Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesVietUniĐăng kýĐăng Nhập
Bài viết mới
Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Today at 16:41

Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 18:57

Thi tập "Chỉ là...Tình thơ" by Tú_Yên tv Yesterday at 12:56

Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Yesterday at 12:51

Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Yesterday at 12:46

LỀU THƠ NHẠC by Thiên Hùng Wed 24 Apr 2024, 11:55

Quán Tạp Kỹ - Đồng Bằng Nam Bộ by Thiên Hùng Wed 24 Apr 2024, 11:48

Trụ vững duyên thầy by Trà Mi Tue 23 Apr 2024, 07:34

Mái Nhà Chung by Trà Mi Tue 23 Apr 2024, 07:33

THIỀN TUỆ (diệt trừ đau khổ) by mytutru Tue 23 Apr 2024, 00:07

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 09:57

Nhận dạng phụ nữ giàu có by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 08:36

Bức tranh gia đình by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 08:09

Mẹo kho thịt by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 07:29

SẦU LY BIỆT by Phương Nguyên Sun 21 Apr 2024, 23:01

Trang Họa thơ Phương Nguyên 2 by Phương Nguyên Sun 21 Apr 2024, 22:56

Trang viết cuối đời by buixuanphuong09 Sun 21 Apr 2024, 06:38

Mức thù lao không ai dám nghĩ đến by Trà Mi Wed 17 Apr 2024, 11:28

KHÔNG ĐỀ by Phương Nguyên Wed 17 Apr 2024, 11:00

Cách xem tướng mạo phụ nữ ngoại tình, không chung thủy by mytutru Tue 16 Apr 2024, 11:59

Ở NHÀ MỘT MÌNH by Phương Nguyên Tue 16 Apr 2024, 09:59

HÁ MIỆNG CHỜ SUNG by Phương Nguyên Sun 14 Apr 2024, 13:29

Trang thơ vui Phạm Bá Chiểu by phambachieu Fri 12 Apr 2024, 15:48

Những Đoá Từ Tâm by Việt Đường Fri 12 Apr 2024, 15:32

Chết rồi! by Phương Nguyên Fri 12 Apr 2024, 13:57

ĐÔI BÀN TAY NGHỆ NHÂN by mytutru Thu 11 Apr 2024, 17:43

THẬN TRỌNG SIÊU LỪA by mytutru Wed 10 Apr 2024, 20:33

Không đánh, không mắng, không phạt, không có học sinh ưu tú by Trà Mi Wed 10 Apr 2024, 11:45

KHÓ NGỦ by Phương Nguyên Wed 10 Apr 2024, 01:46

MỘT CHÚT BUỒN by Phương Nguyên Tue 09 Apr 2024, 15:33

Tự điển
* Tự Điển Hồ Ngọc Đức



* Tự Điển Hán Việt
Hán Việt
Thư viện nhạc phổ
Tân nhạc ♫
Nghe Nhạc
Cải lương, Hài kịch
Truyện Audio
Âm Dương Lịch
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
Đăng Nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập: 
:: Quên mật khẩu

Share | 
 

 Bí mật ngôi đền cứ bước chân vào hậu cung là mất mạng

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Tác giảThông điệp
Shiroi

Shiroi

Tổng số bài gửi : 19896
Registration date : 23/11/2007

Bí mật ngôi đền cứ bước chân vào hậu cung là mất mạng Empty
Bài gửiTiêu đề: Bí mật ngôi đền cứ bước chân vào hậu cung là mất mạng   Bí mật ngôi đền cứ bước chân vào hậu cung là mất mạng I_icon13Mon 16 Apr 2012, 02:55

Bí mật ngôi đền cứ bước chân vào hậu cung là mất mạng


Cánh cửa ấy tưởng chừng cũng đơn giản như bao cánh cửa khác trong vô vàn những ngôi đình đền trên khắp Việt Nam, cũng mang đặc trưng sơn màu cánh gián và đường nét sơn son thiếp vàng, ngả màu cũ kỹ và bốn góc cánh cửa tróc lở theo thời gian.

Vậy nhưng từ bao đời nay, hàng chục vạn người từng đến thăm ngôi đền Cao (thôn Đại, xã An Lạc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) đều tò mò vì không ai biết phía sau cánh cửa hậu cung này là bí mật gì mà người nào phạm “lời nguyền” cứ bước chân qua là mất mạng, nhận những reo rắc đen đủi cho người thân.

Bí mật ngôi đền cứ bước chân vào hậu cung là mất mạng Images34
Cổng đền Cao


Đền Cao được bao bọc bởi rừng cây xanh mướt, càng thêm uy nghiêm bởi sự hiện diện của 54 cây lim cổ thụ hàng trăm năm tuổi, trong đó "cụ" lim thọ nhất thì đã hơn 800 tuổi, cao tới 20m. Mới đây, những cây lim này đã được Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam" công nhận là "Cây di sản Việt Nam". Nếu biết rằng trước đó, cả nước mới chỉ có 10 cây cổ thụ nhận được danh hiệu này thì việc tới 54 cây hội tụ cả ở đền Cao đã là một sự lạ kỳ.

Việc thờ cúng ở đền Cao cũng là một sự lạ vì đền không thờ tượng như một số nơi khác mà thờ bài vị của "thánh". Vào lễ hội, bài vị được mặc áo trông như người ngồi trên ngai, qua bao năm mà bài vị vẫn mới tinh, dọc theo bài vị là hai hàng chữ Hán vàng óng chưa hề trầy xước.


“Tàn đời” vì trái “luật đền”?


Cụ ông Dương Văn Luyện (74, cùng ngụ địa chỉ nêu trên) cho biết theo phong tục địa phương quy định từ ngàn năm nay, mỗi năm đến ngày lễ hội thì làng phải bầu ra một "quan trùm" và bốn "quan đám". Bốn "quan đám" phụ trách việc lễ tế ở bốn ngôi đền trong quần thể đền Cao, còn "quan trùm" thì phụ trách chung mọi việc. Từng hàng chục năm liên tục được làng bầu làm những “chức sắc” này và năm nay được “phong” làm “quan trùm” nên không ngõ ngách nào trong ngôi đền này ông không biết, nhưng riêng những “bí mật” sau cánh cửa hậu cung thì “có chết cũng không nói”.

Phong tục quy định điều cấm kỵ đầu tiên mà các "quan trùm, quan đám" phải tuân thủ là họ có trách nhiệm mỗi tháng phải hai lần vào hậu cung để dọn dẹp và biết được một phần cảnh trí trong đó. Thế nhưng trong suốt thời gian còn giữ “chức”, họ phải tuân theo “luật” "có biết cũng không nói, tò mò không biết thì cũng không hỏi" và sau này dù có còn giữ “chức” hay không thì những gì đã được nhìn thấy trong hậu cung thì cũng “sống để bụng, chết mang đi”. Vì thế mà cho đến giờ, trong hậu cung của đền Cao có những bí mật gì vẫn là một điều bí ẩn.

Phong tục oái oăm này còn ràng buộc những vị chức sắc những quy định cực kỳ ngặt nghèo khác. Trong những ngày lễ hội, dù có giỗ chạp thì các "chức sắc" cũng không được thắp hương lên ban thờ gia tiên, thậm chí không được… ăn các món trên ban thờ nhà mình. Cũng thời gian này họ đều phải ăn chay, tắm rửa sạch sẽ; khi làm lễ phải mặc đội khăn, che miệng; đặc biệt “thuộc nằm lòng” quy tắc khi vào hậu cung thì bước chân phải trước, ra khỏi cung bước chân trái trước.

Lệ làng thì cứ thế mà tuân theo, trong tâm tưởng của những người dân trong vùng dù vẫn có lúc tò mò nhưng sự tò mò ấy rồi cũng bị quên đi khi các cụ cao niên cho biết “Phần hậu cung có thể hiểu như nơi nghỉ ngơi của "thánh". Mọi người quan tâm làm gì”. Những người dân đến vãn cảnh, cũng bái có lỡ lạc chân qua khu vực có cánh cửa luôn được khóa cẩn thận này cũng chẳng ai dám ghé mắt vào vì “sợ” “lời nguyền” người xưa truyền lại là ““không phận sự tuyệt đối không được bước chân vào” nếu không muốn gặp những tai họa khủng khiếp”. Chuyện về cánh cửa bí ẩn chỉ rộ lên khi khoảng 20 năm trước, một du khách đã “trả giá” bằng chính mạng sống của mình khi nằng nặc đòi vào tận nơi để chụp hình.

Cụ Luyện kể lại năm ấy ông cũng là "quan đám" của đền và sự việc xảy ra ngay dịp kỷ niệm đền được công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Hôm ấy sau buổi lễ, một nam du khách trung tuổi vốn là một người quen biết đến từ tỉnh Hải Dương cứ nằng nặc đòi “quan đám” phải mở cửa hậu cung cho mình vào chụp ảnh.

Dù ông Luyện can ngăn thế nào, vị khách này cũng không nghe rồi khẳng định: "Tội vạ đâu tôi chịu. Chết tôi cũng chịu". Ông Luyện đành phải mở cửa hậu cung cho khách vào, còn mình quỳ khấn ở ngoài. Trong hậu cung, ánh đèn flash lóe liên tiếp vài cái, sau một hồi “vãn cảnh” và chụp ảnh xong, vị khách đi ra mang nét mặt rất hoan hỉ. Trong trí nhớ của ông lão đã bước vào tuổi “thất thập cổ lai hi” này, đây là lần đầu tiên có người lạ dám bước vào hậu cung của đền như thế.

Những chuyện lạ với vị khách này xảy ra từ ấy. Bảy bức ảnh trong hậu cung người này chụp, khi mang về rửa thì phim đều đều đen sì “tối như đêm 30”. Rồi 3 ngày sau, tin từ tỉnh báo về vị ấy đã bị đột quỵ sau một buổi họp. Được đưa đi chữa ở khắp các bệnh viện nổi tiếng ngoài Hà Nội nhưng chưa đầy một tháng sau, du khách “bạo gan” này không qua khỏi.

Tai họa chưa dừng ở đó. Khoảng 3 tháng sau, con trai duy nhất của người này thắt cổ tự vẫn, nghe nói là phẫn uất vì chuyện bị vợ ngoại tình. Tiếp một tháng nữa, một người trong gia đình ấy khi đang đi công tác xa bỗng bị có người chỉ mặt mà bảo: "Nhà mày có người xúc phạm đến thần thánh. Nếu không về làm lễ cầu xin thì còn có thêm người chết nữa". Người này về kể chuyện thì gia đình mới móc xích các sự việc lại với nhau và “tá hỏa tam tinh” ngờ rằng đó là hậu quả của việc “phạm thánh”. Ông Luyện kể rằng phải sau khi sắm lễ tìm lên đền “tạ tội” thì gia đình ấy “mới được yên”.


Bí mật ngôi đền cứ bước chân vào hậu cung là mất mạng Images35
Bí mật nào sau cánh cửa này?



Mang họa vì phạm “húy kỵ nhà thánh"?


Dư luận trong khu vực lại thêm một lần “dậy sóng” với sự việc một thanh niên “ngỗ ngược” đã “trả giá” vì muốn “thử độ thiêng” của đền những ngày cuối năm 2011. Một thanh niên ở xã Đồng Lạc (cạnh xã An Lạc) nhiều năm nay “ấm ức” trước “luật” đại kỵ trước khi vào lễ đền Cao không được ăn thịt chó nên đã rủ vài người bạn đi làm một bữa thịt chó xả xui cuối năm rồi mặt đỏ bừng bừng lên lễ đền. Chỉ vừa bước lên đến sân nghỉ, còn cách sàn đền chừng chục bậc tam cấp nữa thì chàng trai bỗng ngã dập đầu, chúi mặt xuống đất. Người đi lễ hốt hoảng chạy lại xem thấy nạn nhân miệng cứ há hốc ra, không kêu được mà cũng không cựa quậy gì được.

Những người bạn của anh chàng vội vàng chạy vào cầu cứu "quan trùm" và khi nghe rõ sự tình, người coi đền lập tức thắp 9 nén hương kêu cầu trước bài vị "thánh" rồi mang ra cho một chén nước đã được đặt làm lễ cho đám bạn cạy miệng đổ vào mồm thanh niên “ngông cuồng”. Lạ thay từ lúc đó anh chàng kêu được ra tiếng và cà nhắc đi về nhà. Sau sự việc, bố mẹ của chàng thanh niên nghịch ngợm này đã phải sắm lễ lên đền, khẩn cầu "thánh" tha thứ cho cái việc "trẻ đầu xanh lỡ nghịch dại".

Một người khác tự nhận mình gặp phải “những tai ương ghê gớm hơn vì dám phạm kỵ húy” ở đền Cao là bà Lương Thị Cải (người huyện Nam Sách, lấy chồng thôn Đại). Cuối năm 2010 bà dâng một mâm lễ lên đền gồm toàn những món chay do người con dâu cả của bà bày biện. Bà Cải thuật lại bà không nhớ ngày hôm trước người con dâu này vừa phải về quê để làm lễ "sang cát" cho bố đẻ, trong khi một “đại kỵ” khác khi dâng lễ lên đền Cao theo tục lệ là người biện lễ tuyệt đối trước đó ít ngày không được dính vào chuyện tang trở.

“Xăng xái đội lễ lên đền, vừa bước vào cửa "thánh" và có cảm giác tôi chỉ sượt qua rất nhẹ mà đôi lục bình nặng chịch trên ban thờ bỗng rơi vỡ tan tành. Lúc ấy tôi sợ đến tái mét cả mặt mày nhưng nghĩ mình vô tình làm vỡ lọ nên chỉ kêu cầu xin lỗi "thánh" về việc đó thôi, đâu ngờ "thánh" quở về việc khác", bà Cải thuật lại.

Ngày đó cứ nghĩ rằng mình “phạm lỗi” làm vỡ lục bình của đền nên người phụ nữ này đã cung tiến trả đền những lọ lục bình khác nhưng chỉ được dăm ngày là những đồ “đền bù” này lại rơi vỡ hoặc sứt mẻ như kiểu “lời xin lỗi không được chấp nhận”. Trong suốt nửa năm sau đó gia đình bà liên tục gặp tai ương: Người con trai cả hành nghề lái xe đường dài đã hàng chục năm, bỗng gây tai nạn liên tiếp, không đến nỗi chết người những cũng phải bán cả xe để trang trải; người con trai thứ thì làm ăn gặp thất bát, bị bạn hàng lừa mất cả tỉ đồng rồi bỏ trốn; đen đủi nhất là người con trai út, anh này đang đi chơi với bạn bè thì gặp hai băng nhóm đuổi đánh nhau, chẳng hiểu “nhìn gà hóa cuốc” thế nào mà trong đám đánh nhau có đối tượng tưởng nhầm anh là đối thủ nên bị đánh nhầm, bị “tặng” trận đòn “thừa sống thiếu chết” phải đi viện khâu hàng chục mũi trên đầu, lại gặp nhiều rắc rối khi bị cơ quan công an gọi lên làm việc mấy lần vì nghi có liên quan đến hai băng nhóm côn đồ đó.

Thấy gia đình gặp nhiều tai họa bất thường, bà mẹ điên đầu tìm gặp người làng để hỏi ý kiến và soát xét lại mọi việc từ đầu, cuối cùng đã phát hiện ra sơ xuất vì đã dùng lễ do người con dâu có tang sửa soạn. Một lần nữa, bà lại biện lễ lên đền thống thiết kêu cầu và cho rằng "từ ngày đó gia đình tôi không gặp thêm tai ương gì nữa. Bây giờ tôi gần như đã thành “người nhà đền”, gặp việc gì cũng lăn xả vào làm, không bao giờ dám quản ngại, chỉ mong "thánh" “chứng” cho lòng thành của tôi".

Người trong khu vực còn rỉ tai nhau việc cấm kỵ ngồi lên lưng đôi voi và ngựa bằng đá chầu trước cửa đền. Điều cấm kỵ này xuất phát từ sự việc một nhóm thanh niên từ trên huyện về đền dám “cưỡi voi tranh với thánh”. Chuyện xảy ra vài năm trước khi nhóm thanh niên dạo quanh thăm thú cảnh đền, chụp ảnh rồi một thanh niên hứng khởi muốn có bức hình mình đang cưỡi voi đá ngựa đá. Dù người nhà đền đã hết sức ngăn cản nhưng rình lúc không ai trông coi, cậu thanh niên vẫn cố tình ngồi lên lưng một chú voi để chụp vội kiểu ảnh. Mọi chuyện vẫn bình thường đến khi nhóm thanh niên ròi đền ra về. Vừa bước khỏi cổng đền, cậu thanh niên bị trúng gió bỗng ngã vật ra đất, miệng sùi bọt mép, được đưa tới bệnh viện nhưng cả đời chịu cảnh bị liệt nửa người bên phải.


Bí mật ngôi đền cứ bước chân vào hậu cung là mất mạng Images36
Đôi voi đá trong sân đền


“Chuyện lạ” chỉ là những tai nạn tình cờ


Với những câu chuyện như truyền thuyết, người trong khu vực cho rằng ngôi đền này như một “mảnh đất thiêng” của họ. Có những người từ xa tới nghe chuyện đã phản bác “Nếu là đền thiêng thì tại sao gần đây mới xảy ra chuyện?”, những người cao niên bèn dẫn ra một loạt những “dẫn chứng xa xưa” khác: Từ những năm khi thực dân Pháp xâm lược, vùng đất này luôn là nơi bị giặc càn quét và có những đêm từ bên kia sông giặc bắn sang đến hàng trăm quả đại bác nhưng chưa từng một quả đạn nào rơi vào khu vực đền Cao. Đó là lý do khiến ngôi đền có tuổi thọ hàng ngàn năm mà vẫn giữ nguyên được bài vị thờ "thánh", ngọc phả và 12 đạo sắc phong từ thời tiền Lê để lại.

Một người già khác cho biết, còn có một “khu vực cấm” khác trong ngôi đền là lạch nước ngăn cách ban thờ "thánh" bày các loại vũ khí và cửa hậu cung được coi như “biên giới” của người đi lễ. Dù lạch nước chỉ rộng chưa đầy 10cm nhưng dân trong thôn chưa bao giờ từng dám bước qua ranh giới đó. Khách thập phương khi đến đây cũng được nhắc nhở cẩn thận để không phạm vào cấm kỵ này.

Lý giải về những câu chuyện người ta cho rằng bị "thánh vật", một vị cán bộ UBND xã cho biết cũng có nghe nhiều lời đồn đại nhưng rất có thể đó chỉ là những tai nạn ngẫu nhiên. "Ví như trường hợp cậu thanh niên ăn thịt chó, uống rượu, say mèm như thế mà leo mấy chục bậc cầu thang lên đền, ngã dập mặt cũng không có gì lạ cả", ông nói. Vị cán bộ xã cũng đặt vấn đề: “Những câu chuyện mang đầy chất tâm linh ấy có thể do chính người dân địa phương đồn thổi, mục đích là để tăng thêm sự huyền bí cho ngôi đền của thôn mình. Tuy nhiên dù chưa rõ thực hư những câu chuyện như thế nào nhưng đền Cao từ nhiều năm nay vẫn là địa điểm thu hút khách thập phương về vãn cảnh, tế lễ".

Và cái lợi lớn nhất từ những câu chuyện “đền thiêng” mà khách đến thăm nhận thấy là từ rất nhiều năm nay ngôi đền chưa từng một lần mất trộm. Ông Nguyễn Văn Đức, Trưởng ban quản lý di tích đền Cao khẳng định: "Đồ thờ tự của đền không ai dám tơ hào, nhiều năm qua không xảy ra việc mất mát dù trong đền có nhiều đồ cổ, quý giá dù có những thứ rất dễ lấy, dễ giấu như những chiếc chén đựng nước cúng làm bằng ngọc".

Về việc dân làng có “khó chịu” khi phải sống chung với những điều cấm kỵ khắt khe khi bước vào đền Cao hay không, ông Đức cười: “Những quy định này đã trở thành luật tục của làng nên nhất nhất ai cũng tuân theo, đã không khó chịu mà thậm chí còn có phần tự hào vì đã giữ được bản sắc của làng mình mà bao đời cha ông lưu truyền”.


Theo phapluatvn
Về Đầu Trang Go down
Shiroi

Shiroi

Tổng số bài gửi : 19896
Registration date : 23/11/2007

Bí mật ngôi đền cứ bước chân vào hậu cung là mất mạng Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bí mật ngôi đền cứ bước chân vào hậu cung là mất mạng   Bí mật ngôi đền cứ bước chân vào hậu cung là mất mạng I_icon13Mon 16 Apr 2012, 03:06

Lễ hội tại Quần thể di tích thôn Đại


1. Vài nét về lịch sử làng Đại.

Làng Đại, xã An Lạc - huyện Chí Linh xưa có tên chữ là Dược Đậu Trang, Làng Dược Đậu Trang được hình thành từ bao giờ đến nay chưa có câu trả lời chính xác. Theo thần tích của Đền Cao thì làng Dược Đậu Trang được hình thành từ thời Tiền Lê. Lúc mới hình thành làng mới có 7 hộ gia đình. Bậc tiền nhân có công mở đất lập làng có tên Phạm Huý Lược (hiện được thờ bát hương tại thượng thiên Đền Cao). Do địa thế núi non hiểm trở thuận lợi cho việc mở trận tuyến bố phòng chống chống giặc ngoại xâm nên năm 981 Lê Hoàn đã đặt bản doanh tại Dược Đậu Trang để chống quân Tống xâm lược, đến nay hãy còn những địa danh, núi Cao Hiệu - tương truyền đây là nơi cắm cờ hiệu để chỉ huy chiến đấu của quân sĩ. Đồng Dinh - là nơi đóng tại bản doanh của vua tôi. Bàn cung là nơi làm việc của triều đình. Nền bà chúa là nơi ở của các nữ tướng. Nội xưởng là nơi sản xuất vũ khí.

Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 cùng với việc đổi tên xã Lạc Đạo thành xã An Lạc, Làng Dược Đậu Trang đổi tên thành Làng Đại; là một trong 6 thôn của xã An Lạc. Xét về điều kiện địa lý, làng Đại nằm ở trung tâm của xã, làng dựa lưng vào dãy núi voi, trông về hướng Đông nam của làng có dòng Nguyệt Giang (sông trăng) chảy qua từ bao đời nay, hình thành thế đất "Tựa sơn đạp thuỷ" vừa hùng vĩ, vừa cẩm tú diễm lệ.

Đến nay, làng Đại đã có những nét đô thị chấm phá, nhưng vẫn không làm mất đi những kiến trúc truyền thống của các thiết chế tâm linh; Làng có mật độ phân bố hệ thống di tích khá dày với 5 đền và 1 chùa: Đền Vua- thờ Lê Hoàn; Đền Cao; Đền Bến Tràng, Đền Bến cả, Đền Cả thờ 5 anh em họ Vương và ngôi chùa nằm sát đền Cả. Làng Đại cũng là nơi còn lưu giữ những kỳ lễ vào các dịp Tuần, tiết, sóc vọng, như ngày mồng một và ngày rằm hàng tháng; xuân tế; lễ kỳ an, tết thanh minh, tết hàn thực, lễ hạ điền, lễ thượng điền, lễ thường tân (mừng cơm mới) tất cả có 12 tiết lệ. Từ những di tích còn giữ được nguyên kiểu dáng kiến trúc, các tiết lệ mang đậm tính dân gian và lễ hội. Làng vào dịp tháng giêng đủ nói lên Làng Đại có truyền thống văn hoá từ lâu đời, vùng đất "địa linh nhân kiệt"


2.Thần tích và sắc phong.

Theo thần tích còn lưu tại Đền Cao do Hàn lâm viện đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính vâng soạn vào năm Hồng Phúc nguyên niên, đời vua Lê Anh Tông (1572) ghi rõ sự tích thánh Đền Cao như sau:

Vào thời Đinh, ở trang Thạch Tuyền, huyện Nga Sơn, phủ Hà Trung, lộ Thanh Hoá có gia đình ông họ Vương tên là Tĩnh, bà vợ là người bản trang họ Đào tên là Thanh; ông bà hay làm, chịu thương chịu khó, lại hay thương người nên được bà con chòm xóm mến mộ. Song hiềm một nỗi là vợ chồng tuổi tác đã cao mà chưa có một mụn con. Một ngày kia ông bà lênh đênh trên chiếc thuyền con, ngược cửa thần phù tìm nơi đất mới để sinh sống. Đến Trang Dược Đậu, đất Bàng Châu, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương; Thấy dân phong ở đây thuần hậu, đất đai, cỏ cây tươi tốt ông bà liền xin cư trú ở đấy. Bấy giờ tại Dược Đậu trang có gia đình ông họ Phạm, tên là Lược. Gia cảnh ông họ Phạm cũng tương đối khá giả, liền cho ông bà đến ở nhờ tại Dược Đậu trang. Một đêm bà Thanh nằm mộng thấy năm ngôi sao chui vào miệng và một hôm bà Thanh ra dòng Nguyệt Giang tắm rửa chợt thấy một con giao long ngũ sắc nổi lên quấn chặt lấy mình bà ba vòng, bà Thanh vô cùng hoảng sợ. Từ đó bà Thanh thấy trong lòng rung động rồi có thai. Đến khi thai nghén đủ tuần mãn nguyệt, bà sinh ra một bọc, bung ra năm trứng, sinh được 3 trai 2 gái (con trai thì dáng mạo khôi ngô tuấn tú, oai phong lẫm liệt, mắt phượng mày ngài, hàm hổ mặt rồng, oai vệ khác hẳn người thường nhiều lắm. Con gái thì mặt hoa da phấn, môi đỏ như son, dung nhan khiến chim sa, cá lặn, tài sắc làm thẹn nguyệt tủi hoa. Tất cả đều là thần thánh trong cõi đời. Cha mẹ nuôi dạy khôn lớn. Năm lên ba tuổi bèn làm lễ đặt tên:

Con trai thứ nhất tên là Minh (phải Nguyệt, trái Nhật)

Con trai thứ hai tên là Xuân (trên Thung, dưới Nhật)

Con trai thứ ba tên là Hồng (phải Cộng, trái Thuỷ)

Con gái thứ tư tên là Đào (phải Triệu trái Mộc)

Con gái thứ năm tên là Liễu (phải Mão, trái mộc)


Sau buổi đặt tên, thấm thoắt ngày tháng thoi đưa, các con ông bà đã 12 tuổi, ông bà liền cho đi học. Học được một, hai năm chữ nghĩa đã tinh thông, văn chương thành thục. Bấy giờ cha mẹ của các ngài liền quay về thăm quê hương bản quán (tức vào ngày mồng 6 tháng 3) song một sự không may đã ập đến: chiếc thuyền chở ông bà qua sông chẳng may giông bão đánh đắm. Cha mẹ mất đi để lại trong lòng anh em Vương Hồng Minh một nỗi buồn, đau xót vô hạn. Cũng vào năm ấy (tức năm Thiên phúc) nước ta bỗng có quân Tống do Quách Tiến chỉ huy vào xâm lược bờ cõi, đến khi nhà vua đem quân đi đánh giặc, qua Dược Đậu Trang thấy thế đất hiểm yếu liền cho lập đồn trại đóng quân ở ngay khu chợ nhỏ (tục gọi là chợ Đậu). Ngày ngày thấy anh em các ông đi ngang cửa doanh đồn, nhận biết là người có tài năng liền cho gọi vào hỏi chuyện. Khi ấy cả năm anh em ông đều vào bái yết, nhà vua liền cho thử tài, năm anh em các ông đều trổ hết tài năng ứng thí. Biết các ông là người có tài năng thực thụ, nhà vua liền tuyển dụng và phong chức cho các ông là Quyền chưởng trung hoa tể đại tướng và phong cho hai bà là Mẫu nghi chí tôn thiên hạ. Sau khi nhận tước phong, liền xin phép nhà vua được thay thánh giá cầm quân đi đánh giặc. Khi ấy ba ông cùng với hai bà đem quân theo đường bộ. Hai bà giả làm người đi bán trầu thuốc lần tìm đến tận nơi đồn sở của giặc. Sau khi nắm rõ binh tình giặc, quân ta tiến công, quân giặc thua to tháo chạy về nước. Ngay ngày hôm ấy nhà vua liền mở tiệc lớn khao thưởng quân sĩ và nhân dân sau đó dẫn quân khải hoàn về triều còn ba ông và hai bà ở lại ngày sau cùng lên đường về triều bái yết. Chẳng dè ý trời làm ra vậy, hôm đó trời đất tối tăm, mưa gió ầm ầm, ba ông và hai bà đều thăng hoá (hôm đó là ngày 24 tháng giêng). Một lát sau trời đất trong sáng, mưa gió tạnh hẳn, nhân dân kéo đến xem thì đã thấy mối đất đùn thành những ngôi mộ lớn. Mọi người lấy làm lạ liền lập biểu dâng lên triều đình. Nhà vua nghe tin vô cùng thương xót bậc quân thần có công lao với đất nước liền ban truyền cấp cho nhân dân bản trang 24 mẫu ruộng công điền lập đền thờ ở các nơi thánh hoá, hương hoả thờ phụng. Sau đó lại ban cấp cho dân 800 quan tiền sung vào công quỹ để chăm lo việc thờ cúng. Triều đình ban cấp cho mỹ tự là thượng đẳng phúc thần, các tước phong là:

1. Ông Đức Minh được phong Thiên Bồng Đại tướng quân Đại vương

2. Ông Đức Xuân được phong Dực Thánh Linh ứng Đại vương

3. Ông Đức Hồng được phong Anh vũ dũng lược Đại vương

4. Bà Thị Đào làm Đào Hoa Trinh thuận Công chúa

5. Bà Thị Liễu làm Liễu hoa linh ứng Công chúa.


Ngày sinh, hoá và các chữ huý:

1. Ngày sinh 26 tháng mười

Lễ dùng cỗ chay, bánh chưng, bánh dày, hoa quả, trà cúng và các loại bánh 8 mâm, xướng ca 10 ngày.

2. Ngày hoá 24 tháng giêng

Lễ dùng cỗ chay, bánh chưng, bánh dày, hoa quả, trà cúng và các loại bánh 8 mâm. Trước đó một ngày, đến các lăng khấn trước rồi mới nghênh rước về tế lễ. Cấm không ca hát.

3. Các chữ huý gồm 5 chữ:

Minh, Xuân, Hồng, Đào, Liễu

4. Đối với Thánh phụ, Thánh Mẫu cần kiêng âm đọc, xem kỹ ở trong văn mà tránh.

Sắc phong: Hiện ở khu vực Đền Cao còn giữ được cả thảy 11 đạo sắc phong do các vương triều Minh Mệnh (1820-1840) Thiệu trị (1841-1847), Đồng Khánh (1886-1888), Duy Tân (1907-1915), Khải Định (1916-1925) cụ thể là:

1. Đức Thiên Bồng Đại tướng quân còn 5 đạo

2. Đức Dực Thánh linh ứng còn 2 đạo

3. Đức Anh vũ dũng lược còn 1 đạo

4. Đức Đào hoa Trinh Thuận công chúa còn 1 đạo

5. Đức Liễu hoa linh ứng công chúa còn 2 đạo

Làng qui định cứ đến rằm tháng 2 là ngày phơi sắc. Trong quần thể di tích, duy nhất Đền Cao được cấp Bằng di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1988.



3. Lễ hội.

- Ngày 6-3: ngày mất của Vương phụ, Vương mẫu làng tổ chức tế một tuần tại Đình làng do các quan đám và 8 quan viên thực hiện.

Lễ chay được sắp thành 8 mâm gồm: bánh dày, chè kho, bánh mật, chè lam, hoa quả, 1 lá trầu, một quả cau, một dây vàng, 1 bát cơm, 1 đĩa muối vừng. Ngày nay lễ tế nhân ngày mất của Vương phụ, Vương mẫu được tổ chức tại Đền Cả.

- Ngày 26-10: Ngày khánh đản các thánh tại Đình làng, các quan đám và 8 quan viên tổ chức tế một tuần rượu tại đình làng. Lễ chay được sắp thành 8 mâm gồm: bánh dày, chè kho, bánh mật, chè lam, hoa quả, 1 lá trầu, một quả cau, một dây vàng, 1 bát cơm, 1 đĩa muối vừng. Ngày khánh đản được tổ chức xướng ca 10 ngày.

- Ngày hoá 24 tháng giêng: lễ hội chính.

Lễ hội sau năm 1945:
chính thức diễn ra từ ngày 22 đến hết ngày 24 tháng giêng. Sau năm 1954 do Đình làng bị giặc Pháp phá nên Làng vào đám tại Đền Cả, nhưng do trước kia Đền Cả chưa đủ điều kiện tổ chức nên việc tổ chức lễ hội được chuyển về Đền Cao và duy trì từ bấy đến nay. Lễ hội hiện nay cơ bản vẫn giữ được nghi thức tế lễ thành kính và các sự lệ gồm:

- Sáng ngày 21: Lễ khai quang tại Đền Cả xin phép thần linh cho lau rửa các đồ tế khí, 5 quan đám và cụ trùm tiến hai mâm lễ (bánh dày, chè kho, hoa nghi) vào chính vị cung cấm và ban công đồng gian trung từ. Các quan đám và cụ trùm hành lễ tại ban công đồng gian trung từ.

- Tối ngày 21: Lễ cáo yết do đội tế nam quan thực hiện tại Đền Cả. Lễ tiến Thánh gồm 6 hộp trầu do quan đám và cụ trùm chuẩn bị đặt tại chính vị trong cung cấm.

8 mâm lễ chay, mỗi mâm gồm: bánh dày, 2 đĩa chè kho, 1 nải chuối, 1 bát cơm, 1 bát muối vừng, 1 lá trầu, 1 quả cau, 1 dây vàng do các cơ cánh hoặc các thôn chuẩn bị đặt tại 8 ban.

Yêu cầu: gạo làm bánh được mua của người không có tang trở. Người làm bánh không có tang trở. Phụ nữ không tham gia vào quá trình làm bánh. Vắt bánh, lên khuôn bằng dầu lạc, tuyệt đối không dùng mỡ. Nghi thức hạ hòm đặt trầu trong cung cấm được tiến hành theo trình tự: Khi vào cung cấm các quan đám phải bước chân phải đi trước theo thứ tự, quan giáp Đông- quan giáp Đoài- quan giáp Nam- quan giáp Trung- quan giáp Bắc, cụ trùm. Lúc ra bước chân trái ra trước theo thứ tự như lúc vào. Tế 2 tuần tại ban công đồng gian trung từ Đền Cả.

-12h đêm ngày 21 đến 3h sáng ngày 22 tháng giêng: Tế mộc dục tại Đền Cả và Đền Cao (tắm rửa và đai măng mũ áo cho Đức Thánh)

Thành phần tham gia: đội tế nam quan, các quan đám và cụ trùm. Lễ vật gồm 8 mâm lễ chay: bánh dày, 2 đĩa chè kho, 1 nải chuối, 1 bát cơm, 1 bát muối vừng, 1 lá trầu, 1 quả cau, 1 dây vàng. Lễ mộc dục được tiến hành tại sập gỗ làm lễ mộc dục ở phía Tây đền, bài vị được bao lau 3 lần bằng nước sạch và ngũ vị hương. Sau lễ mộc dục là lễ gia quan mặc áo ngự, đội mũ, tiếp đó là các quan đám và cụ trùm khoác áo trầu ra ngoài áo ngự (áo trầu chỉ mặc trong 3 ngày hội). Sau lễ mộc dục, các quan đám và cụ trùm rước Đức thánh ngự tại chính vị ban công đồng cung cấm.

- Ngày 22 tháng giêng: rước kiệu các Thánh từ các Đền về Đền Cả chuẩn bị cho lễ rước chính. Lễ rước bắt đầu từ Đền Cao, khi đến vị trí đã định, các đoàn rước dừng lại chờ đoàn rước của đức đệ tam đi qua. Khi đoàn rước Thánh đệ tam đến, đoàn rước hình thành theo thứ tự: đoàn rước Thánh đệ tam- đoàn rước Thánh đệ ngũ. Rước đến cửa Đình Bến Tràng, đoàn rước Đức đệ ngũ dừng lại, các đoàn rước hình thành theo thứ tự: đoàn rước đức đệ tam- đoàn rước đức đệ tứ- đoàn rước đức đệ ngũ. Khi đoàn rước về cách Đền Cả 50m, ông quan giáp Đông đón tại cửa miếu vái 3 vái khấn tạ các ngài sau đó các đoàn rước tập kết tại sân Đền Cả. Các quan đám rước bài vị và bát hương vào vị trí. Buổi tối tại Đền Cả tổ chức tế hội đồng, lễ vật và nghi thức như các lễ tế khác.

- Ngày 23 tháng giêng: tại Đền Cả tổ chức tế nghinh xin phép Đức thánh tiến hành lễ rước. Lễ rước chính được tiến hành vào 8h sáng ngày 23 theo trình tự: Rồng lân- hai hàng cờ thần, giữa hai hàng cờ là trống to trên xe kéo- Kiệu rước bát hương đức thánh đệ nhất- kiệu rước bài vị đức đệ nhất- Kiệu rước 2 hộp trầu của hai bà- Kiệu rước sắc Đền Cao- Kiệu bài vị đức đệ tam- Kiệu bài vị đức đệ tứ- Kiệu đức đệ ngũ- Đoàn tế và nhân dân. Trước mỗi kiệu là một trống, chiêng nhỏ, kèm 2 đến 3 lá cờ thần và tàn, lọng, các chân kiệu, các đô tuỳ đều mặc áo nậu, thắt lưng bó que, đầu quấn khăn đỏ mô phỏng lính tốt ngày xưa. Đoàn rước xuất phát từ Đền Cả theo đường Bến Tràng đến vị trí Đình làng Lạc Đạo dừng lại thắp hương. Đoàn rước qua Đền Bến Tràng đến Đền Bến Cả, về Đền Cao. Khi đoàn rước đến Đền Cao, 7 cỗ kiệu tập kết tại phía Tây Đền, các quan đám rước bát hương và bài vị vào cung cấm theo vị trí định sẵn.

Lễ dâng hương được tiến hành tại sân từ chỉ phía Tây Đền Cao. Năm 2009 do điều kiện sân từ chỉ hẹp không đủ điều kiện tổ chức, lễ dâng hương được tổ chức tại sân Đền Cả. Tại lễ dâng hương có diễn văn ca ngợi công đức 5 anh em họ Vương và tổ chức cho các đại biểu dâng hương tại lư hương đá Đền Cả. Sau lễ dâng hương đến hết ngày 24 tại Đền Cao tiếp tục các tuần tế yên vị, tế yến (còn gọi tế nhật dạ, tế mời cơm) kết thúc bằng lễ tế rã và rước hoàn cung.

Phần hội:

Từ 22 đến hết ngày 24 tháng giêng tại sân vận động trước cửa Đền Cao tổ chức các hoạt động giao lưu văn nghệ giữa các xã, các trò chơi truyền thống có: cờ biển, kéo co, võ vật.

Qua đối chiếu lễ hội truyền thống và hiện đại tại lễ hội quần thể di tích Đền Cao thấy phần lễ được duy trì gần như nguyên vẹn, đạt đến độ đậm đặc, nguyên bản. Tuân thủ nghiêm ngặt bốn nguyên tắc lớn của tế lễ: biểu lộ lòng thành kính với thần linh; Dùng nến, nhang, âm thanh của trống chiêng, nhạc lễ làm phương tiện; kính cẩn khi hành lễ; lúc cử hành, các chấp sự chỉ dùng động tác, không được phát ngôn. Phần hội qua thời gian, có các hoạt động hội "trước có, nay không còn" có thể nói "nhạt" hơn so với phần lễ. Thực tế trên phản ánh mâu thuẫn khi không gian lễ hội Đền Cao rất rộng cho phép tổ chức nhiều hoạt động hội một lúc. Điều đó nói lên: Lễ hội Đền Cao mang tính tâm linh nhiều hơn. Từ nhận thức lễ hội là "hàn thử biểu" phản ánh điều kiện kinh tế xã hội của địa phương, trong điều kiện đất nước đang phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhịp sống sôi động, lễ hội cũng cần có những cải biến cho phù hợp tránh nhàm chán. Xét trong hệ thống 12 lễ tế tại lễ hội Đền Cao có lễ tế yến (5 tuần tế yến) về đồ lễ và nghi thức tế không thay đổi, nên tiết giảm chỉ còn một đến hai tuần tế yến là phù hợp, đảm bảo thời gian vì sức khoẻ cho cụ trùm và các quan đám và đội tế. Qua thực tiễn lễ hội Đền Cao, vai trò của cụ trùm và các quan đám là đại diện cho dân làng.

Duy trì các sự lệ chuẩn bị lễ hội, có vai trò không thể thiếu. Tuy nhiên những quy định đối với "quan đám" rất nghiệt ngã, đặc biệt cần "nới" dẫn đến bỏ định lệ "Quan đám không được tổ chức cúng giỗ, không được đi tất cả các đám tang" vì như vậy không phù hợp đạo lý thờ cúng tổ tiên, một nét bản sắc của dân tộc. Vì nếu không làm được như vậy, cùng với những định lệ khắt khe và chế độ phụ cấp 200.000đ cho một quan đám; chắc chắn việc chọn quan đám cho các lễ hội năm sau sẽ rất khó khăn.

Trong quần thể di tích thờ 5 anh em họ Vương, có Đền Cao có các yếu tố đáp ứng yêu cầu du lịch lễ hội tâm linh: có không gian xanh của rừng lim cổ thụ; Đền ở trên ngọn núi Bồng còn giữ nguyên được kiểu dáng kiến trúc và 11 đạo sắc phong, độ lung linh của các huyền tích, tính thiêng. Hệ thống đường giao thông thuận tiện. Để lễ hội Đền Cao là điểm đến của du khách, trước mắt cần xây dựng quy hoạch lễ hội để có cơ sở khôi phục một số hoạt động lễ hội đã bị thất truyền như: tế đập đất- cầu phúc cho dân làng, các hình thức múa hát thờ "giao điệp xướng ca kỳ phúc sự lệ", lễ rước nước (xuất phát từ truyền thuyết về bà Đào Thị Thanh một lần xuống tắm tại dòng Nguyệt giang được Giao long giao hoà về hoài thai sinh hạ năm anh em họ Vương). Hiện tại ở lễ hội Đền Cao có chuyện, năm ông quan đám đều đội nón và gọi nhau "Năm chị em chúng ta" và từ trong dân gian vẫn truyền ngôn cho rằng gọi "Năm chị em họ Vương " mới đúng. Để thống nhất cách gọi "Năm anh em" hay "Năm chị em" vấn đề liên quan đến thần tích, nhân vật được thờ của Làng Đại, liên quan trực tiếp đến các hoạt động lễ hội tại quần thể di tích Đền Cao, cần sớm tổ chức Hội thảo khoa học xin ý kiến các nhà sử học, các nhà nghiên cứu để sớm có kết luận chính xác.


Theo Nguyễn Tiến Quang
Về Đầu Trang Go down
 
Bí mật ngôi đền cứ bước chân vào hậu cung là mất mạng
Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Similar topics
-
» Nhã nhạc cung đình Huế
» 12 CUNG HOÀNG ĐẠO
» Cung Oán Ngâm Khúc - Hồ Điệp ngâm
» Bói tình yêu 12 cung hoàng đạo
» Cung thương hoà điệu
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
daovien.net :: GIẢI TRÍ :: Quê Hương yêu dấu :: Phong tục tập quán-