Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesVietUniĐăng kýĐăng Nhập
Bài viết mới
BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN by Trà Mi Today at 08:52

5 chữ by Tinh Hoa Yesterday at 22:27

Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 16:16

Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Yesterday at 11:01

Thi tập "Chỉ là...Tình thơ" by Tú_Yên tv Thu 25 Apr 2024, 12:56

Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Thu 25 Apr 2024, 12:51

Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Thu 25 Apr 2024, 12:46

LỀU THƠ NHẠC by Thiên Hùng Wed 24 Apr 2024, 11:55

Quán Tạp Kỹ - Đồng Bằng Nam Bộ by Thiên Hùng Wed 24 Apr 2024, 11:48

Trụ vững duyên thầy by Trà Mi Tue 23 Apr 2024, 07:34

Mái Nhà Chung by Trà Mi Tue 23 Apr 2024, 07:33

THIỀN TUỆ (diệt trừ đau khổ) by mytutru Tue 23 Apr 2024, 00:07

Nhận dạng phụ nữ giàu có by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 08:36

Bức tranh gia đình by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 08:09

Mẹo kho thịt by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 07:29

SẦU LY BIỆT by Phương Nguyên Sun 21 Apr 2024, 23:01

Trang Họa thơ Phương Nguyên 2 by Phương Nguyên Sun 21 Apr 2024, 22:56

Trang viết cuối đời by buixuanphuong09 Sun 21 Apr 2024, 06:38

Mức thù lao không ai dám nghĩ đến by Trà Mi Wed 17 Apr 2024, 11:28

KHÔNG ĐỀ by Phương Nguyên Wed 17 Apr 2024, 11:00

Cách xem tướng mạo phụ nữ ngoại tình, không chung thủy by mytutru Tue 16 Apr 2024, 11:59

Ở NHÀ MỘT MÌNH by Phương Nguyên Tue 16 Apr 2024, 09:59

HÁ MIỆNG CHỜ SUNG by Phương Nguyên Sun 14 Apr 2024, 13:29

Trang thơ vui Phạm Bá Chiểu by phambachieu Fri 12 Apr 2024, 15:48

Những Đoá Từ Tâm by Việt Đường Fri 12 Apr 2024, 15:32

Chết rồi! by Phương Nguyên Fri 12 Apr 2024, 13:57

ĐÔI BÀN TAY NGHỆ NHÂN by mytutru Thu 11 Apr 2024, 17:43

THẬN TRỌNG SIÊU LỪA by mytutru Wed 10 Apr 2024, 20:33

Không đánh, không mắng, không phạt, không có học sinh ưu tú by Trà Mi Wed 10 Apr 2024, 11:45

KHÓ NGỦ by Phương Nguyên Wed 10 Apr 2024, 01:46

Tự điển
* Tự Điển Hồ Ngọc Đức



* Tự Điển Hán Việt
Hán Việt
Thư viện nhạc phổ
Tân nhạc ♫
Nghe Nhạc
Cải lương, Hài kịch
Truyện Audio
Âm Dương Lịch
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
Đăng Nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập: 
:: Quên mật khẩu

Share | 
 

 Nguyễn Du

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Chuyển đến trang : Previous  1 ... 7 ... 10, 11, 12 ... 15 ... 19  Next
Tác giảThông điệp
Y Nhi
Admin
Y Nhi

Tổng số bài gửi : 3173
Registration date : 22/11/2007

Nguyễn Du - Page 11 Empty
Bài gửiTiêu đề: Bắc hành tạp lục   Nguyễn Du - Page 11 I_icon13Mon 15 Mar 2010, 00:20

Bắc hành tạp lục - 北行雜錄


Bắc hành tạp lục gồm 132 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du sáng tác trong vòng 1 năm, từ tháng hai đến tháng chạp năm Quý Dậu (1813) khi ông cầm đầu một phái đoàn sang sứ Trung Quốc. Mở đầu quyển là bài cảm tác khi trở ra Thăng Long để lên đường sang Trung Quốc. Bài cuối làm khi trở về đến Võ Xương (Hồ Bắc), từ đó lên thuyền trở về, nên không có đề tài ngâm vịnh nữa.
Thơ ghi chép những điều trông thấy, những cảm nghĩ dọc đường.


Đường đến Yên Kinh đã dài, khi về phải tránh giặc giã mà đi vòng sang phía đông, rồi trở lại Vũ Hán, nên nhà thơ đã đi qua nhiều tỉnh: Quảng Tây, Quảng Đông, Hồ Nam, Hồ Bắc, Hà Nam, Hà Bắc, Sơn Tây, Sơn Đông, Giang Tô, An Huy và trở lại con đường cũ.


Nguyễn Du cùng phái đoàn đi công sứ Trung Hoa, rời ải Nam Quan ngày 6 tháng 4 năm Quí Dậu (1813) , lên tới Bắc kinh, lưu du phần lớn bằng thuyền, rồi trở về nước tới ải Nam Quan ngày 29 tháng 3 năm Giáp Tuất (1814).


Theo tài liệu ghi chép và dựa theo những bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du làm khi thăm viếng những di tích lịch sử Trung Hoa thì lộ trình của phái bộ Nguyễn Du như sau: Thăng Long, Nam Quan, Quảng Tây, Quế Lâm, Toàn Châu, Hồ Nam, Lôi Châu, Hành Dương, Giang Nam, Trường Sa, Tương Âm, Nhạc Dương, Hán Dương, Võ Xương, Hứa Đô, Nghiệp, Hàm Đan, Tấn Dương, Yên Kinh, Sơn Đông, Khúc Phụ, Tứ Thủy, Từ Châu, Hoài Nam, An Huy, Võ Xương, Lâm An (Hàng Châu), Quế Lâm, Quảng Tây, Nam Quan.


Theo một tài liệu khác thì lộ trình sứ bộ như sau:

Đường đi của sứ bộ Nguyễn Du (1813-1814):

Nguyễn Du đi qua cửa Nam Quan ngày mồng 6 tháng 4 năm Quí Dậu (1813), đến Yên Kinh ngày 4 tháng 10 năm Quí Dậu (1813) và về qua Nam Quan ngày 29 tháng 3 năm Giáp Tuất (1814).

06-04 Quí Dậu: đi qua cửa Nam Quan (1813).
08-04 Quí Dậu: đến Ninh Minh Châu.
02-05 Quí Dậu: đến thành phủ Ngô Châu.
18-07 Quí Dậu: đến Trường Sa, tỉnh lỵ Hồ Nam.
30-07 Quí Dậu: đến Võ Xương, tỉnh lỵ Hồ Bắc.
09-08 Quí Dậu: từ Hán Khẩu ra đi.
22-08 Quí Dậu: ra khỏi địa phận huyện An Dương, tỉnh Hà Nam.
04-10 Quí Dậu: đến Yên Kinh (1813).
24-10 Quí Dậu: từ Yên Kinh khởi hành về nước (1813).
02-11 Quí Dậu: qua tỉnh An Huy xuống Hồ Bắc.
25-12 Quí Dậu: đến huyện Lâm Tương, tỉnh Hồ Nam.
30-01 Giáp Tuất: đến huyện Kỳ Dương, tỉnh Hồ Nam.
04-02 Giáp Tuất: đến Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây.
29-03 Giáp Tuất: về qua Nam Quan (1814).

_________________________
Nguyễn Du - Page 11 Signat21
Về Đầu Trang Go down
https://www.daovien.net
Y Nhi
Admin
Y Nhi

Tổng số bài gửi : 3173
Registration date : 22/11/2007

Nguyễn Du - Page 11 Empty
Bài gửiTiêu đề: Long thành cầm giả ca   Nguyễn Du - Page 11 I_icon13Mon 15 Mar 2010, 00:45

Long thành cầm giả ca


Tiểu dẫn của tác giả:

Long Thành Cầm giả, bất tri tính thị. Văn kì ấu niên tòng học bát Nguyễn cầm ư Lê cung Hoa tần bộ trung. Tây Sơn binh khởi, cựu nhạc tử tán, kì nhân lưu lạc thị triền, hiệp kĩ dĩ ngao, thuộc tản bộ. Sở đàn giai ngự tiền cung phụng khúc, phi ngoại nhân sở văn, toại xưng nhất thời tuyệt kĩ. Dư thiểu thời, thám huynh để kinh, lữ túc Giám hồ điếm. Kì bàng Tây Sơn chư thần đại tập nữ nhạc, danh cơ bất hạ sổ thập. Kì nhân độc dĩ Nguyễn cầm thanh thiện trường. Phả năng ca, tác bài hài ngữ, nhất tọa tận điên đảo. Sác thưởng dĩ đại bạch, Triếp tận, triền đầu vô toán, kim bạch ủy tích mãn địa. Dư thời nặc thân ám trung, bất thậm minh
bạch. Hậu kiến chi huynh xứ, đoản thân khoát kiểm, ngạch đột diện ao, bất thậm lệ, cơ bạch nhi thể phong, thiện tu sức, đạm mi nùng phấn, ý dĩ hồng thúy tiêu thường, xước xước nhiên hữu dư vận. Tính thiện ẩm, hỉ lãng hước, nhãn hoắc hoắc, khuông trung vô nhất nhân. Tại huynh gia mỗi ẩm triếp tận túy, ẩu thổ lang tạ, ngọa địa thượng, đồng bối phi chi bất tuất dã. Hậu sổ tải, Dư tòng gia nam quy, bất đáo Long Thành nhược thập niên hĩ. Kim xuân tương phụng mệnh Bắc sứ, đạo kinh Long Thành. Chư công
nhục tiễn vu Tuyên phủ nha, tất triệu tại thành nữ nhạc, thiếu cơ sổ thập, tịnh bất thức danh diện, điệt khởi ca vũ, kế văn cầm thanh thanh việt, quýnh dị thời khúc, tâm dị chi. Thị kì nhân, nhan sấu thần khô,
diện hắc, sắc như quỷ, y phục tịnh thô bố, bại hôi sắc, đa bạch bổ, mặc tọa tịch mạt, bất ngôn diệc bất tiếu, kì trạng đãi bất kham giả, bất phục tri vi thùy hà. Duy vu cầm thanh trung tự tằng tương thức, trắc
nhiên vu tâm. Tịch tán, chất chi nhạc nhân, tức kì nhân dã. Ta hồ! Thị nhân hà chí thử da! Phủ ngưỡng bồi hồi, bất thắng kim tích chi cảm. Nhân sinh bách niên, vinh nhục ai lạc, kì khả lượng da. Biệt hậu, nhất lộ
thượng, thâm hữu cảm yên, nhân ca dĩ thác hứng.

龍城琴者。不知姓氏。聞其幼年從學撥阮琴於黎宮花嬪部中。西山兵起。舊樂死散。其人流落市廛。挾技以遨。屬散部。所彈皆御前供奉曲。非外人所聞。遂稱一時絕技。余少時。探兄抵京。旅宿鑑湖店。其傍西山諸臣大集女樂。名姬不下數十。其人獨以阮琴聲擅場。頗能歌。作俳諧語。一坐盡顚倒。數賞以大白。輒盡。纏頭無算。金帛委積滿地。余時匿身暗中。不甚明白。後見之兄處。短身闊臉。額凸面凹。不甚麗。肌白而體豐。善修飾。淡眉濃粉。衣以紅翠綃裳。綽綽然有餘韻。性善飲。喜浪謔。眼矐矐。眶中無一人。在兄家每飲輒盡醉。嘔吐狼藉。臥地上。同輩非之。不恤也。後數載。余從家南歸。不到龍城若十年矣。今春將奉命北使。道經龍城。諸公辱餞于宣撫衙。畢召在城女樂。少姬數十。並不識名面。迭起歌舞。繼聞琴聲清越。迥異時曲。心異之。視其人。顏瘦神枯。面黑。色如鬼。衣服並粗布。敗灰色。多白補。默坐席末。不言亦不笑。其狀殆不堪者。不復知爲誰何。惟於琴聲中似曾相識。側然于心。席散。質之樂人。即其人也。嗟乎。是人何至此耶。俯仰徘徊。不勝今昔之感。人生百年。榮辱哀樂其可量耶。別後。一路上。深有感焉。因歌以托興。

Người gảy đàn đất Long Thành không rõ họ tên là gì. Nghe nói thuở nhỏ, nàng học đàn Nguyễn (đàn nguyệt ca do Nguyễn Hàm, người đời Tấn ở Trung Quốc chế ra) trong đội nữ nhạc ở cung vua Lê. Quân Tây Sơn kéo ra, các đội nhạc cũ người chết, kẻ bỏ đi. Nàng lưu lạc ở các chợ ôm đàn hát rong. Những bài nàng gãy đều là những khúc cung phụng gãy cho vua nghe, người ngoài không hề được biết, cho nên tài nghệ của nàng nổi tiếng hay nhất một thời.

Hồi còn trẻ (1792-1793?), tôi đến kinh đô thăm anh tôi (Nguyễn Nễ), ở trọ gần Giám hồ (hồ Gương). Cạnh đó các quan Tây Sơn mở cuộc hát lớn, con hát đẹp có đến vài chục người. Nàng nỗi tiếng nhờ ngón đàn Nguyễn. Nàng hát cũng hay và khéo nói khôi hài, mọi người say mê, đua nhau ban thưởng từng chén rượu lớn, nàng uống hết ngay, tiền thưởng nhiều vô kể, tiền và lụa chồng đầy mặt đất. Lúc ấy tôi nấp trong bóng tối, không thấy rõ lắm. Sau được gặp ở nhà anh tôi. Nàng người thấp, má bầu, trán giô, mặt gẫy, không đẹp lắm, nhưng mước da trắng trẻo, thân hình đẫy đà, khéo trang điểm, lông mày thanh, má đánh phấn, áo màu hồng, quần lụa cánh chả, có vẻ phong nhã. Nàng hay uống rượu, hay nói pha trò, con mắt long lanh, không coi ai ra gì. Khi ở nhà anh tôi mỗi lần uống rượu thì nàng uống say đến nỗi nôn bừa bãi, nằm lăn ra đất, các bạn có chê trách cũng không lấy làm điều.

Sau đó vài năm, tôi rời nhà về Nam (Thái Bình), mấy năm liền không trở lại Long Thành. Mùa Xuân năm nay (1813) tôi lại phụng mệnh sang sứ Trung Quốc, đi qua Long Thành. Các bạn mở tiệc tiễn tôi ở dinh Tuyên phủ, có gọi tất cả vài chục nữ nhạc, tôi đều không biết mặt biết tên. Chị em thay nhau múa hát. Rồi nghe một khúc đàn Nguyễn trong trẻo nổi lên, khác hẳn những khúc thường nghe, tôi lấy làm lạ, nhìn người gảy đàn thì thấy một chị gầy gò, vẻ tiều tụy, sắc mặt đen sạm, xấu như quỷ, áo quần mặc toàn vải thô bạc thếch, vá nhiều mảnh trắng, ngồi im lặng ở cuối chiếu, chẳng hề nói cười, hình dáng thật khó coi. Tôi không biết nàng là ai, nhưng nghe tiếng đàn thì dường như đã quen biết, nên động lòng thương. Tiệc xong, hỏi thì chính là người trước kia đã gặp.

Than ôi! Người ấy sao đến nỗi thế! Tôi bồi hồi, không yên, ngửng lên cúi xuống, ngậm ngùi cho cảnh xưa và nay. Người ta trong cõi trăm năm, những sự vinh nhục buồn vui thật không lường được. Sau khi từ biệt trên đường đi, cảm thương vô hạn nên làm bài ca sau, để ghi lại mối cảm hứng.




龍城琴者歌

Long thành cầm giả ca

Chuyện người gảy đàn ở Thăng Long
(Người dịch: Học Canh)


龍城佳人
不記名字
獨善絃琴
舉城之人以琴名
學得先朝宮中供奉曲
自是天上人間第一聲
余在少年曾一見
監湖湖邊夜開宴
此時三七正芳年
春風掩映桃花面
酡顏憨態最宜人
歷亂五聲隨手變
緩如涼風度松林
清如隻鶴鳴在陰
烈如荐福碑頭碎霹靋
哀如莊舄病中為越吟
聽者靡靡不知倦
盡是中和大內音
西山諸臣滿座盡傾倒
徹夜追歡不知曉
左拋右擲爭纏頭
泥土金錢殊草草
豪華意氣凌公侯
五陵年少不足道
并將三十六宮春
換取長安無賈寶
此夕回頭二十年
西山敗後余南遷
咫尺龍城不復見
何況城中歌舞莚
宣撫使君為余重買笑
席中歌妓皆年少
席末一人髮半華
顏醜神枯形略小
狼藉殘眉不飾粧
誰知便是當年城中第一調
舊曲新聲暗淚垂
耳中靜聽心中悲
猛然億起二十年前事
監湖湖邊曾見之
城郭推移人事改
幾度桑田變蒼海
西山基業一旦盡消亡
歌舞空留一人在
瞬息百年曾幾時
傷心往事淚沾衣
南河歸來頭盡白
怪底佳人顏色衰
雙眼瞪瞪 空想像
可憐對面不相知


Long thành giai nhân
Bất ký danh tự
Ðộc thiện huyền cầm
Cử thành chi nhân dĩ Cầm danh
Học đắc tiên triều cung trung Cung Phụng khúc
Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh
Dư tại thiếu niên tằng nhất kiến
Giám Hồ hồ biên dạ khai yến
Thử thời tam thất chánh phương niên
Xuân phong yểm ánh đào hoa diện
Ðà nhan hám thái tối nghi nhân
Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến
Hoãn như luơng phong độ tùng lâm
Thanh như chích hạc minh tại âm
Liệt như Tiến Phúc bi đầu toái phích lịch
Ai như Trang Tích bịnh trung vi Việt ngâm
Thính giả mỹ mỹ bất tri quyện
Tận thị Trung Hòa Ðại Nội âm
Tây Sơn chư thần mãn tọa tận khuynh đảo
Triệt dạ truy hoan bất tri hiểu
Tả phao hữu trịch tranh triền đầu
Nê thổ kim tiền thù thảo thảo
Hào hoa ý khí lăng công hầu
Ngũ Lăng niên thiếu bất túc đạo
Tính tương tam thập lục cung xuân
Hoán thủ Trường An vô giá bảo
Thử tịch hồi đầu nhị thập niên
Tây Sơn bại hậu dư Nam thiên
Chỉ xích Long Thành bất phục kiên (kiến)
Hà huống thành trung ca vũ diên
Tuyên phủ sứ quân vị dư trùng mãi tiếu
Tịch trung ca kỹ giai niên thiếu
Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa
Nhan xú thần khô hình lược tiểu
Lang tạ tàn my bất sức trang
Thùy tri tiện thị đương niên thành trung đệ nhất điệu
Cựu khúc tân thanh ám lệ thùy
Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi
Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự
Giám Hồ hồ biên tằng kiến chi
Thành quách suy di nhân sự cải
Kỷ độ tang điền biến thương hải
Tây Sơn cơ nghiệp nhất đán tận tiêu vong
Ca vũ không lưu nhất nhân tại
Thuấn tức bách niên tằng kỷ thì
Thương tâm vãng sự lệ triêm y
Nam Hà quy lai đầu tận bạch
Quái để giai nhân nhan sắc suy
Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng
Khả liên đối diện bất tương tri.

Thành Thăng Long nhớ từ thuở nọ
Bậc giai nhân tên họ ai hay
Ðàn cầm thánh thoát mấy dây
Khắp thành quen miệng gọi ngay Nàng Cầm
"Cung Phụng khúc" xưa ngâm trong Nội
Phổ nên chương tiếng nổi một thời
Nhớ ngày đương độ vui chơi
Giám hồ yến tiệc gặp người tài hoa
Tuổi hăm mốt nõn nà lộng lẫy
Gió xuân êm hây hẩy bông đào
Men tô duyên não nùng sao
Nỉ non năm tiếng thấp cao tuyệt vời
Theo tay ngọc lòng người ủ rũ
Tiếng bổng trầm to nhỏ miên man
Khoan như gió lướt thông ngàn
Trong như tiếng hạc lạc đàn kêu sương
Mạnh như sấm phũ phàng xé đá
Tiến Phúc bia nổ phá ầm ầm
Buồn như khúc Việt ai ngâm
Nỗi lòng Trang Tích âm thầm mà đau
Ðiệu êm ấm nghe lâu chẳng mỏi
Chính khúc này đại nội triều xưa
Tây Sơn quân tướng thẫn thờ
Ngả nghiêng đến sáng còn chưa thỏa lòng
Quăng lụa thưởng tây đông tíu tít
Vàng tựa bùn cứ việc vung tay
Công hầu hào khí đua say
Ngũ lăng niên thiếu một bày sá chi
Dạo khúc xuân diễm kỳ lả lướt
Băm sáu cung thánh thót xinh xinh
Tràng An treo ngọc liên thành
Phẩm cao vô giá, tài tình riêng ai
Thoảng hai chục năm trời từ đấy
Tây Sơn thua, ta trẩy Nam Hà
Long Thành gang tấc còn xa
Ðiệu xưa nhớ mấy cũng là đành thôi
Tuyên phủ sứ lại mời dự tiệc
Thiếu chi người mày biếc má hồng
Cuối bàn phảng phất não nùng
Một nàng đầu tóc hình dung bơ phờ
Mình gầy võ mày thưa duyên nhạt
Ai biết nàng oanh liệt xưa kia
Khúc đâu lệ chảy đầm đìa
Khiến người nghe những đê mê xót thầm
Chợt nhớ lại bao năm chuyện cũ
Từng bên ai vui thú hồ xưa
Thành tàn duyên cũng xác xơ
Ngậm ngùi mấy cuộc biển mờ dâu xanh
Rồi một sớm bại thành là thế
Cảm khúc ca trời để một người
Trăm năm một thoáng bao dài
Ngậm ngùi chuyện cũ cho đời buồn đau
Ở Nam về, mái đầu đã bạc
Người đẹp xưa cũng khác hình xưa
Giương đôi mắt ngó mà mơ
Thảm thay ai biết bây giờ là ai

Dịch nghĩa :
Người đẹp Long Thành
Họ tên không được biết
Riêng thạo đàn Nguyễn cầm
Dân trong thành gọi nàng là cô Cầm
Gãy khúc "Cung phụng" từ triều vua xưa
Một khúc đàn hay tuyệt từ trời đưa xuống thế gian.
Nhớ hồi trẻ tôi đã gặp nàng một lần
Bên hồ Giám trong một đêm yến tiệc
Tuổi cô cỡ hai mươi mốt
Áo hồng ánh lên khuôn mặt đẹp như hoa
Rượu đậm thêm nét mặt ngây thơ khả ái
Ngón tay lướt năm cung réo rắt
Tiếng khoan như gió thổi qua rừng thông
Thanh trong như đôi hạc kêu nơi xa xôi
Mạnh như sét đánh tan bia Tiến phúc
Sầu bi như Trang Tích lúc đau ốm ngâm rên tiếng Việt
Người nghe nàng say sưa không biết mệt
Trong khúc nhạc đại nội Trung Hoà.
Quan tướng nhà Tây say rượu nghiêng ngả
Lo vui chơi suốt đêm không nghỉ
Bên phải bên trái tranh nhau cho thưởng
Tiền bạc coi thường có nghĩa chi.
Vẻ hào hoa hơn bậc vương hầu
Giới trẻ nơi Ngũ Lăng không đáng kể
Dường như ba mươi sáu cung xuân
Nay Tràng An đã hun đúc được một báu vật vô giá.
Trong đầu nhớ lại đã hai mươi năm
Tây sơn thua bại, tôi vào Nam
Long Thành gần mà cũng chẳng được thấy
Còn nói chi đến chuyện múa hát trong thành.
Nay Tuyên phủ sứ bày cuộc vui đãi tôi
Ca kỹ trẻ xinh cả một đám
Chỉ có một kẽ tóc hoa râm ngồi cuối phòng
Mặt xấu, sắc khô, người hơi nhỏ
Mày phờ phạc không điểm phấn tô son
Sao mà đoán được người này là đệ nhất danh ca một thời.
Điệu nhạc xưa làm ta thầm nhỏ lệ
Lắng tai nghe lòng càng đau xót
Tự nhiên nhớ lại hai mươi năm trước
Bên hồ Giám trong dạ tiệc ta đã thấy nàng
Thành quách đã chuyển, người cũng đổi thay
Nương dâu trở thành biển cả đã nhiều
Cơ nghiệp Tây sơn cũng đà tiêu tán
Sót lại đây còn người múa ca.
Thấm thoắt trăm năm có là bao
Cảm thương chuyện cũ dùng áo thấm nước mắt
Ta từ Nam trở lại, đầu bạc trắng
Trách làm sao được sắc đẹp cũng suy tàn.
Hai mắt trừng lên tưởng nhớ chuyện xưa
Thương cho đối mặt mà chẳng nhìn nhận ra nhau.


"Truyện Kiều" theo tài liệu lưu trữ, đã được Nguyễn Du làm trong thời gian đi sứ. Nếu đúng như vậy thì câu chuyện trong bài thơ chữ Hán "Long thành cầm giả ca" này có lẽ là một trong những nguồn hứng để Nguyễn Du sáng tác "Truyện Kiều".






Chú thích:
Tiến Phúc bi: Bia chùa Tiến Phúc ở Nhiêu Châu, tỉnh Giang Tây. Tương truyền ông Phạm Trọng Yêm đời Tống, lúc làm quan ở Bá Dương, có người học trò nghèo dâng bài thơ hay, ông muốn giúp đỡ, cho rập một nghìn bản để bán lấy tiền. Chưa rập xong thì một đêm bản in bị sét đánh vỡ tan.

Trang Tích: Trang Tích là người nước Việt, làm quan nước Sở. Khi ông ốm, Sở Vương hỏi mọi người: "Tích là kẻ tầm thường ở đất Việt, nay làm quan nước Sở, được phú quý rồi, thì còn nhớ nước Việt nữa không?". Viên thị ngự đáp: "Phàm người ta có nhớ nước cũ hay không, thường tỏ ra trong lúc đau ốm. Nếu lúc này ông ta nói tiếng Việt tức là nhớ nước Việt, bằng không thì nói tiếng nước Sở". Sở Vương sai người lén nghe thì thấy Trang Tích nói tiếng Việt.

Trung Hòa: Tên một điện của triều Lê ở Thăng Long.

Triền đầu: Lấy khăn quấn đầu làm vật tặng thưởng. Đời Đường trong yến tiệc vua đãi, ai đứng dậy múa được ban gấm để quấn đầu như vật tặng thưởng. Về sau các món tiền thưởng cho người ca múa được gọi là triền đầu.

Ngũ Lăng: Nơi có năm lăng tẩm của đế vương đời Hán, nơi này dân hào hoa phú quý thường ở. Bài Tì Bà Hành của Bạch Cư Dị có câu: Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu.

Trường An: Chỉ Thăng Long.

Tây Sơn bại hậu dư Nam thiên: Sau khi Tây Sơn bại, tôi vào Nam, ý muốn nói sau năm 1802 nhà thơ vào Phú Xuân làm quan.

Tuyên phủ: Chỉ quan trấn thủ Bắc Thành, vào lúc Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc mùa xuân 1813.

Nam Hà: Chỉ phía Nam sông Gianh.

_________________________
Nguyễn Du - Page 11 Signat21
Về Đầu Trang Go down
https://www.daovien.net
Y Nhi
Admin
Y Nhi

Tổng số bài gửi : 3173
Registration date : 22/11/2007

Nguyễn Du - Page 11 Empty
Bài gửiTiêu đề: Thăng Long kỳ 1   Nguyễn Du - Page 11 I_icon13Tue 16 Mar 2010, 00:57

昇龍其一

傘嶺瀘江歲歲同,
白頭猶得見昇龍。
千年巨室成官道,
一片新城沒故宮。
相識美人看抱子,
同遊俠少盡成翁。
關心一夜苦無睡,
短笛聲聲明月中。
Thăng Long kỳ 1

Tản Lĩnh Lô Giang tuế tuế đồng
Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long
Thiên niên cự thất thành quan đạo
Nhất phiến tân thành một cố cung
Tương thức mỹ nhân khan bão tử
Ðồng du hiệp thiếu tẫn thành ông
Quan tâm nhất dạ khổ vô thụy
Ðoản địch thanh thanh minh nguyệt trung


Chú thích:
Bạch đầu: Nguyễn Du mới ba mươi tuổi đã bạc đầu và dùng chữ này để nói về mình trong rất nhiều bài thơ trong Thanh Hiên Thi Tập và Nam Trung Tạp Ngâm . Nhưng chữ bạch đầu trong bài này nói về tuổi già. Nguyễn Du rời Thăng Long lúc nhà Lê mạt (1789), vua Lê chạy sang Trung Quốc, lúc ấy Nguyễn Du mới 25 tuổi. Đến khi Gia Long lên ngôi (1802) Nguyễn Du từ Hà Tĩnh ra Thăng Long làm quan. Lúc ấy Nguyễn Du 37 tuổi. Đến khi vâng mệnh đi sứ Trung Hoa (1813), Nguyễn Du đến Thăng Long một lần nữa. Bài thơ này làm lúc ra Thăng Long để sang Trung Quốc. Lúc đó Nguyễn Du đã gần ngũ tuần. Cho nên mới nói Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long.
Thăng Long: Từ đời Lý, kinh đô Việt Nam đóng tại Thăng Long. Thăng Long nghĩa đen là rồng hiện lên. Đến đời Nguyễn, Gia Long đóng đô tại Huế, và đổi chữ Thăng Long là rồng hiện thành chữ Thăng Long là thịnh vượng. Nhưng trong văn thơ, cổ nhân vẫn viết chữ theo tên cũ Thăng Long là rồng hiện.



Dịch nghĩa:

Núi Tản sông Lô bao nhiêu năm vẫn thế
Đầu đã bạc rồi mà lại thấy Thăng Long
Những ngôi nhà đồ sộ ngày xưa nay đã thành đường cái quan.
Dãi thành mới làm mất cung điện xưa
Các mỹ nhân ngày trước giờ đã có con bồng
Các bạn hào hiệp thuở xưa giờ đã thành ông
Suốt đêm nghĩ ngơi, thao thức không ngủ
Văng vẳng nghe tiếng sáo trong ánh trăng



Thăng Long kỳ 1
(Người dịch: Quách Tấn)

Núi Tản sông Lô vẫn núi sông
Bạc đầu còn được thấy Thăng Long
Nghìn năm cự thất thành quan lộ
Một giải tân thành lấp cố cung
Người đẹp buổi xưa đều bế trẻ
Bạn chơi thưở nhỏ thảy thành ông
Thâu đêm chẳng ngủ lòng thêm bận
Ðịch thổi trăng trong tiếng não nùng

_________________________
Nguyễn Du - Page 11 Signat21
Về Đầu Trang Go down
https://www.daovien.net
Y Nhi
Admin
Y Nhi

Tổng số bài gửi : 3173
Registration date : 22/11/2007

Nguyễn Du - Page 11 Empty
Bài gửiTiêu đề: Thăng Long kỳ 2   Nguyễn Du - Page 11 I_icon13Tue 16 Mar 2010, 01:00

昇龍其二

古時明月照新城,
猶是昇龍舊帝京。
衢巷四開迷舊跡,
管弦一變雜新聲。
千年富貴供爭奪,
早歲親朋半死生。
世事浮沉休嘆息,
自家頭白亦星星。
Thăng Long kỳ 2

Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thành
Do thị Thăng Long cựu đế kinh
Cù hạng tứ khai mê cựu tích
Quản huyền nhất biến tạp tân thanh
Thiên niên phú quí cung tranh đoạt
Tảo tuế thân bằng bán tử sinh
Thế sự phù trầm hưu thán tức
Tự gia đầu bạch diệc tinh tinh

Dịch nghĩa:

Mảnh trăng ngày trước soi xuống ngôi thành mới (thành Thăng Long vừa được xây lại năm 1805).
Đây vẫn là Thăng Long, đế kinh của các triều vua xưa.
Đường xá dọc ngang, xóa mất dấu vết cũ.
Tiếng đàn sáo cũng đổi khác, lẫn nhiều âm thanh mới.
Nghìn năm phú quý vẫn làm mồi cho sự tranh đoạt.
Bạn bè lúc nhỏ, kẻ còn người mất.
Thôi, đừng than thở cho cảnh đời chìm nổi.
Mái tóc ta đây cũng bạc rồi.



Thăng Long kỳ 2
(Người dịch: Quách Tấn)

Thành mới trăng xưa bóng tỏ mờ
Thăng Long nghìn trước chốn kinh đô
Dấu xưa khuất lấp đường xe ngựa
Ðiệu mới xô bồ nhịp trúc tơ
Danh lợi mồi ngon đua cướp giựt
Bạn bằng lớp trước sống lơ thơ
Nổi chìm thế sự đừng than nữa
Mái tóc mình đây cũng bạc phơ

_________________________
Nguyễn Du - Page 11 Signat21
Về Đầu Trang Go down
https://www.daovien.net
Y Nhi
Admin
Y Nhi

Tổng số bài gửi : 3173
Registration date : 22/11/2007

Nguyễn Du - Page 11 Empty
Bài gửiTiêu đề: Ngộ gia đệ cựu ca cơ   Nguyễn Du - Page 11 I_icon13Tue 16 Mar 2010, 01:07

遇家弟舊歌姬

繁華人物亂來非,
玄鶴歸來幾個知。
紅袖曾聞歌宛轉,
白頭相見哭流離。
覆盆已矣難收水,
斷藕傷哉未絕絲。
見說嫁人已三子,
可憐猶著去時衣。
Ngộ gia đệ cựu ca cơ

Phồn hoa nhân vật loạn lai phi,
Huyền hạc qui lai kỷ cá tri.
Hồng tụ tằng văn ca uyển chuyển,
Bạch đầu tương kiến khốc lưu ly.
Phúc bồn dĩ hỉ nan thu thuỷ,
Ðoạn ngẫu thương tai vị tuyệt ti.
Kiến thuyết giá nhân dĩ tam tử,
Khả liên do trước khứ thời y.

Chú thích:
Gia đệ: Em, có thể là em cùng mẹ, mà cũng có thể là em khác me. Ðây có thể chỉ người em cùng mẹ là Nguyễn Úc được tập ấm là Hoàng Tín đại phu Trung Thành Môn Vệ Úy. Năm Kỷ Dậu (1789) vua Chiêu Thống chạy sang Tàu, Nguyễn Úc chạy theo không kịp, về ngụ nơi quê vợ, làng Phù Ðổng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Năm Tân Vị (1811), Gia Long nghe ông có tài khéo, xuống chiếu triệu vào kinh, bổ làm Thiêm Sự bộ Công, tước Hầu. Những miếu điện ở kinh thành đều do ông sáng chế kiểu thức.

Huyền hạc: Chim hạc đen: truyền rằng hạc vốn sắc trắng, tu nghìn năm thành sắc vàng, tu nghìn năm nữa ra sắc đen. Câu này ý nói, xa Thăng Long lâu này nay mới trở lại.

Hồng tụ: Tay áo hồng, chỉ áo đào hát thường mặc.

Phúc bồn: Chậu nước đổ. Tục có câu: "Phúc thuỷ nan thâu" nghĩa là nước đổ rồi khó hốt lên được. Ý nói là người ca cơ đã xa em mình rồi không sao tụ hợp đuợc nữa.


Dịch nghĩa:

Sau buổi loạn lạc, nhân vật nơi chốn phồn hoa đã khác xưa.
Con chim hạc đen bay trở lại, nào mấy ai biết?
Ta từng nghe giọng ca uyển chuyển của nàng lúc xưa mặc áo hồng.
Nay đầu đã bạc, mới gặp lại nhau, nghe nàng than thở nỗi lưu ly.
Chậu nước đã đổ rồi, khó lòng vét lại.
Thương cho ngó sen đã đứt mà tơ vẫn còn vương.
Nghe nói nàng đã có chồng và đã có ba con.
Ái ngại thay nàng vẫn phải mặc cái áo xưa (vẫn làm ca cơ).



Gặp lại người ca cơ cũ của em
(Người dịch: Quách Tấn)

Loạn rồi nhân vật đổi thay,
Phồn hoa chốn cũ ai hay hạc về.
Áo hường tưởng dạng cung Nghê,
Tiếng ca uyển chuyển từng nghe những ngày.
Tuổi già gặp lại nhau đây,
Bước đường lưu lạc lệ đầy thương đau.
Ðã đành nước đổ khôn thâu,
Than ôi ! Ngó đứt dễ dầu dứt tơ!
Có chồng đã mấy con thơ,
Áo hường ngày cũ bây giờ còn mang!

_________________________
Nguyễn Du - Page 11 Signat21
Về Đầu Trang Go down
https://www.daovien.net
Y Nhi
Admin
Y Nhi

Tổng số bài gửi : 3173
Registration date : 22/11/2007

Nguyễn Du - Page 11 Empty
Bài gửiTiêu đề: Quỷ Môn quan   Nguyễn Du - Page 11 I_icon13Tue 16 Mar 2010, 01:12

鬼門關

連峰高插入青雲,
南北關頭就此分。
如此有名生死地,
可憐無數去來人。
塞途叢莽藏蛇虎,
布野煙嵐聚鬼神。
終古寒風吹白骨,
奇功何取漢將軍。
Quỷ Môn quan

Liên phong cao sáp nhập thanh vân
Nam bắc quan đầu tựu thử phân
Như thử hữu danh sinh tử địa
Khả liên vô số khứ lai nhân
Tắc đồ tùng mãng tàng xà hổ
Bố dã yên lam tụ quỉ thần
Chung cổ hàn phong xuy bạch cốt
Kỳ công hà thủ Hán tướng quân

Chú thích:
Quỉ Môn quan: Ở phía Nam xã Chi Lăng tỉnh Lạng Sơn. Ðịa thế hiểm trở. Có núi hình như đầu quỉ. Do đó mà mệnh danh là Quỉ Môn quan. Cổ thi có câu:

Quỉ Môn quan! Quỉ Môn quan!
Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn

Người Việt đi sứ Trung Quốc có câu:

Rạng ngày đến Quỉ Môn quan
Tiếng xưa "thập khứ nhất hoàn" là đây.

Hán tướng quân: Chỉ Mã Viện. Mã Viện đem quân đánh hai bà Trưng, tuy đắc thắng nhưng quân lính chết dọc đường không biết bao nhiêu. Như thế có gì là chiến công đắng khen ngợi. Cũng có ý nói: kỳ công của tướng quân nhà Hán không có chi hơn là "đống xương trong gió lạnh bên đường".


Dịch nghĩa

Núi liên tiếp, cao vút tận mây xanh.
Nam bắc chia ranh giới ở chỗ này
Là nơi nổi tiếng nguy hiểm đến tính mạng.
Thương thay, bao nhiêu ngươì vẫn phải đi về qua đây.
Bụi gai lấp đường, mãng xà, hổ tha hồ ẩn nấp.
Khí độc đầy đồng, quỷ thần mặc sức tụ họp.
Từ thuở xa xưa, gió lạnh đã thổi bao đống xương trắng.
Chiến công của tướng nhà Hán có gì đáng khen!



Ải Quỷ Môn
(Người dịch: Quách Tấn)

Núi trập trùng giăng đỉnh vút mây,
Ải chia Nam Bắc chính là đây.
Tử sanh tiếng đã vang đồng chợ,
Qua lại người không ngớt tháng ngày.
Thấp thoáng quỉ đầu nương bóng khói,
Rập rình cọp rắn núp rừng cây.
Bên đường gió lạnh luồng xương trắng,
Hán tướng công gì kể bấy nay?

_________________________
Nguyễn Du - Page 11 Signat21
Về Đầu Trang Go down
https://www.daovien.net
Y Nhi
Admin
Y Nhi

Tổng số bài gửi : 3173
Registration date : 22/11/2007

Nguyễn Du - Page 11 Empty
Bài gửiTiêu đề: Lạng thành đạo trung   Nguyễn Du - Page 11 I_icon13Fri 19 Mar 2010, 04:24

諒城道中

群峰湧浪石鳴濤,
蛟有幽宮鵑有巢。
泉水合流江水闊,
子山不及母山高。
團城雲石夕相侯,
鴻嶺親朋日漸遙。
怪得柔情輕割斷,
筐中攜有筆如刀。
Lạng thành đạo trung

Quần phong dũng lãng thạch minh đào,
Giao hữu u cung, quyên hữu sào.
Tuyền thuỷ hợp lưu giang thuỷ khoát,
Tử sơn bất cập mẫu sơn cao.
Ðoàn thành vân thạch tịch tương hậu,
Hồng lĩnh thân bằng nhật tiệm dao.
Quái đắc nhu tình khinh cát đoạn,
Khuông trung huề hữu bút như đao.

Dịch nghĩa:

Núi non trập trùng, gió thổi vào đá, nghe như sóng vỗ.
Ở đây, thuồng luồng có hang kín, đỗ quyên cũng có tổ.
Nước suối ở đây hợp lại thành sông rộng.
Núi con không cao bằng núi mẹ.
Mây đá Đoàn thành chiều hôm nay như có ý đợi ta.
Thân bằng cố hữu ở núi Hồng Lĩnh càng ngày càng xa cách.
Quái lạ, nỗi nhớ nhung lại dễ cắt đứt.
Khi tráp có ngọn bút thay đao (để khuây khoả)




Trên đường đi Lạng thành
(Người dịch: Đặng Thế Kiệt)

Núi trập trùng, sóng kêu trên đá
Tổ nương chim, hang đã có rồng
Suối gom dòng nhỏ thành sông
Núi con đọ núi Mẹ không cao bằng
Chiều Lạng Sơn, mây giăng đá ngóng
Hồng Lĩnh thân sao chóng cách xa
Lạ chưa, dứt nhẹ tình nhà
Ðoạn sầu ngọn bút theo ta bạn đường

_________________________
Nguyễn Du - Page 11 Signat21
Về Đầu Trang Go down
https://www.daovien.net
Y Nhi
Admin
Y Nhi

Tổng số bài gửi : 3173
Registration date : 22/11/2007

Nguyễn Du - Page 11 Empty
Bài gửiTiêu đề: Lưu biệt cựu khế Hoàng   Nguyễn Du - Page 11 I_icon13Sat 20 Mar 2010, 03:13

留別舊契黃

卅年故友重逄日
萬里前途一蹴初
道路日來情未竟
雲山別後意何如
悵然分手重關外
佬矣全身百戰餘
他日南歸相會訪
六頭江上有樵漁
Lưu biệt cựu khế Hoàng

Táp niên cố hữu trùng phùng nhật
Vạn lý tiền đồ nhất xúc sơ
Ðạo lộ nhật lai tình vị cánh
Vân sơn biệt hậu ý hà như
Trướng nhiên phân thủ trùng quan ngoại
Lão hỷ toàn thân bách chiến dư
Tha nhật Nam qui tương hội phỏng
Lục Ðầu giang thượng hữu tiều ngư


Dịch nghĩa:

Ngày gặp lại người bạn cũ của ba mươi năm trước.
Cũng là ngày tôi bắt đầu cuộc hành trình vạn dặm.
Chưa kể hết những nỗi dọc đường những ngày gần đây.
Sau khi chia tay nhau ở chốn núi mây, ý bạn ra sao ?
Hai ta chia tay nhau ngoài cửa quan, lòng buồn khôn xiết.
Anh trải qua trăm trận đánh, thân thể vẹn toàn, nhưng nay đã già rồi.
Sau này trở về nước, gặp lại anh, hỏi thăm nhau.
Chắc bây giờ trên sông Lục Đầu, anh đã là một bác tiều phu, hay người đánh cá, cũng chưa biết chừng!

Cựu khế Hoàng: người bạn cũ họ Hoàng, không rõ tên. Theo bài thơ thì ông này chắc quê ở tỉnh Hải Hưng, bấy giờ làm quan ở Lạng Sơn và chắc có lẽ là ông quan võ.



Từ biệt bạn cũ họ Hoàng
(Người dịch: Đặng Thế Kiệt)

Ba mươi năm cũ gặp đây,
Lên đường vạn dặm cũng ngày tôi đi.
Tình thâm ơi, biết nói gì,
Núi mây ly biệt ý thì ra sao ?
Muôn trùng quan ải tay chào,
Mừng người bách chiến không sao tuổi già.
Về Nam mai mốt lân la,
Lục Ðầu bến nước hỏi tra ngư tiều.

_________________________
Nguyễn Du - Page 11 Signat21
Về Đầu Trang Go down
https://www.daovien.net
Y Nhi
Admin
Y Nhi

Tổng số bài gửi : 3173
Registration date : 22/11/2007

Nguyễn Du - Page 11 Empty
Bài gửiTiêu đề: Trấn Nam Quan   Nguyễn Du - Page 11 I_icon13Sat 20 Mar 2010, 03:17

鎮南關

李陳舊事杳難尋
三百年來直到今
兩國平分孤壘面
一關雄鎮萬山心
地偏每為傅聞誤
天近纔知降澤深
帝闕回頭碧雲表
鈞韶耳畔有餘音
Trấn Nam Quan

Lý Trần cựu sự diểu nan tâm
Tam bách niên lai trực đáo câm (kim)
Lưỡng quốc bình phân cô lũy diện
Nhất quan hùng trấn vạn sơn tâm
Địa thiên mỗi vị truyền văn ngộ
Thiên cận tài tri giáng trạch thâm
Đế khuyết hồi đầu bích vân biểu
Quân thiều nhĩ bạn hữu dư âm


Dịch nghĩa:

Việc cũ đời Lý, Trần xa xôi khó biết.
Chỉ biết cửa ải này có đến ngày nay đã ba trăm năm.
Bức thành lẻ loi phân chia hai nước,
Cửa ải hùng vĩ đứng trấn giữa muôn nghìn núi non.
Cách xa nhau, thường có những lời đồn đãi không đích xác, dễ hiểu lầm.
Gần trời mới biết ơn mưa móc thấm sâu dường nào.
Quay đầu trông về cửa khuyết ở ngoài tần mây biếc.
Bên tai còn nghe văng vẳng tiếng nhạc quân thiều.




Trấn Nam Quan
(Người dịch: Nguyễn Thạch Giang)

Việc Lý Trần xa xưa khó xét,
Ba trăm năm trước đến ngày nay.
Ngăn chia hai nước, thành còn đó,
Hùng tráng muôn non, cửa vẫn đây.
Đất xa hay nghe đồn chuyện nhảm,
Trời gần mới biết đội ơn dầy.
Trông về cửa khuyết ngoài mây biếc,
Văng vẳng quân thiều tiếng nhạc bay.

_________________________
Nguyễn Du - Page 11 Signat21
Về Đầu Trang Go down
https://www.daovien.net
Y Nhi
Admin
Y Nhi

Tổng số bài gửi : 3173
Registration date : 22/11/2007

Nguyễn Du - Page 11 Empty
Bài gửiTiêu đề: Nam Quan đạo trung   Nguyễn Du - Page 11 I_icon13Sat 20 Mar 2010, 23:24

南關道中

玉書捧下五雲端
萬里單車渡漢關
一路偕來愯白髮
二旬斫見但青山
君恩似海毫無報
春雨如膏骨自寒
王道蕩平休問訊
明江北上是長安
Nam Quan đạo trung

Ngọc thư phủng há ngũ vân đoan
Vạn lý đan xa độ Hán quan
Nhất lộ giai lai duy bạch phát
Nhị tuần sở kiến đãn thanh san
Quân ân tự hải hào vô báo
Xuân vũ như cao cốt tự hàn
Vượng đạo đãng bình hưu vấn tấn
Minh Giang bắc thướng thị Trường An

Chú thích:
Ngọc thư: Sắc chiếu nhà vua.
Ngũ vân đoan: Mây năm sắc. Ý nói lệnh đi sứ.
Hán quan:Cửa ải trên đường sang Trung Quốc, tức trấn Nam Quan.
Minh Giang: Tên con sông phát nguyên từ núi Phân Mao, tỉnh Quảng Ðông. Sông chia làm hai ngả bắc nam. Ngả nam chia ranh giới Việt Nam và Trung Hoa.
Trường An: Tức Yên Kinh (Bắc Kinh). Trường An chỉ là tiếng nói kinh đô nói chung.



Dịch nghĩa:

Chiếu của nhà vua từ tầng mây năm sắc ban xuống
Trên đường muôn dặm, chiếc xe lẻ loi vượt Hán quan.
Suốt dọc đường cùng ta chỉ có mái tóc bạc
Cả hai mươi ngày chỉ thấy một màu núi xanh
Ơn vua như biển chưa mảy may báo đáp
Mưa xuân như mỡ lạnh buốt xương
Ðường cái quan rộng rãi bằng phẳng, thôi hỏi thăm chi nữa
Theo dòng Minh Giang lên hướng bắc, ấy là Trường An



Trên đường qua ải Nam Quan
(Người dịch: Đặng Thế Kiệt)

Tầng mây năm sắc chiếu vua ban
Muôn dặm xe đơn vượt Hán quan
Một mạch đường dài trơ tóc bạc
Hai mươi ngày mỏi rặt non xanh
Mưa xuân như mỡ, xương thêm buốt
Ơn nước bằng trời, nợ nặng mang
Rộng phẳng đường vua thôi thắc mắc
Minh Giang lên bắc ấy Trường An

_________________________
Nguyễn Du - Page 11 Signat21
Về Đầu Trang Go down
https://www.daovien.net
Sponsored content




Nguyễn Du - Page 11 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nguyễn Du   Nguyễn Du - Page 11 I_icon13

Về Đầu Trang Go down
 
Nguyễn Du
Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Similar topics
-
» Việt Sử Giai Thoại - Tập 4 - Nguyễn Khắc Thuần
» Danh tướng Việt Nam 3 - Nguyễn Khắc Thuần
» Đường Thi
» Danh sĩ kim cổ thế giới - Nhất Như, Phạm Cao Hoàn
» Bình Ngô Đại Cáo - Nguyễn Trãi
Trang 11 trong tổng số 19 trangChuyển đến trang : Previous  1 ... 7 ... 10, 11, 12 ... 15 ... 19  Next

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
daovien.net :: VƯỜN THƠ :: THƠ SƯU TẦM :: Cổ Thi-