệnh. Đáng lý chúng tôi có thể đi bằng đường hỏa xạ, nhưng cha tôi lại muốn du hành bằng đường thủy. Ông muốn nhân dịp nhà rỗi lênh đênh ít ngày với trời cao biển rộng. Chúng tôi xuống tàu Bạch Phượng của hãng Ba Sao đang cất hàng tại Bến Thủy. Tàu rời bến yên ổn. Qua đêm hôm sau khi vào hải phận Nha Trang thì giông bão nổi lên. Bị lạc hướng, chiếc Bạch Phượng va vào đá ngầm, chìm lỉm. Chỉ một số ít người sống sót, trong số đó có cô cháu tôi.
Cuộc đời đầu tiên của tôi thực bi đát. Nhưng bù lại tôi được cô tôi cưng chiều và coi như con ruột. Mái nhà này, khu vườn xây trái này, quận lỵ nhỏ bé này bây giờ là quê hương của tôi. Tôi đang hưởng trọn hạnh phúc bên cạnh cô tôi, sống thanh thản với các bạn bè trong lớp học thì... Bỗng nhiên cô tôi cho tôi biết một sự thực phũ phàng!

*

Cô tôi đặt tách nước trà xuống mặt bàn. Tách nước được nhắc lên nhắc xuống nhiều lần nhưng vẫn còn đầy. Hình như cô tôi chỉ nhấm nháp cho khỏi khô miệng chứ không uống. Tôi để ý nhìn cô. Gương mặt cô xanh tái. Cách đây vài tuần cô tôi gặp một tai nạn bất ngờ. Hôm ấy nhằm ngày chủ nhật, cô tôi lấy xe, đạp lên chợ quận mua ít thức cần dùng. (Tuy đã ngoài bốn mươi, cô tôi vẫn còn khoẻ mạnh tháo vát lắm). Đang đi bỗng một con nghé bỏ bờ cỏ ven đường chạy ngang sang bên kia tìm mẹ. Vội tránh con vật, cô tôi lạng tay lái, phóng ngã xuống ruộng. Cô tôi ngất đi vì đau. May thay, có người trông thấy vội khiêng vào nhà thương. Ông cán sự y tế tận tâm băng bó, chạy chữa và rất hài lòng về kết quả điều trị của ông. Chỉ sau một tuần nằm bệnh xá cô tôi đã bình phục. Nhưng sau tai nạn bất ngờ ấy, cô tôi có vẻ băn khoăn, trầm lặng trái với tính vui vẻ, cởi mở của cô thường ngày.
Thấy vẻ khác lạ nơi cô, tôi lo lắng hỏi:
- Cô sao thế? Cô có mệt không?
Cô tôi lắc đầu:
- Cô không sao cả con ạ!
Tôi chưa tin, khẩn khoản:
- Hay cô vô trong nhà nằm nghỉ chút đi. Con đỡ cô vào nhé?
- Con cứ để cô ngồi ngoài nầy, Khánh ạ, (Khánh là tên tôi). Con cũng ngồi yên đó đi.
Tôi ngồi yên nhìn sửng cô tôi. Cô tiếp:
- Cô định nói với con một chuyện... song... khó nói quá! Cô muốn thú thật với con một điều mà chẳng biết có nên không?
Tôi nắm lấy tay cô tôi:
- Có chuyện gì mà khó nói? Có chuyện gì mà cô phải thú thật với con? Con là con của cô mà!
Bàn tay cô tôi ẩm mồ hôi. Cô thẫn thờ nói:
- Ừ, Khánh là con của cô. Cô vẫn cám ơn Trời Phật đã ban cho cô có con ở bên cạnh. Tại cô thương con nên cô mới lưỡng lự như cô đã lưỡng lự từ trước đến nay. Có một sự thật mà cô nghĩ... không thể che dấu mãi được... Con có biết năm nay con bao nhiêu tuổi rồi không?
Trời! Tôi bao nhiêu tuổi? Không chừng cô tôi lẩn thẩn mất rồi!
Tôi đáp:
- Năm nay con 15 tuổi.
- Phải, mười lăm năm trời trôi qua! Con đã lớn khôn, khoẻ mạnh... Cô tin rằng điều cô sắp nói không làm con kinh sợ...
Tôi lo ngại thầm nghĩ: Có lẽ tai nạn vừa qua đã làm thần kinh của cô xáo trộn? Người ta thường bảo: Những người lớn tuổi bị ngã, đầu va mạnh xuống đất, có thể bị lãng trí. Liệu cô tôi có ở trong trường hợp này không?
Tôi lắc tay cô:
- Cô nói gì vậy, cô? Cô làm con sợ quá hà!
Trầm ngâm giây lát, cô tôi thở dài, nói:
- Con nên hiểu cho tình cảnh của cô lúc ấy...
- Lúc ấy là lúc nào?
- Lúc xảy ra vụ đắm tàu...
Tôi thở ra:
- Lại chuyện đó nữa! Thì cô đã kể hết con nghe rồi. Con biết cha mẹ con đã chết cả. Con chỉ còn lại có mình cô. Con được cô thương yêu chăm sóc như con ruột, thế là đủ rồi.
- Đúng thế, nhưng còn một chi tiết cô chưa nói cho con biết... về một đứa trẻ...
Giọng cô tôi trở nên khó khăn. Cô nói như mê sảng:
-... Một đứa con trai... bụ bẫm, kháu khỉnh... Lúc nước ùa vào tàu, mọi người hoảng hốt, tán loạn... Trời, cháu không thể nào tưởng tượng nổi đêm kinh hoàng đó đâu.
- Ủa... Cô nói đứa con trai nào?
- Đứa nhỏ lạc vào tay một người đàn bà lạ... Tàu nặng, sóng lớn... ai cũng cuống lên, lo cứu lấy mạng mình, nhất là các bà mẹ có con còn kêu gào thê thảm. Phần đông gia đình bị lạc nhau. Mạnh ai người ấy nhảy xuống xuống cấp cứu, hoặc vớ lấy những chiếc phao, được thả xuống nước. Một chiếc xuồng đầy người bị ngọn sóng nhận chìm trước mắt cô. Người đàn bà bồng đứa nhỏ ở trên chiếc xuống đó. Cô thấy rõ ràng nhờ ánh đèn pha trên tàu chiếu xuống. Đứa nhỏ còn mặc chiếc áo len màu đỏ chính tay cô đan cho nó...
Cô tôi bưng mặt khóc. Tôi quàng tay ôm trọn vai cô:
- Cô bình tĩnh lại đi, cô...
Nhưng một cảm giác giá lạnh xâm nhập vào cơ thể tôi. Tôi không thể nào không hỏi:
- Đứa bé mặc chiếc áo len đỏ đó là ai vậy cô?
- Nó là thằng Cường, cháu của cô, con đẻ của người anh cùng đi với cô một chuyến tàu.
- Ồ!... Như vậy Cường là anh em với con hả cô?
- Không, Khánh ơi! Cô chỉ có mình nó là cháu ruột... chỉ mình nó mà thôi.
Tôi lặng người, run giọng:
- Không, không phải! Chính con mới là cháu ruột của cô.
Tuy nhiên tôi hiểu ngay rằng cô tôi đã nói thật, và tôi không thể nào ngăn nổi nước mắt. Tôi ngồi khóc với cô tôi, nghẹn ngào, nức nở.
Bản tính tôi không yếu đuối, nhưng sự thật cô tôi vừa nói đã gây xúc động mãnh liệt trong lòng tôi. Cô tôi nói:
- Cô tính nói thật khéo cho con hiểu, mà cô vụng về quá. Con đừng buồn nghe Khánh!
Tôi nước nước mắt:
- Sự thật đã như vậy, cô hãy cho con biết con là ai?
- Cô cũng không rõ nữa. Hồi đó con là một hài nhi bị lạc. Một thủy thủ trên tàu bồng con, bối rối, không biết trao trả cho ai, luôn miệng hỏi:
"Đứa trẻ này của ai đây?"
Cô liền nói: "Của tôi". Và cô đón lấy con... nuôi cho tới bây giờ.
- Còn cha mẹ con đâu?
Cô tôi buồn bã lắc đầu:
- Chẳng biết sống chết ra sao nữa! Sau tai nạn, cô có dọ hỏi, tìm kiếm... Đất nước ta hồi ấy xảy ra nhiều biến cố quan trọng. Cuộc di cư của một triệu dân miền bắc vĩ tuyến vào Nam đã làm xáo trộn tất cả. Không ai nhớ đến vụ đắm tàu và số ít người mất tích ở ngoài khơi xảy ra trước đó nữa. Sự dò hỏi của cô qua các cơ quan liên hệ không đem lại kết quả nào. Hãng tàu còn lo chuyên chở những người di cư, vấn đề cấp bách và quan trọng hơn việc tìm kiếm thân nhân một đứa trẻ bị thất lạc. Điều làm lương tâm cô áy náy không yên là cô đã không mấy sốt sắng, kiên trì trong việc tìm kiếm cha mẹ của cháu.
Cô muốn giữ con, để mọi người lầm tưởng con đích thật là cháu ruột của cô. Hồi chị dâu của cô, má thằng Cường, sinh ra nó, cô có khoe với mọi người, nhưng không ai biết đứa cháu ấy là trai hay gái...
Tôi thở dài:
- Con hiểu rồi! Cô muốn con thay thế cho... Cường! Thế từ dạo ấy đến nay có ai tìm kiếm con không?
- Không!
Tai tôi ù đi, đầu óc choáng váng. Mới trước đây một tiếng đồng hồ, tôi còn có gia đình, có quê hương, có tên gọi. Tôi đang sống hạnh phúc, yên trí rằng tôi là Nguyễn Bảo Khánh, cháu gái bà Nguyễn Thục Trinh... Rồi bỗng nhiên tất cả đảo lộn. Tôi là ai đây, hở trời! Tôi là một con người không có tông tích. Nguyễn Bảo Khánh đâu phải tên thật của tôi!
Cô tôi vẫn ôm mặt khóc, âm thầm nức nở. Tôi thấy cô thật tội nghiệp. Tôi nghẹn ngào nói:
- Cô đừng khóc. Con không oán trách gì cô đâu. Cô chẳng đã là mẹ của con sao?
Cô ôm chầm lấy tôi:
- Cô biết con thương cô, và cô cũng thương con lắm. Con đừng nghĩ ngợi làm gì cho khổ tâm nghe con!
- Làm sao con không nghĩ ngợi cho được! Nhưng tại sao cô không giữ kín sự thật ấy luôn, lại nói ra cho khổ cả cô lẫn cháu?
- Tại cô sợ. Tai nạn vừa qua tuy là một cái nạn nhỏ, rất tầm thường cũng làm cô suýt chết. Bởi vậy, cô cứ băn khoăn về hành động của cô đã làm, dù chỉ để tạo hạnh phúc chung của chúng ta. Bây giờ cô đã cho Khánh biết tất cả sự thật, cô thấy lương tâm cũng đỡ bị ray rứt. Gợi lại những kỷ niệm đau thương bao giờ cũng buồn. Nhưng nỗi buồn rồi sẽ khuây, và mọi sự sẽ lại như trước Khánh ạ!...
Tôi không nói gì. Nhưng tôi thầm nghĩ: Không thể nào còn như trước được nữa.

*

Tuy nhiên cuộc sống vẫn cứ tiếp tục. Cô tôi được phép nghĩ dưỡng bệnh ở nhà và vì sắp tới kỳ hè nên mãi niên khóa sau cô mới phải đi dạy lại. Tôi quanh quẩn suốt ngày bên cô, quanh quẩn trong ngôi nhà rộng lớn mà từ lâu nay tôi vẫn nhận là "nhà" của tôi. Trong nhà có hai người giúp việc: già Lãm chăm sóc ngoài vườn; thím Năm lo việc nhà cửa bếp nước. Cả hai ở với cô tôi từ ngày tôi còn thơ dại. Họ thuộc hàng thân thích trong nhà, những cũng như các gia nhân tín cẩn, họ chỉ mải lo công việc được giao phó mà rất ít nói. Sự kín đáo của họ không an ủi được tôi trong lúc này.
Tôi đâm ra mơ mộng, buồn rầu. Tất cả, từ những đồ đạc trong nhà, cây cối ngoài vườn, ngay cả chính căn phòng riêng của tôi cũng đều trở thành xa lạ.
Ôi, cô thương yêu, cô đã chiếm hữu một hài nhi thất lạc như một đứa trẻ thiếu đồ chơi vớ được con búp bê... vô chủ.
Nhưng tôi đâu phải là con búp bê... hay con chó nhỏ!
Tôi là một con người và đến tuổi trưởng thành phải hướng vào tương lai, phải đối diện với cuộc đời. Tôi rất cảm kích, biết ơn bà "mẹ nuôi" của tôi, nhưng giá bà cho tôi biết sự thật này sớm hơn ngày tôi bắt đầu hiểu biết thì có lẽ hạnh phúc và chúng tôi không đến nỗi bị lung lay một cách đột ngột. Bây giờ thì đã quá muộn. Tôi không tài nào lấy lại được sự thơ thới của tâm hồn. Tuy chúng tôi đều tránh không nhắc đến chuyện đắm tàu nữa, nhưng tôi vẫn cứ băn khoăn nghĩ tới, và một hôm tôi hỏi cô tôi:
- Cô nhỉ, biết đâu con chẳng phải là người Tàu, người Mên, hay thuộc một dòng giống nào khác?
Cô tôi cười nhẹ:
- Con là người Việt, người Việt chính cống như cô vậy! Có điều... con là người Việt miền Nam...
Như tôi đã nói: Cô tôi gốc người miền Bắc. Nhưng cô xuất giá theo chồng vào Nam từ năm 18 tuổi - Chú tôi gốc người miền Nam - nên cô tôi am hiểu tập quán và nói rành giọng nói của cả hai miền.
Cô nâng cằm tôi lên, vuốt ve mái tóc đen mướt của tôi nói:
- Cháu hỏi kỳ cục quá. Cái mặt cháu như thế này mà bảo là người Tàu hay Mên sao được.
Tôi gặng thêm:
- Nhưng làm sao cô biết chắc cháu là người miền Nam?
- Thì... hồi tàu đắm, người thủy thủ bồng cháu có trao cho cô một bức ảnh thánh loại nhỏ, in hình Đức Mẹ ban ơn, ghim ở mé chăn đắp trên mình cháu. Phía sau tấm ảnh có chép bài kinh cầu theo giọng miền Nam. Cô phân biệt được ở các chữ "ơn phúc" và "ơn phước" "nhân lành" và "nhơn lành", v.v... Cha mẹ con hẳn là những tín đồ Công giáo ngoan đạo.
- Trên tàu hôm đó có người Nam nào không cô?
- Có đủ mọi hạng người: Tây, Tàu, và Việt, cả ba miền Bắc Trung Nam...
Tôi trách:
- Đã biết cha mẹ cháu là người Nam, lại có đạo Công giáo sao khi thoát nạn cô không tìm ngay?
- Cô cũng có tìm... sơ sơ, vì hồi đó tuy chiến tranh đã chấm dứt nhưng tình thế chưa yên hẳn vẫn còn hỗn loạn, việc giao thông thật khó khăn...
Tôi nói, giọng uất nghẹn:
- Con hiểu.
Rồi bỗng nhiên tôi bật thẳng người lên:
- Cô! Con phải đi một chuyến mới được!
Cô tôi hoảng hốt:
- Đi đâu... con?
- Đi Saigon! Con xin phép cô cho con đi tìm cha mẹ thật của con. Bắt đầu từ Saigon, con hy vọng sẽ tìm ra tông tích của gia đình con.
Về Đầu Trang Go down
nhanbkvn



Tổng số bài gửi : 1612
Registration date : 16/07/2012

Mái Nhà Xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Mái Nhà Xưa   Mái Nhà Xưa I_icon13Sun 05 Jan 2014, 22:24

Chương II
 
Tôi chỉ sợ cô tôi buồn, cho tôi là một đứa bội bạc. Nhưng không, cô tôi tỏ ra rất hiểu biết và độ lượng. Cô thông cảm tâm trạng của tôi. Cô đã từng băn khoăn khi dấu kín sự thật và cô hiểu nỗi băn khoăn của tôi khi được cô cho biết sự thật ấy.
Hôm ông cán sự y tế tới thăm - ông là bạn thân của gia đình từ ngày chú tôi còn sống - cô tôi tâm sự với ông ta về trường hợp của tôi, và hỏi ý kiến ông về việc tôi đòi đi tìm cha mẹ ruột.
Tôi nhận rõ vẻ bối rối qua giọng nói của cô:
- Anh Sáu, anh nghĩ sao về ý định của cháu Khánh?
Tôi nghe ông Sáu trả lời:
- Chị nên chiều theo ý cháu. Nó vừa bị xúc động mạnh... khi được biết nó không phải là ruột thịt của chị. Nếu không có gì ngăn trở chị nên thỏa mãn lời yêu cầu của cháu.
- Tôi muốn lắm, kỳ hè này, tôi đã tính đưa cháu về Saigon chơi một chuyến, nhân dịp tìm thăm người bà con, mà rủi gặp tai nạn đành hoãn lại. Bây giờ cháu Khánh đòi đi, tôi ngại quá. Nó mới 15 tuổi đầu, tuy không đến nỗi khờ khạo gì lắm, nhưng một mình bơ vơ giữa chốn đô thị xa lạ, tôi không yên tâm chút nào.
- Chị vừa nói có người bà con ở Saigon?
- Phải, người đó là chị em chú bác với nhà tôi. Chị ấy tốt lắm nhưng đã lâu không gặp, chẳng hiểu bây giờ chị ấy ra sao.
- Nếu vậy, tôi đề nghị với chị như thế này: Thằng con rể của tôi, thằng chồng con Hương đó, nó tính hè này đưa vợ nó lên chơi trên Đalat. Trên đường đi Đalat tụi nó phải ghé Saigon. Để tôi bảo hai đứa đưa cháu Khánh đến nhà người bà con của chị ở Saigon cho.
Cô tôi ưng thuận liền.
Mấy ngày sau tôi theo vợ chồng chị Hương đi Saigon. Ở bến xe đầu chợ quận, cô tôi bịn rịn như muốn níu kéo tôi trở lại. Hình như cô hối tiếc đã để cho tôi đi. Cô căn dặn tôi đủ thứ, giọng nghẹn ngào và nước mắt rưng rưng. Tôi cũng không thể nào ngăn nổi cảm xúc. Mắt tôi nhòa lệ. Hình ảnh cô tôi nhòa theo, tưởng chừng như sắp tan biến đi mất. Tôi thảng hốt ôm chầm lấy cô:
- Cô! Con đi ít bữa rồi con về! Có tin gì con sẽ báo ngay cho cô biết.
Cô tôi lặng lẽ siết chặt lấy tôi. Tôi luyến tiếc hơi hướng quen thuộc trong vòng tay từ mẫu của cô. Tiếng "cô" tôi quen dùng để gọi người quả phụ này đồng nghĩa với tiếng "mẹ" kính yêu. Ôi, mẹ đã nuôi con từ ngày con còn ấu trĩ, còn nằm ngửa trong lòng mẹ. Mười lăm năm trời trôi qua, mười lăm năm con được ấp ủ trong tình thương yêu của mẹ. Bây giờ con lại được biết mẹ chẳng phải là mẹ của con, cũng chẳng phải cô ruột của con nữa! Cay đắng biết bao!
Tuy thâm tâm tôi nói lên những lời chân thành ấy, dùng dằng chưa muốn rời khỏi cô tôi - suốt mười lăm năm tôi chưa xa cô tôi lấy một ngày - tôi vẫn nghe nỗi náo nức âm thầm nhưng mãnh liệt thúc đẩy tôi. Có tiếng gọi mơ hồ hầu như huyền bí kêu tôi ở phương trời nào đó. Phải chăng đó là tiếng gọi bi thiết của tình cốt nhục?
Tôi chợt nhớ đến tiếng kêu thảm thương của đôi chim sẻ ngụ trong vườn nhà tôi.
Một chiều giông bão đôi chim ấy vội bay về tổ thì thấy mất đàn con, vì cái ổ đã bị gió lùa rơi xuống đất.
Già Lãm đã nhặt ổ chim ấy vào cho tôi, như đem một món đò chơi cho trẻ.
Tôi thích ổ chim non ấy lắm. Nhưng tiếng kêu bi thương của đôi chim mất con đang vật vờ tìm kiếm trong cơn mưa gió, ám ảnh tôi suốt đêm hôm ấy và cả những ngày sau nữa. Không thể cầm lòng được tôi đành xin già Lãm để trả ổ chim ấy vào chỗ cũ.
Tiếng chim kêu ấy bây giờ như đang văng vẳng trong tâm thức tôi.
Tôi buông cô tôi ra, vội vã leo lên chiếc xa hàng đang rồ máy chờ đợi.
Xe chạy. Cô tôi lủi thủi ra về. Tôi mang theo hình ảnh cô tôi suốt cuộc hành trình. Vợ chồng chị Hương ngồi thủ thỉ với nhau bên cửa xe. Họ là đôi vợ chồng trẻ. Tình yêu của họ đang độ nồng nàn. Đối với họ mỗi cuộc du hành dù ngắn hay dài cũng đều là những kỷ niệm thơ mộng. Hai người luôn chỉ trỏ cho nhau xem những phong cảnh bên đường. Tôi ngồi im lặng cạnh họ, bâng khuâng, háo hức về cuộc ra đi đầu tiên trong đời tôi. Trong sự háo hức có thêm sự tò mò nôn nóng. Tôi muốn tìm gặp cha mẹ tôi mà cho tới giờ phút này tôi vẫn chưa hề biết rõ tông tích.
Tới Saigon chúng tôi trọ tạm tại một khách sạn nhỏ gần bến xe. Vợ chồng chị Hương rủ tôi đi chơi phố. Tôi từ chối lấy cớ muốn nằm nghỉ cho đỡ mệt. Nhưng khi họ đi rồi, tôi vùng trở dậy. Tôi có ý định riêng của tôi, và muốn thi hành ngay ý định ấy. Tôi ra đường, tìm tắc xi, xin họ chở tôi đến hãng Ba Sao. Người tài xế tắc xi đưa tôi sang Khánh Hội, đậu lại trước một tòa nhà khá đồ sộ, theo lối kiến trúc cổ từ trước thời tiền chiến.
Tôi bước vào một hành lang rộng lớn, hai bên có những phòng làm việc. Các nhân viên ở đây, nhìn tác người lớn phổng của tôi và cử chỉ mà tôi cố làm ra vẻ đứng đắn đã lầm tưởng tôi là một thiếu nữ cỡ 17, 18 tuổi nên không coi tôi là một đứa trẻ đến làm phiền họ. Tôi được họ ân cần tiếp đón, chỉ cho tôi từ bàn giấy này qua bàn giấy khác. Tôi có cảm tưởng như mình là một trái banh nẩy từ bàn này qua bàn nọ. Sau cùng tôi rơi đúng vào bàn giấy một ông lớn tuổi. Ông mời tôi ngồi xuống chiếc ghế đặt trước bàn ông, ngước mắt qua cặp kính lão xệ trên sống mũi, nhìn tôi. Rồi ông mỉm cười, hỏi tôi muốn gì. Tôi bắt đầu kể lể, giải thích cho ông rõ, nguyên nhân tôi tìm đến đây.
Nghe hết đầu đuôi, ông cau trán nói:
- Chiếc tàu Bạch Phượng! Lâu quá rồi! Hồi đó tôi chưa vào làm cho hãng này.
- Nhưng chắc còn có người biết chiếc Bạch Phượng chứ, thưa ông?
- Không chắc, vì các nhân viên cũ hiện giờ không còn ai. Hãng đã đổi chủ lâu rồi. Và chủ mới đã dọn cơ sở về đây. Bao nhiêu hồ sơ cũ của thời chủ trước không ai lục đến nữa. Hơn nữa phần lớn cũng đã bị thất lạc, hoặc tiêu hủy vì chiến tranh.
Tôi run giọng, lẩm bẩm:
- Nếu vậy, không còn hy vọng tìm ra tông tích những hành khách trên chiếc tàu ngộ nạn sao? Tôi tưởng mỗi chuyến tàu đều có danh sách...
- Dĩ nhiên. Danh sách hành khách của mỗi chuyến tàu đều được lập cẩn thận làm hai bản. Một lưu tại hãng và một ở dưới tàu. Nhưng cô cũng nên hiểu cho tình thế lúc ấy. Bản lưu ở hãng chưa chắc đã còn, mà bản yết dưới tàu...
- Thì sao?
- Thì đã chìm theo tàu xuống lòng biển!
Tự nhiên nước mắt tôi trào ra. Tôi bưng mặt ngồi khóc. Nhân viên tiếp tôi hiền từ nói:
- Chắc quan hệ cho cô lắm phải không?
- Dạ.
- Tôi vừa thoáng nhớ ra một chi tiết, chẳng hiểu có giúp ích gì cho cô được không?
Tôi khẩn khoản:
- Xin ông cứ cho biết.
- Đó là người bếp dưới tầu. Hắn thoát nạn trong chuyến ấy cùng với mấy hành khách sống sót. Sau đó, hắn làm thêm ít năm nữa rồi thôi bỏ nghề đi biển về mở tiệm ăn. Nhân chứng này may ra có thể soi sáng cho cô được.
- Ông ta hiện ở đâu?
- Chợ lớn. Thỉnh thoảng tôi vẫn vào ăn trong tiệm của hắn. Tiệm Long Hải đường Đồng Khánh.
- Thưa, tên ông ta là gì?
-Tên Lủ. Hắn là người Tàu.
Về Đầu Trang Go down
nhanbkvn



Tổng số bài gửi : 1612
Registration date : 16/07/2012

Mái Nhà Xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Mái Nhà Xưa   Mái Nhà Xưa I_icon13Sun 05 Jan 2014, 22:24

Chương III
 
Vợ chồng chị Hương đối với tôi thật tốt. Có lẽ Bác Sáu đã nói rõ hoàn cảnh của tôi cho anh chị biết nên cả hai đều đối xử với tôi hết sức ân cần. Khi đi chơi về, thấy vẻ mặt bí xị của tôi, anh chị cũng không khó chịu về thái độ của người bạn đồng hành mà có lẽ anh chị đã phải tiếp nhận một cách miễn cưỡng. Chị Hương vỗ về tôi:
- Bữa nay đã muộn rồi! Lát nữa chúng mình sẽ đi ăn cơm chiều ở nhà hàng, rồi về nghỉ ngơi cho khoẻ. Đến sáng mai anh chị sẽ đưa em đi tìm người bà con, em chịu không?
Tôi đáp:
- Cám ơn anh chị. Nhưng anh chị định đi nhà hàng nào? Em thì muốn vô Chợ lớn ăn ở nhà hàng Long Hải!
Vợ chồng chị Hương nhìn nhau. Anh An - chồng chị Hương - cười đùa:
- Sao em giỏi thế! Mới chân ướt chân ráo lên Saigon đã biết cả hàng ăn trong Chợ lớn? Chắc nhà hàng này có nhiều món đặc biệt lắm phải không?
- Không, nhưng em muốn nói chuyện với một người Tàu.
Đến lượt chi Hương tròn xoe đôi mắt:
- Em quen người Tàu nào? Bộ em nói được cả tiếng Tàu nữa hả?
Tôi phải giải thích đầu đuôi cho vợ chồng chị hiểu. Khi nghe ra chị Hương hối hả muốn mở cuộc điều tra ngay. Chúng tôi sửa sang lại nhan sắc cho đỡ lem luốc rồi kiếm xe vô ngay Chợ lớn.
Nhà hàng Long Hải là một tiện ăn cỡ trung bình, không đồ sộ như những nhà hàng lớn hai ba tầng lầu, cũng không luộm thuộm ồn ào như các tiệm ăn tạp nhạp khác. Có thể nói đây là một tiệm ăn xinh xắn do một người ít vốn, nhưng biết cách tổ chức, sạch sẽ với những bàn ăn trải khăn trắng, ấm cúng và thanh lịch với những thực khách biết thưởng thức các món ăn ngon của nhà hàng.
Vợ chồng chị Hương chọn mấy món ăn thật ngon và lạ miệng. Vừa ăn chúng tôi vừa để ý quan sát. Làm sao phân biệt được ai là ông Lủ giữa đám người Tàu lặng lẽ phục dịch quanh các bàn? Có thể ông không có mặt trong phòng ăn, vì ông còn bận giữ vai trò quan trọng: vừa chủ nhân vừa đầu bếp.
Chúng tôi cố kéo dài bữa ăn, nhấp nháp từng ngụm nước trà sau phần tráng miệng. Tôi cảm thấy thất vọng, chán nản, mất hết nhuệ khí lúc đầu.
Anh An an ủi tôi:
- Bỏ cái mặt buồn thảm ấy đi Khánh! Để anh hỏi thăm xem nào.
Anh đứng lên bước lại phía quầy trả tiền nói chuyện với cô thu ngân. Rồi anh quay về bàn ngồi uống nước chờ đợi. Khách ăn bắt đầu vãn dần, chỉ còn lơ thơ ít người cũng đang sửa soạn rời chỗ. Lúc ấy ông Lủ mới ở trong nhà bước ra. Ông tiếng lại bàn chúng tôi nghiêng mình cúi chào. Tôi cứng lưỡi ngồi nhìn ông, chẳng biết nói gì. Anh An thay tôi hỏi thăm các chi tiết về chuyến tàu Bạch Phượng. Ông Lủ gật đầu đáp:
- Tôi nhớ vụ đắm tàu đó.
Chị Hương hấp tấp hỏi:
- Ông còn nhớ số người Việt sống sót trên chuyến tàu ấy là bao nhiêu không?
- Nhớ chứ! Có chừng bảy tám người.
Câu trả lời không ngập ngừng đó làm chúng tôi ngạc nhiên.
- Ông có nhớ tên họ không?
- Có!
Anh An kêu lên:
- Khó tin quá! Mười mấy năm trời mà ông còn nhớ được cả tên đám hành khách ấy nữa sao? Huống chi ông không phải là thuyền trưởng mà chỉ là...
Ý anh An muốn nói ông ta chỉ là đầu bếp dưới tàu, không có phận sự tiếp xúc với hành khách, thì làm sao nhớ tên họ được. Nhưng chị Hương do linh cảm tế nhị của đàn bà, đã vội gạt:
- Tại sao anh lại nghi ngờ? Chắc ông Lủ đây phải có lý do nào đó nên mới nhớ lâu như thế.
Ông Lủ gật đầu, hướng về phía chị Hương, trịnh trọng:
- Dạ, thưa cô, quả có thế... Giọng nói của ông Lủ không khác gì một người Việt thanh lịch. Ông tiếp:
- Vâng, hồi đó các xí nghiệp lớn đều do người Pháp nắm giữ. Nhân viên hãng Ba Sao đa số là người Pháp, kể cả ông thuyền trưởng chiếc tàu Bạch Phượng. Tôi đã đi nhiều nơi, thông thạo nhiều thứ tiếng nên ngoài chức vụ đầu bếp dưới tầu tôi còn được dùng làm thông ngôn nữa. Hơn nữa, trí nhớ của tôi không đến nỗi kém cỏi lắm.
Tôi thốt nói:
- May quá! Nếu vậy xin ông vui lòng cho tôi biết ngay tên những người ấy...
Nhưng lần này ông Lủ lắc đầu. Anh An vừa bị hố lúc đầu, nên nhỏ nhẹ giải thích với tôi.
- Ông Lủ tuy có giữ vai trò thông ngôn, ông nhớ được số hành khách đã là giỏi lắm rồi. Còn tên tuổi làm sao ông ấy nhớ cho nổi.
Giọng ông Lủ vẫn thản nhiên như nét mặt ông ta:
- Tôi không quên bao giờ. Tôi ghi chép và còn giữ lại tất cả.
- Để chi vậy?
- Để kiếm lợi cũng có và đôi khi cũng để giúp đỡ người ta nữa. Trong thời buổi nhiễu nhương này, cái biết của mình càng tăng thêm sự khôn ngoan.
Tôi khẩn khoản:
- Ông làm ơn cho tôi biết tên những người hành khách ấy ngay đi.
- Ngay bây giờ thì chưa được. Xin khất cô đến mai.
Tôi được biết theo lời ông Lủ giải thích, thì ông có giữ một cuốn sổ tay. Cuốn sổ đó hiện ông còn giữ, trong khi bao sổ sách giấy tờ của tàu Bạch Phượng đã mất hết.
Sáng hôm sau tôi trở dậy hơi muộn. Trong đêm vừa qua tôi trằn trọc mãi gần đến sáng mới thiếp đi được. Khi tôi xuống phòng khách thì vợ chồng chị Hương đã có mặt tại đấy. Anh chị mỉm cười chìa cho tôi mảnh giấy có ghi tên tám hành khách của chiếc tàu Bạch Phượng gồm có:
Nguyễn Văn Thành công nhân đồn điền và vợ
Đỗ thị Nuôi
Huỳnh Phương, ký giả
Ông Bà Võ Quốc Oai
Dì Phước Anges Angustine, Dòng Thánh Tâm
Đan Thanh, nữ ca sĩ.
Bà Nguyễn Trục Trinh.
Tôi đọc đi đọc lại mảnh giấy tới ba bốn lần. Một trong những tên họ ghi ở đây sẽ là tên họ của tôi. Nhưng tôi chợt nhận ra một điều:
- Ủa, sao không thấy tên đứa trẻ nào cả?
Anh An nói:
- Anh có hỏi ông Lủ điều ấy. Ông cho rằng trẻ con, đối với ông ta cũng chỉ như những bọc hành lý hành khách mang theo, không đáng quan tâm. Vì vậy ông không để ý ghi chép mất công.
Tôi bẩm bẩm:
- Không biết em thuộc giòng máu của Nguyễn Văn Thành hay Võ quốc Oai đây? Nữ ca sĩ Đan Thanh lúc ấy có đem theo con gái đi không nhỉ? Dì Phước Anges thì... có thể dì được người ta trao phó một đứa trẻ lắm chứ... Còn cái ông ký giả nhà báo, chắc chắn ông không bồn theo trẻ thơ bên cạnh rồi!
Chị Hương góp ý kiến:
- Biết đâu được, có thể ông ta là người Việt, nhưng vợ là ngoại quốc, trong đám người Pháp chẳng hạn!
Anh An phá lên cười:
- Nếu vậy thì Khánh phải có bộ tóc vàng, mắt xanh và mũi cao chứ. Em thử nhìn Khánh xem có nét nào lai tây phương không!
- Thế thì trong đám người Tàu! Người Trung Hoa và người Việt Nam đều là dân Á đông cả.
Tôi thở dài:
- Nói vậy thì, trừ bà Nguyễn Thục Trinh là cô của em ra, còn có bảy gia đình em phải đi tìm. Mà tuyệt nhiên chưa có được chút tia sáng nào hết! Ông Lủ có cho biết thêm chi tiết nào nữa không?
Chị Hương vuốt ve tôi:
- Đừng vội nản chớ cưng! Những điều ông Lủ cho biết cũng quí hóa lắm rồi.
Tôi thở dài.
- Vâng. Nhưng, bây giờ...
Anh An tiếp:
- Bây giờ thì Khánh nên nhớ là Khánh có một người bà con ở Saigon. Nếu Khánh chưa thoái chí, anh chị sẽ đưa em đi tìm người bà con ấy. Hy vọng người bà con này sẽ giúp đỡ Khánh được.
Không, tôi chưa thoái chí. Tôi vẫn cương quyết muốn tìm cho ra tông tích của tôi dù có phải lặn lội tới bất cứ góc biển chân trời nào.
Về Đầu Trang Go down
nhanbkvn



Tổng số bài gửi : 1612
Registration date : 16/07/2012

Mái Nhà Xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Mái Nhà Xưa   Mái Nhà Xưa I_icon13Sun 05 Jan 2014, 22:25

Chương IV
 
Ngăn trở đầu tiên tôi gặp ở Saigon là người bà con của cô tôi: Bác Tuyết. Anh chị An đưa tôi lại nhà bác thì bác đang nằm điều trị trong bệnh viện. Nhà bác đóng kín cửa không có ai ở nhà. Người hàng xóm cho biết: Bác bất thần bị bệnh xưng gan, đau tưởng chết nên hàng xóm chở bác đi bệnh viện ngót tuần nay rồi. Tôi hỏi thăm bệnh viện bác nằm để đến thăm. Đây là lần đầu tiên tôi gặp mặt bác Tuyết. Bác xanh xao nằm trên giường nệm trải khăn trắng, yếu đuối bảo tôi:
- Cháu Khánh đấy à? Bác có nhận được thư của cô Trinh cháu. Nhưng rủi quá, vừa được thư thì bác lên cơn đau bất tử phải vô đây nằm. Rồi bây giờ làm sao đây cháu?
Tôi biết làm sao bây giờ? Tôi đi tìm một nâng đỡ, thì bây giờ chính tôi lại phải làm ra vẻ mạnh dạn để chấn an người tôi định nhờ vả:
- Xin bác cứ yên tâm, tĩnh dưỡng cho khoẻ.
- Nhưng rồi cháu lên đây... không lẽ cháu...
Tôi hiểu bác Tuyết muốn nói gì. Chẳng lẽ tôi trở về nhà với cô tôi? Mà ở lại thì lấy ai hướng dẫn tôi giữa thành phố xa lạ nhiều bất trắc này? Tôi ngắt lời bác:
- Cháu lên đây với vợ chồng chị Hương, con bác Sáu. Cháu sẽ nhờ anh chị ấy lo dùm khi cháu còn ở Saigon.
- Phải con ông Sáu, trưởng ty y tế dưới quận đó không?
- Dạ phải.
- Tội nghiệp, cháu lên đây không may gặp lúc bác đau ốm, nhà lại không có ai. Mấy đứa con của bác đứa đi lính, đứa theo chồng đi xa hết rồi.
- Xin bác yên tâm, cháu lo một mình được.
Bác Tuyết nhìn tôi với ánh mắt hoài nghi:
- Cháu tuy có lớn nhưng vẫn còn non dại. Vợ chồng con ông Sáu đi Đalat rồi thì cháu không ở Saigon này một mình được đâu. Cháu nên về Phong Điền với cô cháu là hơn, chờ khi nào bác khoẻ, rời bệnh viện về nhà, cháu hãy lên đây. Rồi bác sẽ giúp cháu.
Tôi miễn cưỡng nói thêm ít lời xã giao, hứa hẹn một vài điều và từ giã bác Tuyết.
Ngay chiều hôm đó, tôi viết thư cho cô tôi.
Anh chị An không để tôi bơ vơ một mình. Anh chị gửi tôi vào một nhà trọ quen - nơi chị Hương đã trọ khi còn là nữ sinh Trưng Vương, và giới thiệu tôi với một vài người bạn quen của anh chị. Xong xuôi đâu đó, đôi vợ chồng trẻ ấy chúc tôi gặp nhiều may mắn, rồi mới từ giã tôi lên xe đi Đalat.
Tôi quyết định nán lại Saigon cho tới khi nào tìm ra tông tích những người mà ông Lủ đã ghi trên mảnh giấy. Ít nhất cũng có hai người có mặt tại nơi này.

*

Tôi bắt đầu bằng ký giả Huỳnh Phương.
Theo tôi nghĩ, một ký giả nhà báo phải là người có tiếng tăm. Vì đã đọc báo thì phải biết tên người viết ra bài văn bài báo mình đọc.
Có điều, Saigon thật là nhiều báo. Báo hàng ngày, hàng tuần, bày kín các sạp, hoặc treo đầy cửa quán sách. Nhìn vào cũng thấy hoa mắt lên rồi! Chẳng lẽ tôi phải mua đủ hết từng ấy thứ báo đem về đọc để tìm tên một người!
Trong nhà tôi trú có nhiều nữ sinh trọ học. Đa số là sinh viên đại học rất vui tính, cởi mở, nên cũng dễ làm quen. Sau bữa ăn tối, nhân thấy một chị ngồi đọc báo tôi đến bên gợi chuyện:
- Chị biết ký giả Huỳnh Phương không chị?
Chị ngước nhìn tôi cười:
- Báo nhiều, nên ký giả cũng nhiều. Chị chỉ quen tên vài ba ông trong các báo chị ưa đọc thôi. Em vừa nói tên ký giả nào nhỉ?
- Huỳnh Phương!
- Một ký giả có thể có nhiều bút hiệu, cho nhiều loại bài khác nhau. Chị chưa gặp bài bào ký tên Huỳnh Phương trong mấy tờ báo chị quen đọc cả. Nhưng em hỏi ký giả Huỳnh Phương làm gì? Em biết ông ta à? Ông ta già hay trẻ?
Tôi lúng túng:
- Em không biết ông ta nên mới hỏi thăm chị. Có lẽ ông ta lớn tuổi rồi, vào loại cha chú chúng mình. Em muốn biết ông ta ở báo nào để tìm gặp...
- Bộ em có bài muốn đăng báo hả? Muốn tập tễnh làm văn chứ gì?
Tôi đỏ mặt. Chuyện viết văn, làm báo, chưa bao giờ tôi dám mơ ước. Nhưng chuyện riêng của tôi, tôi cũng không tiện ói ra với chị.
- Không! Em mà viết lách gì chị! Sở dĩ em tìm gặp ông vì có một chuyện rất cần...
Chị ngồi yên không hỏi nữa, chỉ giữ nụ cười nghịch ngợm trên môi. Có lẽ chị cho rằng tôi đã nói dối vì mắc cỡ. Bằng chứng là vẻ lúng túng và hai vành tai đỏ ửng của tôi! Chắc chị cho tôi là một mầm non văn nghệ, và việc tìm gặp một ký giả lão thành không ngoài mục đích nhờ cậy về văn chương!
Chị hóm hỉnh gặng:
- Cần thật à?
- Dạ cần lắm! Em sẽ mang ơn chị rất nhiều nếu chị giúp được em...
-?!
-... Điều tra hộ em xem ký giả Huỳnh Phương hiện viết cho báo nào?
Nhìn nét mặt thành khẩn của tôi, chị không đùa nữa, suy nghĩ rồi bảo:
- Để chị hỏi con nhỏ bạn chị xem. Nó học ở Văn Khoa, chuyên về ngành báo chí chắc nó biết...
Và chị cao giọng nói chõ vào phòng trong, nơi ngồi học của các chị.
- Ê, Trâm, mày có biết ký giả Huỳnh Phương không?
- Biết!
- Làm ơn cho tao tiểu sử của ông ấy đi.
- Chi vậy?
- Ơ, con nhỏ này hay nhỉ! Việc riêng của tao mà. Mày biết thì nói ngay lên dùm tao...
- Mày không nói, tao không bảo!
- Tao... tao giúp một cô bé làm thuyết trình!
Giọng chị Trâm như một cô giáo khi giảng bài:
- Huỳnh Phương là một nhà biên khảo chuyên sưu tầm tài liệu về các di tích lịch sử của nước nhà. Ông đã từng du hành nhiều nơi và viết ra cuốn: "Từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mâu", cuốn "Di tích người Chàm",... mày chưa đọc hai cuốn này hả, cù lần?
Tôi sợ chị Trâm lại giỡn với bạn hồi nữa, vội thúc chị ngoài này:
- Chị làm ơn hỏi hộ em hiện ông ta đang viết cho báo nào?
Câu hỏi được truyền vào và chị Trâm đáp:
- Ngoài mấy cuốn sách đã xuất bản, ông còn viết cho tờ Tuần san Quê Hương phụ trách mục "Giang sơn gấm vóc" nữa.
Tôi mừng quá, đến nỗi quên cả cám ơn và luýnh quýnh gạt đổ ly nước trên bàn xuống đất. Nghe tiếng thủy tinh vỡ, chị Trâm hỏi vọng ra:
- Chi đó mày, Quyên?
Tôi nhặt những mảnh ly vỡ. Chị Quyên trả lời bạn:
- À! Ly nước đổ đó.
Khi chị cúi xuống nhặt phụ với tôi, tôi hỏi:
- Nhà báo Quê Hương ở đâu chị?
- Ở đường Phạm Ngũ Lão.
Tôi nhấp phỏng mong cho đêm qua mau. Ngày mai tôi sẽ đến con đường Phạm Ngũ Lão tìm tòa báo Quê Hương gặp ký giả Huỳnh Phương.

*

Tấm biển mang nhãn hiệu tuần báo Quê Hương làm tôi hồi hộp vô cùng. Tôi chưa hề bước chân vào một nhà báo bao giờ, nên cứ lượn đi lượn lại hai ba lần ở trước cửa. Nhìn vào thấy mấy đầu người cúi gằm phía sau quầy, dáng điệu chăm chú, kẻ chống tay đỡ vừng trán với vẻ suy tư, kẻ như đang triền miên theo giòng chữ viết, khiến tôi càng rụt rè hơn. Mãi sau, gặp một ông từ bên trong đi ra, đứng nhàn rỗi trước cửa tôi mới dám tiến lại hỏi:
- Thưa ông, tôi muốn gặp ký giả Huỳnh Phương.
Ông ta mở to mắt nhìn tôi:
- Hả? Cô hỏi ai?
Tôi nhắc:
- Dạ, ký giả Huỳnh Phương; ông ấy có đây không ạ?
- Ồ, cả cô cũng hỏi ông ký giả này nữa à!
Một thoáng lưỡng lự, rồi ông mỉm cười - Tôi không hiểu có gì vui mà ông ta cười như vậy - Ông chỉ tay vào cánh cửa thông với nhà trong, bảo:
- Cô đi thẳng vô, có cầu thang lên lầu, leo tuốt lên trên đó, gõ phòng ông Tổng thư ký báo Quê Hương mà hỏi.
Tôi rụt rè bước bào. Qua cái quầy, mấy đầu người làm việc phía sau không hề ngửng lên. Gian trong là nhà in, chỗ các ấn công đứng sắp chữ. Những người này cũng không thèm nhìn đến tôi. Hình như họ không cần quan tâm đến người lạ từ ngoài bước vào, mặc nhiên cho rằng chỗ họ đứng làm việc là lối đi lên tòa soạn đặt trên lầu. Tuy trông thấy cầu thang, tôi vẫn ngại ngùng hỏi thăm một anh thợ trẻ. Anh chỉ gật đầu, xác nhận điều tôi hỏi là đúng rồi tiếp tục làm nốt công việc của anh. Tôi leo lên cầu thang vừa cúi nhìn những chiếc máy in đặt phía trong cùng. Tiếng máy chạy rầm rập không át nổi nhịp tim đập trong ngực tôi. Người ta gọi tiếng tim đập hồi hộp là tiếng "trống ngực" quả đúng. Tôi nghe rõ tiếng "trống ngực" của tôi càng lúc càng mạnh khi lên tới gần tòa soạn báo Quê Hương.
Tôi gõ cửa. Có tiếng bên trong đáp:
- Mời vô!
Ông tổng thư ký tòa soạn báo Quê Hương là người đã trọng tuổi. Nét mặt ông nghiêm nghị. Ông ngước nhì tôi qua cặp mắt kính trắng:
- Cô cần gì?
- Tôi xin gặp ký giả Huỳnh Phương.
Vừa nghe hỏi, ông tổng thư ký tòa soạn báo Quê Hương bỗng nhiên bừng bừng nổi giận, ông nhảy nhổm trên ghế, giọng gay gắt, gần như quát tháo:
- Tôi không có thì giờ đùa rỡn. Tôi cũng không ưa cái lối đùa nghịch của các cô cậu học trò tinh quái. Đây là một nhà báo và chỗ này chúng tôi cần làm việc, cô nghe rõ chưa? Thôi, chào cô!
Ông đẩy tôi ra đóng sập cửa lại. Tôi ngẩn ngơ bước xuống cầu thang.
Thấy tôi đi ra, người đàn ông mách lối cho tôi hỏi:
- Sao cô? Gặp ông ấy chưa? Vui vẻ chứ!
Tôi sụ mặt:
- Tôi chẳng thấy vui ở chỗ nào hết. Tự nhiên, ông ấy nổi sùng lên với tôi. Người đâu mà bất lịch sự...
Nước mắt tôi ứa ra, giọng uất nghẹn:
- Tôi chỉ mới hỏi đến... ký giả Huỳnh Phương...
- Là hắn nổi sùng lên chứ gì?
- Vâng! Tôi chỉ hỏi có vậy mà ông ấy cho là tôi đùa giỡn.
- Cô không có ý đùa thật à?
Thấy tôi gật đầu mà nước mắt tràn mi người đàn ông có vẻ hối hận, ấp úng tiếp:
- Nguyên là ký giả Huỳnh Phương đã chết cách đây ba năm rồi...
- Ồ!
Tôi bật kêu lên kinh ngạc. Và sững sờ giây lát tôi hỏi:
- Ông ta chết trong một vụ đắm tầu phải không ông?
- Không, ông chết vì bệnh ở nhà thương.
- Bà vợ ông ta còn ở Saigon này không?
- Ông sống độc thân mà! Làm gì có vợ con!
Như vậy là cuộc điều tra về ký giả Huỳnh Phương chấm dứt. Tôi khỏi còn thắc mắc về ông ta nữa, nhưng tôi còn bất mãn về cách tiếp đãi của ông tổng thư ký báo Quê Hương. Tôi hậm hực nói:
- Dù sao, cái ông ở trên lầu cũng... kỳ cục!
Ông chủ nhà in - bây giờ tôi mới biết - cười hì hì:
- Đó là lỗi tại tôi. Tôi là chủ nhà in này nên biết rõ tính nết các ông nhà báo đến in báo ở đây. Thấy ông chủ bút báo Quê Hương có tính hay bắn gắt nên tôi định đùa một chút cho vui. Ai ngờ cơn chọc giận này lại đến lượt cô hứng chịu.
- Tại sao thế?
- Vì cô là người thứ ba đến đây hỏi thăm ký giả Huỳnh Phương.
- Những người trước tôi là ai?
- Một người nhỏ thó, không thể đoán được thuộc hạng nào, và một thiếu niên vạm vỡ. Cậu trai này đi với một người bạn, nghe người bạn gọi tên cậu ta là Chương.
Về Đầu Trang Go down
nhanbkvn



Tổng số bài gửi : 1612
Registration date : 16/07/2012

Mái Nhà Xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Mái Nhà Xưa   Mái Nhà Xưa I_icon13Sun 05 Jan 2014, 22:25

Chương V
 
Việc tìm nữ ca sĩ Đan Thanh - nếu bà còn sống - tôi thấy không khó khăn gì lắm. Bà Đan Thanh là một nghệ sĩ tất nhiên tên tuổi của bà hẳn chưa bị lãng quên trong làng ca nhạc. Đáng lý xưa kia cô tôi phải làm công việc tìm kiếm như tôi bây giờ mới phải. Sự thể sẽ đỡ phiền phức biết bao nhiêu. Nhưng cơ hôi đã lỡ rồi, phiền trách cũng vô ích mà thôi.
Sau cuộc tiếp xúc với nhà báo Quê Hương tôi không còn can đảm bước chân vào một nhà báo nào nữa. Các chị ở chỗ tôi tạm trú mách nước cho tôi ra quán điện thoại, gọi đến báo Kịch Trường - tờ báo chuyên viết về sinh hoạt của giới ca nhạc kịch - hỏi thăm về bà Đan Thanh. Sau ít phút chờ đợi tôi được trả lời là nữ ca sĩ Đan Thanh nay đã già không còn xuất hiện dưới ánh đèn sân khấu nữa và hiện mở lớp dạy hát tại tư gia, trong một chung cư ở đường X. Ba giờ chiều hôm ấy tôi tìm đến địa chỉ đã ghi. Bà Đan Thanh ở trên lầu. Tôi bấm chuông đứng đợi. Một chị giúp việc ra mở cửa. Thoạt nhìn tôi biết ngay chị mới ở dưới quê lên, cục mịch và thật thà. Tôi hỏi bà Đan Thanh. Chị ngó tôi:
- Cô gặp bà tôi có chuyện gì?
Tôi nói:
- Chuyện riêng!
Chị lắc đầu:
- Bà tôi dặn ai hỏi thì nói là bà đi khỏi... chỉ trừ những người tới học hát.
- Đúng ra thì... tôi...
- Vậy cô đến học hát hả?
Tôi chưa kịp giải thích rõ ràng chị đa le te quay vào:
- Để tôi báo cho bà biết.
Tôi bước vào một căn phòng khá rộng, bày biện lủng củng với những đồ đạc mà chắc khi mua sắm đã tùy theo hứng của chủ nhân. Chiếc bình phong Nhật Bản ngăn đôi căn phòng, đứng nhìn bộ ghế cẩm lai, vài con búp bê lồng trong hộp kính e thẹn bên giỏ hoa bằng nhựa đặt trên mặt chiếc tủ thấp, nơi dùng làm điểm tựa cho chiếc đàn ghi-ta dựng đứng một bên; chiếc dương cầm choán nhiều chỗ hơn cả, và có lẽ đó là linh hồn của các buổi tập hát.
Bà Đan Thanh tuy đã có tuổi nhưng vẫn còn tươi đẹp với phấn son. Bà đón tôi niềm nở:
- Có thêm một cô học trò nhỏ nữa. Tuyệt quá! Tên cháu là gì nhỉ?
- Thưa... Nguyễn Bảo Khánh!
- Tên cháu đẹp quá!
Bà Đan Thanh ngồi xuống ghế dương cầm.
- Cháu đã có học hát qua rồi chưa?
Tôi nhỏ nhẹ thưa:
- Dạ chưa. Đúng ra thì... cháu đến đây không có ý để xin học hát.
- Nếu vậy cháu đến đây có chuyện gì? Tôi đã dặn người nhà rồi mà! Thế đấy, con bé này đần độn quá!
Bà cất giọng bực bội gọi:
- Chị Út!
Tôi vội đỡ lời:
- Dạ, cháu xin lỗi đã lợi dụng sự hiểu lầm của chị Út để vào đây. Cháu cần được gặp bà vì có một chuyện quan hệ muốn hỏi.
Tôi vắn tắt kể cho bà nghe hoàn cảnh của tôi, giải thích cho bà biết hiện tôi đang kiếm các chứng nhân của vụ đắm tầu Bạch Phượng, hầu tìm ra thân nhân của tôi biệt tích trong đêm giông bão đó.
Bà Đan Thanh tái mặt im lặng nhìn tôi. Rồi bà tới ngồi xỉu xuống chiếc ghế bành đưa hai tay úp lên mặt. Giọng bà lạc hẳn đi:
- Tôi rất ân hận là không giúp cháu được việc gì cả.
Tôi khẩn khoản:
- Thưa bà, chắc bà còn nhớ...
- Không, không! Tôi không muốn nhớ gì hết. Tai nạn đó thật là khủng khiếp. Đêm nay chắc chắn tôi sẽ mất ngủ.
- Nhưng...
- Thôi! Cháu đừng nói nữa. Cháu về đi...
Cơn xúc động của bà Đan Thanh làm tôi bối rối. Miệng tôi vâng dạ mà chân thì cứ đứng trồng tại chỗ. Bà Đan Thanh bỏ chạy vào trong mặc tôi ngẩn ngơ cạnh chiếc dương cầm. Chiếc đàn đối với tôi lúc ấy giống như một con vật thời tiền sử, dãy phím ngà là hàm răng đang nhe ra. Tôi thẫn thờ ấn tay xuống một phím ngà. Tiếng đàn vang lên. Cùng lúc ấy tôi chợt nghe giọng nói châm chọc:
- Còn đứng đó mà gõ đàn nữa chớ!
Tôi quay đầu lại, không thấy ai trong phòng.
Bà Đan Thanh chạy đi kiếm nước uống đã tỉnh táo trở lại, mỉm cười bước ra:
- Xin lỗi cháu nhé. Câu chuyện vừa rồi làm tôi xúc động. Tôi phải tránh những gì làm hại cho sức khoẻ; bác sĩ đã căn dặn như thế.
Bà gọi chị giúp việc:
- Út ra mở cửa cho cô đi...
Và như không cần để ý đến tôi nữa, bà gọi một người đang chờ sẵn:
- Nào, cậu Chương đâu, mời cậu ra học tiếp.
Chiếc bình phong động đậy. Thì ra tiếng nói châm chọc vừa rồi phát ra từ sau tấm bình phong ấy. Một thanh niên trạc mười sáu, mười bảy tuổi bước ra. Tôi không khỏi nguýt anh ta một cái, và được hắn đáp lễ lại bằng một cái bĩu môi.
Bạn học cùng trường với tôi có nhiều anh trạc tuổi này. Họ vui vẻ, náo hoạt chứ không lầm lì, cau có như cái anh chàng khó thương đó.
Tôi ra khỏi nhà bà Đan Thanh. Cánh cửa đã đóng lại, tôi chơ vơ ngoài hành lang. Thêm một lần thất bại nữa.
Bí mật về tôi vẫn hoàn bí mật. Sự xuất hiện đột ngột khó hiểu của Chương càng khó hiểu thêm. Tại sao Chương tìm đến nhà báo Quê Hương trước tôi? Tại sao Chương cũng lại có mặt tại lớp học hát của bà Đan Thanh?
Những câu hỏi ấy làm tôi điên đầu. Tôi lủi thủi bước xuống thang, bần thần đứng trước bồn cỏ của chung cư.
Giữa lúc ấy thì bà vợ ông gác cổng xách chổi đi tới. Bà hỏi tôi:
- Cô tìm ai ở đây?
- Toi đến gặp bà Đan Thanh. Nhưng...
Tôi ngừng lại, bỏ dở câu nói. Tâm sự với bà nào có ích gì?
Nhưng cũng như mọi người đàn bà mau miệng khác, bà niềm nở tiếp:
- Chắc bà Đan Thanh không chịu tiếp cô chứ gì? Phải rồi, bà ấy bận lắm! Nhiều ca sĩ thành tài được là nhờ công luyện tập của bà. Hồi còn trẻ bà là một ca sĩ nổi tiếng. Vợ chồng tôi làm việc ở đây lâu, tôi biết. Chà! Hồi đó bà được người ta tặng hoa quá xá!
- Hồi trẻ chắc bà Đan Thanh có đi trình diễn nhiều nơi lắm nhỉ?
- Còn phải nói! Bà đi từ Nam ra Bắc là chuyện thường xuyên. Rồi Mên, và cả ngoại quốc nữa.
Câu chuyện của bà vợ ông gác cổng làm tôi lưu tâm. Tôi dò hỏi:
- Mỗi lần đi như thế, chắc bà đi bằng máy bay?
- Không, hồi đó làm gì có sẵn máy bay như bây giờ. Hơn nữa vào kỳ chiến tranh Mỹ Nhật rồi Pháp Việt, chỉ có máy bay đi thả bom thôi. Thường thì đi bằng xe lửa hay tầu thủy. Chuyến đi cuối cùng của bà ấy bị nạn ngoài khơi. Dạo đó chiến tranh đã chấm dứt nhưng thiên hạ ùn ùn từ Bắc di cư vô Nam nên không ai nhắc tới vụ đắm tàu ấy cả.
- Chuyến ấy chắc bà ta thoát nạn nhỉ?
Câu hỏi của tôi làm bà vợ ông gác cổng bật cười:
- Dĩ nhiên, vì bà ấy còn sống nhăn đó thôi!
Tôi cũng cười, vì câu hỏi thật ngớ ngẩn của mình.
- Thế còn... con gái của bà Đan Thanh?
- Con gái... con gái nào?
- Bà Đan Thanh có lập gia đình chứ?
- Có. Nhưng chồng bà ấy chết lâu rồi.
- Còn con?
- Bà có hai người con trai. Song vì bà mắc đi trình diễn luôn nên giao hai cậu cho bà nội nuôi. Hiện nay họ đã lớn, có vợ con cả rồi.
- Thế ạ!... thôi, cám ơn bà nhé!

*

Rời khỏi chung cư X tôi rút cuốn sổ tay gạc bỏ tên hai người. Còn lại năm người nữa, biết họ ở phương trời nào đây?
Tôi nghĩ đến dì Anges. Tôi sẽ tìm dì ở đâu?
Dì Anges là nữ tu dòng Thánh Tâm. Vậy thì tôi cứ đến các nhà dòng nữ thuộc giáo hội Công giáo tìm Dì.
Tôi dùng đủ mọi cách di chuyển: xe buýt, tắc xi, xe lam, cyclo máy mới mò được đúng nơi chỉ dẫn cho tôi về Dì. Hiện nay Dì đang hưu dưỡng tại một nhà dòng ở Thủ Thiêm.
Về Đầu Trang Go down
nhanbkvn



Tổng số bài gửi : 1612
Registration date : 16/07/2012

Mái Nhà Xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Mái Nhà Xưa   Mái Nhà Xưa I_icon13Sun 05 Jan 2014, 22:26

Chương VI
 
Chuyến đi Thủ Thiêm như một cuộc dạo chơi. Tôi chọn ngày chúa nhật để đến với Dì Anges. Ngày chúa nhật là ngày của Cháu. Dì Anges là tôi tớ Chúa nên tôi tin tưởng cuộc gặp gỡ giữa tôi và Dì sẽ không làm tôi bối rối như hai lần trước, lần gặp ông chủ bút báo Quê Hương và nữ ca sĩ Đan Thanh. Với tâm trạng vững vàng đó, tôi yên lòng qua bắc Thủ Thiêm. Từ bến đò lên tôi đáp xe lam đến tu viện.
Nhà của các Dì kế cận bên thánh đường, các giáo hữu thuộc phái nữ đi hành hương có thể xin ở lại tĩnh tâm một vài ngày. Tôi thấy không có gì phải hấp tấp, nên thản nhiên như một khách hành hương từ xa đến, tôi xin được tá túc đến sáng hôm sau.
Mấy hôm vận động ở Saigon tôi cảm thấy mệt. Bởi vậy sau bữa cơm trưa thanh đạm dùng chung với mấy nữ tín đồ khác, tôi về hội quán - nơi dành riêng cho khách thập phương ngủ một giấc thật ngon.
Trước bữa trưa, trong khi chờ đợi giờ cơm, tôi dạo chơi một vòng trong vườn tu viện. Vườn cây thật đẹp được chăm sóc kỹ lưỡng, đường lối sạch sẽ, quang cảnh u trầm tĩnh mịch.
Nhìn sang bên sân thánh đường, giữa mấy nhóm thanh niên đi cắm trại tôi chợt nhận ra mái tóc rối bồng của Chương. Có thể tôi nhầm vì bị ám ảnh.
Sau giấc ngủ khoẻ khoắn tôi thơ thới đi tìm dì Anges, gặp một dì phước trẻ tôi hỏi thăm. Dì nói:
- Em đã có gặp dì Anges rồi mà!
- Dạ, chưa! Em không biết dì ấy ở đâu và cũng chưa rõ mặt dì nữa!
- Thì dì giữ cổng là dì Anges đó.
Té ra trước khi bước chân vào khuôn viên của tu viện tôi đã gặp dì Anges mà không hay. Dì ngồi ngay ở căn phòng đầu nhà, sát bên cổng vào. Tôi tới tìm dì ngay, dì đang ngồi khâu trên chiếc ghế dài kê ngoài hiên.
Thấy tôi tới, dì nhướng mắt qua cặp kính lão nhìn tôi mỉm cười, và thu dọn giỏ khâu cho tôi ngồi ké xuống. Tôi gợi chuyện:
- Dì chịu khó quá. Dì đang khâu gì vậy?
Dì Anges đặt mảnh vải khâu dở xuống:
- Dì may quần áo cho mấy em cô nhi mặc. Ngồi rảnh dì kiếm việc ra làm cho đỡ buồn vậy thôi.
- Hồi trẻ chắc dì đi nhiều nơi lắm, dì nhỉ?
Dì gật đầu, giọng nói thật hiền hòa:
- Phải, dì đã đi nhiều nơi lắm. Bề trên sai dì đi giúp nơi nào là dì đi nơi ấy. Chắc con muốn hỏi chuyện dì để tìm một ý hướng phải không? Có nhiều cô gái như con thường vẫn đến hỏi han về những công việc tông đồ dì đã làm.
Dì nhìn tôi dò xét:
- Có bao giờ con có ý định dâng mình cho Chúa không con?
Tôi bối rối nhìn dì:
- Dì... nói sao?
- Nghĩa là con có muốn làm một nữ tu như dì không?
Câu hỏi của dì thật đột ngột, có lẽ đó là thói quen thánh thiện của dì. Có thể dì đã tìm thấy nguồn hạnh phúc vô biên trong cuộc đời tu trì nên gặp ai dì cũng mong cho họ được thứ hạnh phúc siêu nhiên đó. Nhưng câu hỏi của dì quả đã làm tôi bối rối.
Tôi sinh ra đã là con cái Chúa, vì cứ theo như lời cô tôi thuật lại và căn cứ vào tấm ảnh thánh ghim trên mép chăn phủ bọc tôi thì cha mẹ tôi phải là người ngoan đạo.
Trái lại cô tôi - người nuôi dưỡng tôi sau này - chỉ theo lễ giáo của tiền nhân; thờ kính tổ tiên và chăm lo làm điều thiện chứ không theo hẳn một tôn giáo nào. Ngày lễ Giáng sinh cô dắt tôi đi nhà thờ, hân hoan mừng ngày Chúa ra đời. Tết đến, cô lại đi chùa lễ Phật và xin xâm. Cái đạo sống của cô tôi, dạy tôi trở nên một người hiền lương, chứ không hẳn là tín đồ của một đạo giáo. Tôi rất kính trọng các bậc tu hành. Họ là những người bỏ lòng dục để sống cuộc đời siêu phàm, dâng hiến con người họ cho một lý tưởng cao siêu. Giá ở vào một trường hợp khác, do một người khác hỏi tôi câu đó chắc tôi đã lăn ra mà cười.
Nhưng đây lại là dì Anges.
Tôi ấp úng trả lời:
- Thưa dì, con chưa bao giờ nghĩ tới điều ấy, con chỉ đến đây để hỏi dì... về những nơi dì đã đi.
Được dịp khơi lại những kỷ niệm xa xưa, dì kể lể:
- Ừ, dì đã săn sóc những người mắc bệnh phong ở Tuy Hòa, lên miền cao nguyên giúp việc truyền giáo cho các người thượng Rhade, và về dạy học cho một trường tiểu học ở Nghệ An.
- Dì ở Nghệ An lâu không?
- Lâu. Hồi đó địa phận Xã Đoài có mở một trường sở khá lớn. Dì phụ trách dạy các em tiểu học được ba năm, thì chiến tranh nổi lên. Dì mới xuống tàu vô trong này. Chuyến đó dì xuýt chết vì tai nạn.
- Dạ, con biết!
Tôi sợ dì đắm hồn trong kỷ niệm, rồi cứ mãi mê kể lể những điều tôi không cần biết nên sốt ruột cắt ngang. Dì Anges thốt giọng ngạc nhiên:
- Con cũng biết vụ ấy à?
- Vâng, con biết, vụ chiếc tàu Bạch Phượng bị đắm trong một đêm giông bão. Dì nói cho con nghe đi dì. Lúc ấy dì đi có một mình thôi phải không?
- Trên tầu còn đông người khác nữa con ạ.
- Không, con muốn hỏi là lúc ấy dì có cùng đi với ai nữa không?
- À, dì đi một mình. Nhưng khi lên tàu dì gặp dì Stephanie, người Hòa Lan. Dì Stephaie đáp tàu từ Hải Phòng vào Saigon để chờ về nước.
- Có ai giao cho dì giữ dùm một đứa nhỏ nào không?
Dì Anges lắc đầu:
- Không, mà tại sao con hỏi dì như vậy?
Tôi nghẹn họng mất một lát, rồi mới gặng hỏi thêm:
- Nhưng trên tàu chắc có trẻ con nữa chứ dì nhỉ. Dì có săn sóc chúng không?
Dì lắc đầu:
- Bọn con nít thì đã có cha mẹ chúng lo. Phần dì còn phải giúp dì Stephanie vì dì ấy yếu quá, bị say sóng nằm liệt một chỗ.
Tôi thở dài, chán ngán, song vẫn cố vớt vát:
- Trên tàu, có cả người Việt mình, dì có tiếp xúc với họ không?
- Có chứ, nhưng ít thôi, vì dì không có thì giờ. Xem nào? Dì nhớ là đã có nói chuyện với vợ chồng ông Võ quốc Oai quê ở Gò Công.
- Dì vừa nói đến ông bà Võ quốc Oai?
- Phải, bà ta là một thiếu phụ rất phúc hậu, còn ông ta là một thương gia hay kỹ nghệ gia gì đó.
- Họ có con không dì?
- Hình như không có thì phải vì dì không nghe họ nói đến.
Tôi thở dài:
- Ồ!
Dì Anges trầm ngâm nghĩ ngợi; cũng như một số người cao niên thường nhớ lại những việc đã qua, dì Anges tiếp:
- Dì nhớ có một cặp vợ chồng người Bắc. Người vợ ở vú cho một gia đình nào đó, còn người chồng thì đâu như vô làm công nhân cho một đồn điền của người Pháp ở trong này. Hai vợ chồng người này có bồng theo một đứa bé.
- Một đứa bé?
- Ừ. Chị vợ luôn luôn ấp ủ đứa bé đó trên tay. Tội nghiệp, chẳng hiểu họ có thoát khỏi tai nạn khủng khiếp ấy hay không?
- Dì không gặp lại họ sau vụ đắm tầu ấy à?
- Dì không nhớ nổi nữa. Lúc ấy mạnh ai người ấy lo. Dì luống cuống mê loạn cả đi, chỉ biết là mình được sống sót khi được chuyển vào bờ.
Hai giọt nước mắt lăn dài trên gò má nhăn nheo, dì mếu máo:
- Chỉ thương hại cho dì Stephanie. Dì ấy chìm luôn với chiếc tầu Bạch Phượng.
Tôi đưa nhẹ tay vuốt lưng dì Anges như để trấn an dì. Nhưng tim tôi thì nhảy loạn trong lồng ngực. Tôi tìm thấy sự vui mừng riêng biệt của tôi. Có thế chứ! tôi đã tìm ra, tuy đó chỉ là một hy vọng mong manh, rằng tôi là đứa con gái của một cặp vợ chồng bình dân người Bắc tên là Nguyễn Văn Thành và Đỗ thị Nuôi!
Tôi phải đi tìm ngay hai người và khi tìm ra thì tôi sẽ có một "mái nhà".
Tôi hình dung ngôi nhà gia đình tôi. Ngôi nhà nhỏ bé có hàng dậu bao quanh. Dây bìm bìm leo kín bờ dậu điểm những bông hoa mầu tím nhạt. Mẹ tôi là người đàn bà hiền hậu, cha tôi là người đàn ông chất phác, lam lũ nhưng can đảm.
Giọng nói xúc động của dì Anges chợt làm tôi tỉnh mộng:
- Dì thấy chuyện này có hơi kỳ!
- Sao, thưa dì?
- Là tại sao con lại hỏi dì những câu hỏi vừa rồi?
Tôi cười nhẹ:
- Dì chẳng vừa nói với con là dì đã quen tính tò mò của các cô gái đến thăm dì đó thôi!
- Dĩ nhiên! Nhưng đây là những câu hỏi đặc biệt về vụ đắm tàu Bạch Phượng và những người liên hệ như ông bà Võ quốc Oai, cặp vợ chồng công nhân người Bắc... Từ bao năm nay chưa ai đặt những câu hỏi ấy ra với dì cả. Nay bỗng nhiên liên tiếp hai ngày nay có tới mấy người tới hỏi dì...
- Ủa?
- Chiều qua, có một người đàn ông nhỏ thó tới hỏi dì. Thấy hắn có vẻ khả nghi, dì không trả lời, chỉ nói là dì đã quên hết... tuy nói thế dì cũng không mắc tội nói dối, vì sự thực dì cũng chỉ nhớ lõm bõm vậy thôi... Rồi đến sáng nay...
- Sáng nay? Thì đến lượt con phải không dì?
- Không! Trước con còn có một người nữa. Dì dậy từ năm giờ sáng, sang nhà thờ dự thánh lễ tới sáu giờ, thì gặp một thanh niên...
- Một thanh niên có mái tóc bồng?
- Ừ. Anh ta hỏi dì những câu như con đã hỏi dì.
- Vô lý thật!
- Dì cảm thấy có điều gì kỳ lạ, chứ không vô lý đâu con. Vì thật như thế mà con! Con là người thứ ba hỏi dì về những câu hỏi như thế.
Dì Anges nở một nụ cười ngỏ ý từ biệt tôi. Hiểu ý, tôi cám ơn dì và đứng lên để dì tiếp tục công việc may vá của dì.
Tôi ngẫm nghĩ: Không hiểu tại sao lại có thêm một người đàn ông nhỏ thó và anh thanh niên tóc bồng xen vào câu chuyện này?
Có một sự trùng hợp nào chăng?
Và đột nhiên tôi cảm thấy lo sợ.
Chiều ấy tôi từ giã tu viện, và cũng bỏ luôn ý định đi Gò Công tìm gia đình ông bà Võ quốc Oai, vì thấy họ không còn liên hệ gì tới tôi nữa.
Tôi quyết định đi tìm tông tích cặp vợ chồng công nhân Nguyên văn Thành.
Về Đầu Trang Go down
nhanbkvn



Tổng số bài gửi : 1612
Registration date : 16/07/2012

Mái Nhà Xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Mái Nhà Xưa   Mái Nhà Xưa I_icon13Sun 05 Jan 2014, 22:26

Chương VII
 
Tôi trở về Saigon chỉ kịp ghé qua nhà Bưu điện gửi cho cô tôi lá thư dài mà tôi đã viết hôm ở lại tu viện Thủ Thiêm. Trong thư, tôi kể các cuộc tìm kiếm của tôi, và hy vọng lần này sẽ có kết quả.
Có thật lần này tôi sẽ tìm được "mái nhà xưa", tìm lại được cha mẹ tôi? Điều hy vọng đó vẫn chỉ là một ước mơ. Vợ chồng ông Nguyễn văn Thành không ai biết rõ ở đâu. Nhưng có một chi tiết tôi có thể bám víu vào sự hy vọng mong manh của tôi. Đó là nghề nghiệp của ông: Công nhân sở đồn điền. Ở miền Nam này hồi còn được coi là thuộc địa của người Pháp, họ đã khai thác rất nhiều mối lợi trong đó có các sở đồn điền. Trên mảnh đất quê hương Việt Nam biết bao nhiêu là đồn điền do những người Pháp thực dân làm chủ đã mọc lên trên các giải đất phì nhiêu dọc theo quốc lộ song song với đường hỏa xa từ Saigon lên vùng cao nguyên Kontum Đalat. Những đồn điền cao su, cà phê, trà, đều là những nguồn lợi được họ khai thác.
Tôi đã đọc cuốn Bão Rừng của nhà văn Nguyễn văn Xuân tả đời sống cơ cực của công nhân đồn điền. Không biết vợ chồng ông Thành có lâm vào tình trạng bi đát ấy không! Dù sao nếu quả thật tôi là con ruột của ông bà, tôi nhất quyết phải đi tìm.
Tôi dùng đường hỏa xa đi Đalat, định bụng sẽ dò hỏi các đồn điền từ vùng cao nguyên trở xuống.
Số tiền cô tôi cho làm lộ phí còn kha khá, nên tôi an tâm mua vé và ít quà bánh dùng ăn bữa tối.
Chuyến tàu tôi đi, khởi hành vào 7 giờ chiều. Trước giờ tàu chạy độ 5 phút, một bà mẹ hấp tấp dắt mấy đứa con nhỏ lên cùng toa với tôi. Tôi giúp bà chuyển hành lý và thu xếp cho các con bà có chỗ nằm ngồi thoải mái. Vì là chuyến tốc hành Saigon Đalat nên tàu sẽ chạy suốt đêm. Sở dĩ tôi chọn đi chuyến này, để khỏi phải ngủ đêm một mình ở khách sạn. Thân gái bơ vơ nơi quán trọ, nghĩ cũng ngại!
Trong lúc đoàn tàu lăn bánh, trườn mình vào đêm tối, tôi và bà khách cùng toa, trao đổi với nhau ít nhiều câu chuyện xã giao.
Chờ cho các con bà ngủ yên tôi mới gợi hỏi:
- Chắc bà cũng lên Đalat phải không ạ?
Bà đáp:
- Vâng, nhà tôi làm việc trên ấy. Tôi cho các cháu xuống Saigon chơi ít hôm, nay trở lên lại.
- Thưa, ông bà ở Đalat lâu chưa?
- Cũng khá lâu. Nhà tôi tùng sự ty điền địa đã ngót mười năm nay rồi, chúng tôi có nhà riêng và vườn ở trên ấy.
- Như vậy chắc ông bà biết nhiều về các đồn điền ở vùng cao nguyên.
Người đàn bà cười thật tươi:
- Ở vùng này có thiếu gì đồn điền. Nhưng cô muốn hỏi đồn điền nào?
- Dạ... em cũng không biết nữa! Em đi tìm người bà con thất lạc trên 10 năm nay. Em chỉ được biết đại khái là người chồng làm công nhân đồn điền và người vợ hồi ấy ở vú cho một gia đình nào đó.
Bà bạn đồng hành tròn mắt nhìn tôi:
- Cô chỉ biết được có bấy nhiêu về vợ chồng người bà con thôi à?
- Dạ...!
- Vậy mà cô đi tìm họ thì có khác gì cô làm công việc mò kim dưới đáy biển. Bởi vì như cô vừa nói, cô mất liên lạc với họ đã trên mười năm nay rồi, chắc hồi đó cô hãy còn nhỏ lắm?
- Vâng!
- Cuộc đời như vật đổi sao dời... lại thăng trầm bỉ cực tùy theo số mệnh. Biết đâu người bà con của cô nay không còn là công nhân đồn điền nữa. Hoặc giả nếu có còn chăng nữa, thì cũng phải biết rõ ở đồn điền nào mà tìm đến chứ?
Tôi thở dài ủ rũ. Bà khách suy nghĩ rồi khuyên:
- Theo tôi thì cô nên nhờ các báo nhắn tin dùm trên mục "tìm người nhà" may ra còn có hy vọng... Nhưng ở tuổi cô, tôi sợ nhỡ rơi vào tay bọn bịp bợm, điếm đàng thì khốn. Việc đi tìm vợ chồng người bà con này có cần thiết cho cô lắm không?
- Dạ, cần lắm.
- Nếu vậy, cô nên nghe tôi, hãy trao việc này cho những người lớn tuổi trong gia đình cô lo dùm. Bằng không thì phải nhờ một nhân vật nào thật đáng tin cậy. Ở tuổi cô...
Tôi cay đắng nghĩ thầm: "Phải rồi, ở cái tuổi còn non dại của tôi, liệu tôi có thể làm gì nên chuyện!"
Bà khách che tay lên miệng ngáp và câu chuyện giữa chúng tôi ngưng lại ở đây. Tôi cũng thiếp dần vào giấc ngủ, gật ngưỡng với những u sầu.

*

Tôi mở choàng mắt khi đoàn tàu vừa rời một ga xép.
Lúc ấy trời vẫn còn tối. Thấy bứt rứt khó chịu trong người tôi định vào phòng vệ sinh rửa mặt cho mát. Lần theo hành lang để đi về phía cuối toa, tôi suýt kêu lên kinh ngạc.
Một người đàn ông vừa lách mình vượt qua đường nối của toa tàu để bước sang toa sau. Hắn là một người nhỏ thó, loắt choắt, dáng điệu thập thò trốn lủi như giống chuột thành phố.
Hắn có thể là một tên cắp vặt, lợi dụng trong lúc mọi người ngủ mệt, để trổ nghề móc túi... Tôi nghĩ ngay đến ví tiền của tôi, và người hành khách khả nghi kia có thể đã biết tôi lên tàu có một mình. Hắn đang rình rập và chờ cơ hội.
Tôi hấp tấp quay lại, hoảng hốt vượt qua cả cabin của mình mà không hay. Chừng quay đầu lại nhìn xem tên trộm có theo mình không, bất thần tôi chạm trán với một chướng ngại khác: Chương mỉa mai hỏi tôi:
- Lại gặp cô đây nữa!
Trong lúc cuống sợ, tôi quên cả ngạc nhiên khi gặp Chương.
Tôi hét lớn:
- Tránh ra cho tôi đi. Có tên trộm đang theo tôi.
- Tên trộm nào?
- Cái tên nhỏ người tôi vừa gặp.
- À, thằng "Chuột"! Nó không còn đây đâu. Nó đã chui vào hang rồi... hay nói cho đúng thì hắn đã về toa của hắn rồi. Nhưng cô khỏi lo vì không phải hắn theo rình cô đâu, mà là hắn theo tôi.
- Thật không?
- Thật.
- Tại sao vậy?
- À, điều này... thì tôi chưa rõ. Nhưng có ngày tôi sẽ biết. Đến lúc ấy, tôi sẽ đập nát mõm hắn ra.
Tôi cảm thấy nhẹ nhõm và lấy lại bình tĩnh, tôi rút chiếc lược nhỏ ra chải lại mái tóc xõa trên trán và rối bời trên bờ vai.
Chương nhìn cử chỉ của tôi mỉm cười:
- Vô ích!
- Anh bảo sao?
- Tôi bảo là cô chải đầu làm chi vô ích, gió ở hành lang này sẽ làm cho mớ tóc buông lơi của cô rối bời như cái ổ quạ!
Tôi trực nhớ lại dầu sao người con trai hợm hĩnh này cũng có những hành vi khả nghi như tên "Chuột" - cái hỗn danh mà anh tai đã đặt cho người đàn ông nhỏ thó. Tôi cau mày hỏi:
- Anh đi đâu mà cũng có mặt trên chuyến tầu này?
- Tôi đi đâu kệ tôi! Cô hỏi làm chi! Có can dự gì tới cô không?
- Có chứ. Anh theo đuổi tôi như cái bóng ma, trong một cơn ác mộng.
Chương cười gằn:
- Tôi tự hỏi ai đã theo đuổi ai! Hôm tôi đến học hát ở nhà bà Đan Thanh...
Tôi mỉa mai:
- Chắc anh hát hay lắm nhỉ?
- Hay dở gì tôi cũng có quyền tự do của tôi chứ. Mắc mớ gì đến cô mà cô xía vô? Tôi rời Saigon đi Thủ Thiêm cũng lại thấy cô trong vườn tu viện. Và bây giờ trên chuyến tầu nầy tôi cũng lại gặp cô nữa! Khả nghi quá! Hay cô là đồng bọn với tên Chuột kia?
- Đừng có nói láo! Anh không thấy con chuột đó đã làm tôi sợ hay sao?
- Ừ nhỉ. Nếu vậy thì hắn là giống chuột chũi rồi. Mắt hắn thong manh nên mới không thấy dáng điệu khả nghi của cô.
- Còn anh nữa! Tôi không rình rập anh, vậy chính anh đã rình rập tôi.
- Kết luận lạ nhỉ!
- Chẳng lạ chút nào cả mà rất... hợp lý. Những vụ chạm trán ở nhà bà Đan Thanh, dì Anges...
- Dì Anges? Cô đã gặp dì ấy?
- Chứ sao! Tôi đến Thủ Thiêm với mục đích ấy! Anh còn chưa biết là suýt nữa thì chúng ta còn chạm trán nhau ở nhà báo Quê Hương nữa kìa!
- Hừ!
Chương cắn môi suy nghĩ, trán anh tỳ vào tấm cửa kính của thành tàu.
- Phải công nhận rằng cô và tôi, chúng ta cùng theo đuổi một việc. Nhưng vô lý quá, không thể được!
- Tại sao không thể được?
Chương lẩm bẩm như nói một mình:
- Ông Nguyễn văn Thành, và bà Đỗ thị Nuôi? Không... không...
- Anh vừa nói gì?
- Ồ, không. Cô đừng hỏi gì tôi cả. Cô cứ việc tiếp tục con đường của cô, và tôi mong rằng cô sẽ... thất bại!
Tôi chua chát:
- Nếu vậy, chúng ta còn có dịp gặp nhau. Tôi cũng chúc anh điều anh đã chúc cho tôi vậy.
Thật tình tôi muốn hỏi thêm Chương về vợ chồng ông Nguyễn văn Thành. Nhưng nhìn nét mặt lầm lì của Chương, tôi biết không khi nào anh ta trả lời. Hơn nữa tôi cũng tức giận vì những lời lẽ sống sượng của Chương mà không thèm hỏi nữa.
Tôi quay về cabin của tôi. Trước khi mở cửa bước vào, tôi liếc nhìn lần chót đối thủ của tôi. Chương vẫn đứng yên ngoài hành lang, chiếc sắc hành lý đặt sẵn dưới chân... Chi tiết này loé sáng trong óc tôi: Chương sửa soạn xuống một ga sắp tới.
Chương đang tìm vợ chồng ông Nguyễn văn Thành...
Chắc chắn anh ta nắm được nhiều chi tiết mà tôi không có.
Không cần suy nghĩ gì hơn, tôi vội vã thu nhặt hành trang. Đoàn tàu đã từ từ chậm bớt tốc lực.
Tôi bỗng nảy thêm một sáng kiến. Để Chương khỏi nhận ra, tôi cột mớ tóc của tôi lại, và thay mặc chiếc áo khác.
Rồi tôi nhảy xuống sân ga, vừa kịp lúc đoàn tàu chuyển bánh, tiếp tục đoạn đường còn lại.
Chương hầu như đã biến mất.
Về Đầu Trang Go down
nhanbkvn



Tổng số bài gửi : 1612
Registration date : 16/07/2012

Mái Nhà Xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Mái Nhà Xưa   Mái Nhà Xưa I_icon13Sun 05 Jan 2014, 22:26

Chương VIII
 
Tôi nhận ra đang ở sân ga Tháp Chàm. Đây là giao điểm của hai đường Đalat - Nha Trang nên tàu còn đỗ lại khá lâu để dồn chuyến phân đi hai ngã.
Trời đã bắt đầu rạng sáng. Ánh đèn ở sân ga nhạt dần vào buổi bình minh mờ đục.
Chiếc valy của tôi khá nặng. Tôi chợt nhận ra tôi đã tham lang mang theo những thứ lặt vặt... rất là con gái! Những thứ ấy lúc này đeo nặng trên cánh tay mỏi rời của tôi, kéo trì vai tôi xuống. Tôi thở dài bực bội, thì vừa nghe có tiếng nói bên cạnh:
- Cô cho phép tôi giúp cô một tay!
Tôi khựng người lại. Người vừa nói câu đó là tên "Chuột"!
Hắn nhắc chiếc valy của tôi một cách nhẹ nhõm mà tôi không ngờ ở con người mảnh khảnh như hắn. Đầu óc tôi rối lên những ý nghi ngờ. Từ lúc mới thoáng gặp hắn trên tàu, tôi đã có thành kiến, coi hắn là một tên gian phi. Có phải hắn định xách giùm chiếc valy của tôi để rồi chuồn luôn? Làm sao bây giờ? Hắn đi trước tôi, và tôi chỉ còn có cách theo sau hắn.
Ra khỏi nhà ga, hắn dừng lại, bảo tôi:
- Xin lỗi cô, tôi không thể giúp cô xa hơn nữa. Tôi đợi đổi sang chuyến tàu khác.
Tôi ngỏ lời cám ơn, lòng nhẹ vơi. Rồi tôi chợt nảy ra một ý kiến: Người này đang theo dõi Chương. Hắn quyết định đổi tàu, tức nhiên Chương cũng đã đổi tàu.
Như vậy tôi còn ở lại ga này làm chi? Tháp Chàm thuộc thị xã Phan Rang. Nếu là khách nhàn du tôi có thể ở lại đi thăm ngôi tháp cổ của dân Hời, và ra bờ biển Ninh Chử tắm mát. Nhưng tôi không phải là du khách. Tôi đang có một mục tiêu theo đuổi. Còn đang suy tính lưỡng lự, muốn hỏi tên Chuột một vài điều thì hắn đã hỏi tôi trước:
- Tôi vừa thấy cô nói chuyện với một thanh niên trên tầu, chắc cô với anh ta là chỗ quen biết?
- Không, tình cờ tôi vấp phải anh ta, và đứng lại xin lỗi thôi.
Câu trả lời của tôi như giải tỏa được nỗi lo ngại của tên Chuột. Hắn hoan hỉ:
- Cám ơn cô lắm. Xin chào cô.
- Chào ông.
Tôi rời khỏi cánh cổng xếp dành làm lối ra cho các hành khách, và trong lúc số hành khách này lên xe về thị xã Phan Rang thì tôi âm thầm vòng vào cửa chính, đặt chiếc valy nặng nề của tôi trước chỗ bán vé. Tôi lúng túng hắng giọng:
- Mấy giờ thì có chuyến đi...
Nhân viên bán vé niềm nở, gỡ rối hộ tôi:
- Nha trang phải không? Tầu đang dồn chuyến. Còn 5 phút nữa thì chạy. Cô lấy vé gay đi kẻo trễ.
Tôi mua vé, rồi hấp tấp ra sân ga.

*

Các hành khách đi Nha trang đang lũ lượt lên tầu. Tôi nhập bọn đi lẫn vào với họ. Chương và người đàn ông có hỗn danh là "Chuột" chắc đã yên chỗ trên tầu rồi, vì không thấy bóng họ dưới sân.
Cuộc hành trình làm tôi thấm mệt. Tuy nhiên, sau một đêm lắc lư với con tàu, tôi được hưởng cái thú ngoạn cảnh dưới ánh bình minh. Cảnh sắc thiên nhiên như bừng tỉnh sau một giấc ngủ triền miên nom thật đẹp. Chân mây ửng hồng đẩy vòm trời lên cao và càng cao da trời càng biếc. Đoàn tàu lướt nhanh, lúc băng qua những cánh đồng bát ngát, lúc xuyên đồi lượn theo các triền núi quanh co. Một bên là biển. Nước biển xanh như màu ngọc bích, loang loáng ánh dương huy. Mặt trời chiếu sáng những cánh buồm lững lờ ngoài khơi, hoặc nhuốm vàng cồn cát trắng.
Phong cảnh gợi rất nhiều ý thơ, mà tiếc rằng tôi không phải là thi sĩ. Tôi chỉ nhận ra đất nước của quê hương thật hữu tình. Giả như tôi không bận tâm về mục đích tôi đang theo đuổi thì cuộc hành trình này sẽ làm tôi vui thú biết bao.
Thỉnh thoảng tàu qua một khúc quanh, tôi thò đầu nhìn con tàu như một thân rắn khổng lồ uốn khúc, chợt bắt gặp đầu Chương cũng ló ra. Sự hiện diện của Chương ở trên tàu làm tôi yên trí. Cứ theo chân anh ta, tôi sẽ tìm thấy vợ chồng ông Nguyễn văn Thành.
Chương tìm họ làm gì?
Câu hỏi này vẫn làm tôi thắc mắc, nhưng hãy để hạ hồi phân giải. Hiện thời tôi chỉ nên kiên nhẫn chờ đợi.
Con tàu hú một hồi còi dài, báo hiệu sắp sửa vào ga. Tôi nhấp nhổm nhìn ra. Thấy vẻ bồn chồn của tôi, một hành khách kế bên nói:
- Nếu cô đi Nha trang cô cứ ngồi yên, vì ga này mới được nửa đường.
- Thưa, đây là ga nào?
- Cam Lâm.
Hành khách xuống Cam Lâm khá đông, vì đây là đường đưa vào thị xã Cam Ranh. Nhìn xuống sân ga, tôi chợt giật mình: Chương đang trả vé, len ra cửa. Không kịp suy nghĩ, tôi xách vội valy.
Người ngồi kế bên tôi ngạc nhiên hỏi:
- Tưởng cô đi Nha trang! Cô xuống đây à?
- Dạ...
Tôi nối đuôi theo đám hành khách đang tuôn ra cửa. Tên Chuột đang len phía trước, lưng hắn chỉ cách tôi có mấy người.
Cuộc săn đuổi có vẻ hào hứng. Tôi ra khỏi cửa ga vừa kịp thấy Chương lên chiếc xe hàng đón khách. Nấp sau một gốc cây tôi chờ cho chiếc xe hàng rời bến, mới leo lên chiếc xe lam, bảo:
- Ông đuổi theo chiếc xe kia dùm tôi.
Người tài xế xe lam nói:
- Xe tôi có thể vượt trước xe kia được! Cô vô quận Cam Lâm hay sang Cam Ranh?
- Tôi chưa nhất định, ông cứ làm ơn theo hộ tôi cái xe kia.
Chiếc xe lam từ tốn theo sau. Chiếc xe hàng đỗ lại nhiều chặng, tuỳ nơi hành khách muốn xuống. Xe đậu rồi đi, chẳng hiểu đã qua những nơi nào vì tâm trí tôi rối bời, mắt chăm chú nhìn chiếc xe đàng trước, chỉ sợ lạc mất Chương. Một xứ đạo hiện ra với tháp thánh đường. Chiếc xe hàng ngừng bánh. Có ba hành khách xuống xe: hai người đàn bà tay mang xách nặng và Chương.
Tôi bảo người tài xế xe lam:
- Ông cho tôi xuống đây thôi...
Sau khi trả tiền xe, tôi đi vào con đường Chương vừa quẹo. Bước chân tôi ngập ngừng trước cổng nhà thờ. Tôi hỏi một bà già đang lom khom quét ngoài sân:
- Bà làm ơn cho cháu biết, nãy giờ bà có thấy một cậu trai nào qua đây không?
Bà già hấp háy cặp mắt.
- Anh cô đó hả? Cậu ấy vừa đi về lối này.
Tôi lững thững đi theo hướng bà chỉ, vượt qua một cổng rào và tiến thêm ít bước trên con đường cát mịn, tôi nhận ra đây là một nghĩa trang. Gió thoáng lướt qua hàng ô rô thấp, thoảng mùi nước mặn. Những cụm hoa dừa màu tím nhạt nở bên các nấm mộ xanh cỏ.
Chương đứng ở cuối góc nghĩa trang, lưng quay lại phía tôi.
Tôi thấy không cần phải ẩn nấp nữa, nhẹ nhàng tiến đến bên anh và tôi nhìn điều anh đang nhìn, lòng nặng u sầu.
... Trên tấm mộ chỉ đặt giữa hai ngôi mộ nằm song đôi, có ghi những hàng chữ:
Nơi đây yên nghỉ
Nguyễn văn Thành và Đỗ thị Nuôi
Sinh quán Bắc Việt, qua đời ngày...
Tiếp theo hàng số ghi ngày tháng... có thêm câu:
Xin hãy cầu nguyện cho linh hồn người quá cố.
Về Đầu Trang Go down
nhanbkvn



Tổng số bài gửi : 1612
Registration date : 16/07/2012

Mái Nhà Xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Mái Nhà Xưa   Mái Nhà Xưa I_icon13Sun 05 Jan 2014, 22:27

Chương IX
 
Tôi không ngăn nổi giòng nước mắt. Tôi còn gì để hy vọng?
Mãi đến bây giờ tôi mới ý thức được: Không phải tôi chỉ đi tìm tông tích một gia đình, một mái nhà, một dòng họ như tôi vừa theo đuổi lúc đầu. Mà là một người mẹ ruột thịt! Một người cha thương yêu!
Tôi từng được cô tôi yêu thương chiều chuộng, đáp lại tôi cũng hết dạ thương yêu cô tôi! Lòng yêu thương đó còn sâu đậm hơn nữa khi tôi được biết những gì bà đã dành cho một đứa trẻ xa lạ như tôi.
Nhưng dầu cô tôi có yêu thương tôi cách mấy, chiều chuộng cưng nựng tôi cách mấy, cô vẫn chưa phải là một người mẹ.
Mà tôi thì đang khao khát được làm con.
Chính vì lẽ đó tôi dám từ bỏ những sung sướng vật chất, bứt khỏi vòng tay níu kéo của cô tôi, lần mò tìm đến nơi này. Ngờ đâu vượt qua bao dặm đường dài mong gặp được cha mẹ, thì hai người đã không còn nữa!
Bàn tay của Chương nắm nhẹ cánh tay tôi:
- Đi thôi.
Tôi thờ thẫn theo Chương.
Ra khỏi xóm đạo, Chương dìu tôi ngồi xuống vệ cỏ.
- Cô không có khăn tay à?
Tôi chỉ vào valy:
- Có. Nhưng để trong này.
Chương móc túi lấy chiếc khăn tay sạch đưa tôi:
- Cô lau nước mắt đi.
Tôi ngượng ngập làm theo lời Chương. Anh ta tiếp:
- Chúng ta nên giải thích cho nhau rõ...
Tôi sụt sịt:
- Vâng.
- Tên cô là gì?
- Khánh.
- Còn tôi là Chương.
Không ai bảo ai, chúng tôi chỉ xưng tên gọi, quên nói tên họ.
- Tại sao cô cứ theo dõi tôi hoài vậy?
- Tôi không theo dõi anh, luôn luôn anh là người đến trước tôi, có vậy thôi. Tôi đã cho anh biết lúc ở trên tàu rồi.
- Nên tôi mới lại gặp cô ở đây! Ở tháp Chàm cô xuống tàu sau tôi, và ở Cam Lâm này, thì cô thấy tôi xuống tàu rồi mới xuống! Phải, tôi vẫn là người đi trước để cô theo sau.
- Sao anh biết?
- Khó gì mà không biết. Cái điệu bộ ngơ ngác của cô che dấu nổi ai. Nhưng thôi, hãy đi thẳng vào vấn đề: Cô cũng đi tìm vợ chồng Nguyễn văn Thành và Đỗ thị Nuôi?
- Phải, sau khi đã dò hỏi nhiều nơi khác... Nhưng ở Saigon, có phải anh định học hát thật không?
- Thực ra, bà Đan Thanh phụ trách chương trình Trẻ cho đài phát thanh, nên tôi mượn cớ đó để gặp bà. Đáng lý tôi chỉ cần trình bày lý do tôi muốn gặp bà cũng đủ... chắc tại tôi đọc nhiều tiểu thuyết trinh thám quá.
- Còn tôi đã nói thẳng lý do của tôi ra và suýt làm bà té xỉu!
- Thôi bỏ chuyện ấy đi. Về vụ vợ chồng Nguyễn văn Thành...
- Thú thật về vụ này tôi rất ít hy vọng. Song tôi chợt nhớ ra anh cùng theo đuổi một mục đích như tôi tất anh biết nhiều điều mà tôi không biết.
Chương mỉa mai:
- Dĩ nhiên! Tôi không ngu xuẩn như cô để lần mò từ đồn điền này qua đồn điền khác, hỏi thăm từng người.
- Bởi thế tôi mới đi theo anh! Anh làm cách nào biết được vợ chồng ông Nguyễn văn Thành ở đây?
- Tôi có một người bạn đồng lớp. Ba anh ta làm việc tại tổng nha cảnh sát. Trong một lần tâm sự tôi có nói với anh bạn và anh ấy đã nhờ ông bố sưu tra dùm tôi.
Giọng Chương trầm hẳn lại:
- Buồn một nỗi là khi tìm ra tung tích thì... vợ chồng ông bà Nguyễn văn Thành đã chết rồi!
- Biết vậy anh còn tìm đến đây làm chi?
- Tôi muốn phối kiểm xem có đúng như vậy không... và thăm mộ hai người luôn thể...
- Tại sao anh lưu tâm tới vợ chồng ông Thành dữ vậy?
Chương lưỡng lự:
- Tôi không thể nói cho cô biết được. Đây là điều bí ẩn riêng tôi thề giữ kín trong lòng. Còn cô, cô Khánh, cô có thể cho tôi biết điều bí ẩn của cô được chăng?
- Được chứ! Tôi chẳng có điều gì cần dấu diếm cả. Ông bà Nguyễn văn Thành là cha mẹ ruột của tôi.
Chương nhảy nhổm người lên. Anh mất hẳn vẻ bình tĩnh, nhìn tôi với cặp mắt long lanh:
- Láo! Cô nói láo!
Đến lượt tôi vùng đứng lên, giận dữ:
- Anh dám nói tôi thế hả? Tôi đâu thèm nói láo với anh...
- Cô lấy bằng chứng đâu để tự nhận mình là con ông bà Nguyễn văn Thành? Cô trả lời tôi đi?
- Tôi không cần phải trả lời ai cả. Chuyện riêng của tôi mắc mớ gì đến anh.
- Tôi...
Đúng lúc ấy, một chiếc xe lam đi qua, tên Chuột thu hình ngồi bên trong.
Chương như quên hẳn tôi, hằn học:
- Thì ra con chuột trù vẫn cứ bám sát chúng ta!
Cơn giận của tôi cũng vụt tan.
- Anh Chương, tôi ngán hắn quá.
- Thứ đồ bỏ ấy có gì đáng sợ. Hơn nữa hắn không để ý cô đâu.
- Bây giờ thì hắn phải để ý vì tôi đã có dịp nói chuyện với hắn ở Tháp Chàm.
Tôi kể cho Chương nghe cuộc gặp gỡ giữa tôi với tên Chuột, Chương nói.
- Mình sẽ đề phòng. Chúng ta hợp nhau chống lại con rắn độc ấy.
- Tôi bỏ cuộc rồi. Mai mốt tôi trở về Phong Điền.
- Cô làm gì ở Phong Điền?
- Tôi về nhà tôi, gia đình tôi ở đó.
- Gia đình của ai?
Tôi nổi sùng trở lại:
- Cô tôi!
- Một thân nhân của ông bà Nguyễn văn Thành?
- Không!
Tôi quay lưng vùng vằng bước đi. Đến một ngã ba tôi đứng lại chờ xe. Chương cũng đứng đón xe cách tôi mấy bước. Trán Chương nhăn lại, đầy vẻ suy tư, và không nói với tôi câu nào nữa.
Về Đầu Trang Go down
nhanbkvn



Tổng số bài gửi : 1612
Registration date : 16/07/2012

Mái Nhà Xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Mái Nhà Xưa   Mái Nhà Xưa I_icon13Sun 05 Jan 2014, 22:27

Chương X
 
Tôi ở lại Cam Lâm ba ngày. Buồn nản dâng ngập trong lòng, đầu óc trống rỗng, tôi thờ thẫn như một kẻ không hồn. Tôi trở lại xứ đạo lần nữa thăm hai ngôi mộ của ông bà Nguyễn văn Thành, và đã khóc thật nhiều. Nước mắt của tôi âm thầm nhỏ giọt, thổn thức theo cảm xúc u sầu của một đứa con gái trước nấm mồ tẻ lạnh của song thân.
Tôi cũng đã vào nhà xứ hỏi thăm vị linh mục quản nhiệm xem ông bà Nguyễn văn Thành có còn ai là thân nhân ở đây không. Nhưng cả hai đều không có họ hàng thân thích, ngoại trừ một vài bạn đồng hương đi làm ở nơi xa.
Tên Chuột lẩn biến đâu mất. Chỉ có Chương, tôi thoáng thấy anh ở ngoài bờ sông nhưng tôi tránh mặt.
Hy vọng của tôi tan vỡ rồi. Tôi còn biết đi đâu nữa, nếu không quay trở về với cô tôi!
Tôi viết cho cô một bức thư tường thuật hết mọi sự, và báo tin để cô yên lòng là sớm muộn gì tôi cũng trở về sống bên cô.
Chúng tôi sẽ tiếp tục cuộc sống bình thản êm đềm thủa trước.
Nhưng cái hạnh phúc trước đây liệu có còn trọn vẹn như xưa?
Lúc đi mua tem gửi thư tôi mới chợt nhận ra một điều kinh khủng: tiền túi của tôi đã cạn. Vì mải miết theo đuổi mục đích của mình, tôi đã tiêu xài không tính toán.
Làm sao bây giờ? Dĩ nhiên chỉ còn mỗi cách xin thêm cô tôi. Tuy biết cô rộng lượng, nhưng tôi vẫn cảm thấy ngại ngùng hổ thẹn.
Số tiền tôi còn, chỉ vừa đủ trả nhà trọ, và may lắm thì lấy thêm được xuất vé tới Saigon.
Lòng dạ rối bời, tôi lang thang dọc theo bờ sông, rồi kiếm một mỏm đá ngồi suy nghĩ. Gió thổi sào sạc mấy khóm lau sậy mọc ven sông, sóng nước lăn tăn, đưa đẩy những xác lá bập bềnh trôi. Giá những xác lá kia trở thành những tờ giấy bạc nhỉ! Có bà tiên nào giúp tôi thoát khỏi cơn bỉ này chăng? Mơ ước của tôi viển vông quá, và cũng thật trẻ con.
Tôi chợt nghe có tiếng nói:
- Cô ngồi làm gì ở đây?
Giọng nói tưởng như của bà tiên nhân ái hiện ra nói với con cám con truyện cổ tích khi hỏi nó:
- Tại sao con ngồi khóc ở đây?
Tôi quay đầu lại, không khỏi sửng sốt khi thấy Chương đang lần bước xuống chỗ tôi ngồi. Chương tỏ vẻ muốn thân thiện, hòa nhã.
Anh nói:
- Cô Khánh có quen việc kèm trẻ không nhỉ?
Tôi không hiểu tại sao bỗng nhiên Chương lại hỏi tôi câu ấy! Kèm trẻ? Tôi suýt bật cười vì cái chức nghiệp đột ngột này. Chưa bao giờ tôi nghĩ đến công việc ấy cũng như chưa có dịp làm thử bao giờ. Câu hỏi do Chương đặt ra làm tôi thầm nghĩ: có lẽ đây là một dịp may để tôi kiếm dư số tiền lộ phí trở về nhà. Nhưng tự ái của tôi không cho phép tôi thú nhận với Chương rằng tôi cũng đang mong có một việc làm. Tôi chanh chua bảo Chương:
- Bộ anh cần cô giáo hả?
Chương thản nhiên ngồi xuống một tảng đá đối diện, từ tốn đáp:
- Không phải cho tôi mà là cho bé Việt, em tôi. Thằng nhỏ phá quá nên đã có hai cô giáo chê nó rồi.
- Dữ không! Chắc tính nết nó cũng dễ thương như anh chứ gì?
Chương vẫn không có phản ứng. Đôi mắt thoáng nét u buồn, anh im lặng một lát rồi trầm giọng nói:
- Má tôi không thể đích thân săn sóc em tôi được, vì sau một tai nạn, bà bị bại một bên chân và ốm yếu luôn. Phải cần một thời gian điều dưỡng lâu dài, má tôi mới có thể bình phục được.
Tôi hơi hối hận:
- Xin lỗi anh. Tại tôi không biết..
Chương tiếp:
- Ba tôi lại rất bận. Ông là chủ một nhà máy lớn, nên thường chỉ về nhà vào bữa cơm chiều.
- Nhà anh ở đâu, anh Chương?
- Ở Biên hòa. Cô bằng lòng về đó kèm dạy em tôi không?
- Vì lẽ gì anh muốn tôi về dạy dỗ em anh? Mới đây anh còn hằn học với tôi, coi tôi là một đứa nói láo kia mà.
- Mình nên bỏ qua chuyện ấy. Dầu sao cô vẫn có thể là một cô giáo tốt.
- Nhưng tôi chưa có chút kinh nghiệm nào về việc kèm trẻ.
- Rồi cô sẽ quen và thành thạo mấy hồi.
- Biết đâu ở nhà má anh đã kiếm được người khác rồi?
- Chắc chưa, vì nếu có má tôi đã cho tôi hay.
-... với lại sợ má anh cho tôi hãy còn trẻ quá.
- Cô bao nhiêu tuổi rồi? Cũng cỡ mười bảy, mười tám chớ nhỏ nhít gì nữa.
- Có vẻ thôi, chớ tôi chưa tới tuổi ấy.
- Thì cũng được đi. Việc kèm dạy một đứa trẻ có gì là khó khăn. Tôi muốn trở về nhà bằng chuyến tàu tối nay. Còn cô, sáng mai cô lên tầu cũng vừa.
Tôi suy nghĩ thật nhanh. Chắc hẳn Chương đã có ý định gì trong đầu. Có lẽ anh ta muốn khám phá xem tôi biết những gì về ông bà Nguyễn văn Thành chăng? Buồn thay! Tôi nào biết gì hơn ngoài sự tin tưởng tôi là con gái của ông bà... Sau này đến tuổi trưởng thành tôi sẽ cố truy nguyên ra tên thật của tôi do cha mẹ tôi đã đặt ra.
Nhưng hiện thời sự tò mò lố bịch của Chương làm tôi bực mình. Chẳng thà tôi xin tiền cô tôi còn hơn là tự kiếm tiền trong trường hợp trớ trêu như vậy. Hơn nữa biết đâu bà mẹ của Chương lại chẳng từ chối khi tôi tới trình diện bà?
Chương hỏi:
- Cô nhận lời chứ?
Tôi bướng bỉnh đáp:
- Không.
Chương tức giận đứng lên, vừa đi vừa đá những vỏ ốc lăn lóc trên bãi cát.
Rồi đột nhiên Chương dừng lại trước mặt tôi:
- Có một điều tôi chưa tiết lộ ra và tôi tin chắc là cô không biết.
- Điều gì?
- Tôi là con của ông bà Võ quốc Oai.
-?!
- Mà ông bà Thành, xưa kia có một thời gian đã giúp việc cho ba má tôi. Có vậy thôi!
Tôi cảm thấy gò má tôi tái đi. Và lần này tôi trả lời Chương:
- Được rồi, tôi sẽ tới nhà anh.
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content




Mái Nhà Xưa Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Mái Nhà Xưa   Mái Nhà Xưa I_icon13

Về Đầu Trang Go down
 
Mái Nhà Xưa
Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 2 trangChuyển đến trang : 1, 2  Next

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
daovien.net :: VƯỜN VĂN :: Truyện Sưu tầm :: Tủ sách Tuổi Hoa :: Hoa xanh-