Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesVietUniĐăng kýĐăng Nhập
Bài viết mới
Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Today at 18:23

Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Yesterday at 16:41

Thi tập "Chỉ là...Tình thơ" by Tú_Yên tv Thu 25 Apr 2024, 12:56

Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Thu 25 Apr 2024, 12:51

Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Thu 25 Apr 2024, 12:46

LỀU THƠ NHẠC by Thiên Hùng Wed 24 Apr 2024, 11:55

Quán Tạp Kỹ - Đồng Bằng Nam Bộ by Thiên Hùng Wed 24 Apr 2024, 11:48

Trụ vững duyên thầy by Trà Mi Tue 23 Apr 2024, 07:34

Mái Nhà Chung by Trà Mi Tue 23 Apr 2024, 07:33

THIỀN TUỆ (diệt trừ đau khổ) by mytutru Tue 23 Apr 2024, 00:07

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 09:57

Nhận dạng phụ nữ giàu có by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 08:36

Bức tranh gia đình by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 08:09

Mẹo kho thịt by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 07:29

SẦU LY BIỆT by Phương Nguyên Sun 21 Apr 2024, 23:01

Trang Họa thơ Phương Nguyên 2 by Phương Nguyên Sun 21 Apr 2024, 22:56

Trang viết cuối đời by buixuanphuong09 Sun 21 Apr 2024, 06:38

Mức thù lao không ai dám nghĩ đến by Trà Mi Wed 17 Apr 2024, 11:28

KHÔNG ĐỀ by Phương Nguyên Wed 17 Apr 2024, 11:00

Cách xem tướng mạo phụ nữ ngoại tình, không chung thủy by mytutru Tue 16 Apr 2024, 11:59

Ở NHÀ MỘT MÌNH by Phương Nguyên Tue 16 Apr 2024, 09:59

HÁ MIỆNG CHỜ SUNG by Phương Nguyên Sun 14 Apr 2024, 13:29

Trang thơ vui Phạm Bá Chiểu by phambachieu Fri 12 Apr 2024, 15:48

Những Đoá Từ Tâm by Việt Đường Fri 12 Apr 2024, 15:32

Chết rồi! by Phương Nguyên Fri 12 Apr 2024, 13:57

ĐÔI BÀN TAY NGHỆ NHÂN by mytutru Thu 11 Apr 2024, 17:43

THẬN TRỌNG SIÊU LỪA by mytutru Wed 10 Apr 2024, 20:33

Không đánh, không mắng, không phạt, không có học sinh ưu tú by Trà Mi Wed 10 Apr 2024, 11:45

KHÓ NGỦ by Phương Nguyên Wed 10 Apr 2024, 01:46

MỘT CHÚT BUỒN by Phương Nguyên Tue 09 Apr 2024, 15:33

Tự điển
* Tự Điển Hồ Ngọc Đức



* Tự Điển Hán Việt
Hán Việt
Thư viện nhạc phổ
Tân nhạc ♫
Nghe Nhạc
Cải lương, Hài kịch
Truyện Audio
Âm Dương Lịch
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
Đăng Nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập: 
:: Quên mật khẩu

Share | 
 

 Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Chuyển đến trang : Previous  1, 2, 3, 4  Next
Tác giảThông điệp
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7112
Registration date : 01/04/2011

Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim  - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim    Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim  - Page 2 I_icon13Thu 30 Nov 2017, 08:25


Chương 4
Ra Huế Lập Chính Phủ

(tiếp theo)

Ðảng Việt Minh là gì và do đâu mà ra? Trước thì ít người biết rõ căn nguyên, sau đi đây đó xét hỏi kỹ càng mới biết rõ nguồn gốc. Thoạt đầu vào khoảng năm 1938 ở Bắc Việt đã nghe nói có đảng Việt Minh hành động ở mạn thượng du, nhưng lúc ấy ai cũng tưởng là một đảng cách mệnh mới nào đó nên không để ý đến mấy.

Nguyên từ khoảng 1925-1926 trở đi, ở Việt Nam đã có người nói đến chủ nghĩa cộng sản. Lúc ấy có một thiếu niên tên Nguyễn Tất Thành, sinh năm 1894, con nhà thi lễ, quê làng Kim Liên huyện Nam Ðàn thuộc tỉnh Nghệ An. Trước học trường trung học ở Huế rồi bỏ sang Pháp theo Xã Hội Ðảng, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc. Sau lại sang Nga vào đảng Cộng Sản, đến khoảng 1929-1930 ông trở về gây phong trào cộng sản cách mệnh ở vùng Nghệ Tĩnh. Lúc ấy chính phủ bảo hộ Pháp dùng võ lực đàn áp một cách tàn nhẫn. Việc ấy thất bại, đảng cộng sản tuy phải im hơi lặng tiếng, nhưng vẫn ngấm ngầm tuyên truyền trong đám dân gian và thợ thuyền, theo đúng phương pháp đã định ở Mạc Tư Khoa bên Nga.

Trong khoảng thời gian ấy, Nguyễn Ái Quốc lánh sang Hương Cảng, bị người Anh bắt. Người Pháp muốn đòi người Anh giao trả cho chính phủ Ðông Dương, song theo tục lệ Anh, người Anh không giao trả những người can phạm vào việc chính trị, vì vậy ông phải giam ít lâu rồi được tha và bị đuổi ra khỏi Hương Cảng.

Ông Nguyễn Ái Quốc sang Quảng Châu và phao tin rằng ông đã chết trong ngục khi bị bắt ở Hương Cảng, và lại đổi tên là Lý Thụy rồi chen lẫn với những người cách mệnh Việt Nam ở bên Tàu. Vào khoảng 1936-1937 ông lập ra đảng cộng sản gọi là Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh, gọi tắt là Việt Minh, và cho người về hoạt động ở miền thượng du bắc việt. Vì vậy thuở ấy người ta mới biết là có đảng Việt Minh.

Ðến cuối năm 1940 nhân khi quân Nhật Bản ở Quảng Tây đánh vào Lạng Sơn, những người như bọn ông Trần Trung Lập trong đảng Việt Nam Quang Phục Hội của ông Phan Bội Châu lập ra khi trước, theo quân Nhật về đánh quân Pháp hồi tháng chín năm 1940. Sau vì người Nhật ký hiệp ước với người Pháp rồi trả lại thành Lạng Sơn cho người Pháp, ông Trần Trung Lập bị quân Pháp bắt được đem xử tử. Toán quân phục quốc vỡ tan, có một số độ 700 người, trong số ấy có độ 40 nữ đảng viên theo ông Hoàng Lương chạy sang Tàu.

Vậy các đảng của người Việt Nam ở bên Tàu vào khoảng năm 1942 trở đi, có Việt Nam Phục Quốc Ðồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Ðảng và những người cách mệnh không có đảng phái v...v...

Thuở ấy, chính phủ Trung Hoa thấy những đảng viên Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh Hội hành động theo chủ nghĩa cộng sản, bèn xuống lệnh giải tán đảng ấy và bắt Lý Thụy giam trong hang đá ở Liễu Châu, ủy cho tướng Trương Phát Khuê chủ trương việc tập hợp các đảng phái cách mệnh Việt Nam lập thành một đảng để hành động cho có hệ thống. Trương Phát Khuê giao cho ông Hoàng Lương trù liệu việc ấy.

Ngày mùng 1 tháng mười năm 1942, ông Hoàng Lương chiêu tập ở Liễu Châu những người trong các đảng phái hay không có đảng phái để lập ra một đảng duy nhất gọi là Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội, gồm đại biểu các đảng sau đây:
1) Việt Nam Phục Quốc Ðồng Minh Hội, có Hoàng Lương và Hồ Học Lãm làm đại biểu.
2) Việt Nam Quốc Dân Ðảng, có Vũ Hồng Khanh và Nghiêm Kế Tổ làm đại biểu.
3) Vô đảng phái, có Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần, Trần Báo, Trương Trung Phụng làm đại biểu.

Các đại biểu trước hết lập thành một ủy ban trừ bị do Nguyễn Hải Thần chủ tọa để xếp đặt mọi việc. Lúc ấy Lý Thụy còn phải giam, ủy ban trừ bị đứng ra bảo đảm với chính phủ Trung Hoa, xin lĩnh ra để cùng làm việc. Theo lời một người Việt Nam có mặt trong hội nghị ấy đã nói: Lý Thụy có kết nghĩa với một người cộng sản Tàu tên là Hầu Chí Minh, làm chức thiếu tướng trong quân đội thuộc quyền chỉ huy của Trương Phát Khuê. Khi ở nhà ngục ra, ông muốn tỏ tình thân ái với bạn mới lấy tên là Hồ Chí Minh. Khi ông được tha ra, liền tuyên thệ xin hết lòng trung thành với Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội mà làm việc.

Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội đã thành lập, đổi ủy ban trừ bị ra làm ủy ban chấp hành. Khi ấy ông Hoàng Lương vì có sự gì xích mích với chính phủ Trung Hoa nên bị bắt đem về Trùng Khánh. Bởi vậy ủy ban chấp hành chỉ có những người này:

Trương Bội Công, chủ tọa.
Trần Ðình Xuyên.
Nguyễn Hải Thần.
Vũ Hồng Khanh, ủy viên.
Bồ Xuân Luật.
Trương Trung Phụng.
Nông Kính Du.

Hồ Chí Minh được cử làm hậu bổ ủy viên và Trần Báo làm tổng cán sự.

Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội vừa thành lập chưa được bao lâu thì đã có sự bất hòa trong nhóm ủy viên, nên chủ tọa là Trương Bội Công từ chức và bỏ về Vân Nam rồi mất ở đấy. Hội cử ông Nguyễn Hải Thần lên làm chủ tọa.

Trong những người cách mệnh Việt Nam hoạt động bên Tàu thuở ấy, ta có thể biết những người này:

Trương Bội Công, người Thanh Hóa, có nghị lực và cương quyết, trước học trường võ bị và làm đến chức thiếu tướng trong quân đội Tàu.

Nguyễn Hải Thần, chính tên là Vũ Hải Thu, người tỉnh Hà Ðông. Ông là người lão thực, trước đã thi đỗ tú tài, thường gọi ông Tú Ðại Từ. Khi ông Phan Bội Châu xướng lên việc xuất dương vào quãng năm 1905-1906, ông ra ngoài vào học trường võ bị Hoàng Phố gần Quảng Châu. Ông quen biết Tôn Dật Tiên, Tưởng Giới Thạch, Ngô Thiết Thành, Trần Lập Phu v...v... Vì có sự quen biết ấy, nên khi ông Tưởng Giới Thạch làm giám đốc trường Hoàng Phố, có đưa ông vào làm một chức giáo sư ở trường, dạy về chính trị, mỗi tháng được sáu bảy chục tiền Tàu, lúc ấy cũng đủ ăn tiêu. Một năm ở Nam Ðịnh có cuộc xướng danh khoa thi hương, toàn quyền Sarraut về chứng cuộc ấy, ông về ném quả tạc đạn định giết viên toàn quyền. Nhưng tạc đạn không nổ, ông chạy thoát, đổi tên là Nguyễn Cẩm Giang. Một lần nữa sau cuộc chiến tranh 1914-1918 ông đem một toán quân thổ phỉ về đánh châu Ðà Long, ta thường gọi là châu Ðà Lùng thuộc Cao Bằng. Việc thất bại ông sang ở luôn bên vùng nam nước Tàu và đổi tên là Nguyễn Hải Thần. Sự nghiệp cách mệnh của ông chứng rõ trong bài thơ sau này, ông gửi cho tôi khi tôi ở Quảng Châu vào khoảng cuối năm 1946:

Bốn chục năm nay vị nước nòi
Nước nòi chưa mạnh, quyết chưa thôi
Ðà Long phất trận gươm ba tấc
Nam Ðịnh tương bom lửa một mồi
Cha đứa cắn gà toan cõng rắn
Mẹ thằng giày mã dám đem voi
Nào ai mãnh sĩ mưu thần đó
Góp sức đun tay để cứu đời

Vũ Hồng Khanh, tức là Giáo Giản, trước làm giáo học ở một trường tiểu học bắc việt, sau theo Nguyễn Thái Học vào Quốc Dân Ðảng khởi nghĩa ở Yên Bái, rồi chạy sang Tàu ở bên Vân Nam.

Nguyễn Tường Tam, có bằng khoa học cử nhân, trước đứng chủ trương báo Phong Hóa rồi Ngày Nay ở Hà Nội và lập ra đảng Ðại Việt Dân Chính. Ðến khi quân Nhật vào đóng ở Ðông Dương, vì sự hành động của bọn ông, người Pháp toan bắt, ông nhờ quân đội Nhật đưa sang ở Quảng Châu rồi sang Quảng Tây, nhập vào Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội.

Những người ấy tuy nói là đảng nọ phái kia, nhưng kỳ thực không có sự tổ chức gì ra trò. Bọn ông Hồ Chí Minh biết như thế nên mới lợi dụng danh hiệu Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội để che đậy công việc làm.

(còn tiếp)

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7112
Registration date : 01/04/2011

Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim  - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim    Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim  - Page 2 I_icon13Wed 10 Jan 2018, 12:50


Chương 4
Ra Huế Lập Chính Phủ

(tiếp theo)

Ðảng Việt Minh cộng sản có tổ chức rất chu mật và theo đúng phương pháp khoa học. Trong khi ông Hồ Chí Minh ở bên Tàu để chờ đợi thời cơ, ở trong nước đâu đâu cũng có cán bộ, ngấm ngầm hành động và tuyên truyền rất khôn khéo. Họ lợi dụng lòng ái quốc của dân chúng mà tuyên truyền Việt Minh không phải là đảng cộng sản, chỉ là một mặt trận gồm tất cả các đảng phái lấy lại độc lập cho nước nhà, vậy nên từ bắc chí nam đâu cũng có người theo.

Cách hành động của họ thì bất cứ công sở hay tư sở, hễ đâu có một tổ chức làm việc là có người của họ chen lấn vào, hoặc để tuyên truyền, hoặc để hoạt động theo chủ nghĩa họ. Ðảng viên cộng sản lại biết giữ kỷ luật rất nghiêm và rất chịu khó làm việc. Xem như Hội Truyền Bá Quốc Ngữ khi mới thành lập ở Hà Nội là có ngay những người cộng sản vào hội rồi, và những người nhận việc đi dạy học rất chăm, không quản công lao gì cả. Một tổ chức có kỷ luật và chịu khó làm việc như thế, làm gì mà không mạnh.

Sự tổ chức của đảng cộng sản đã mạnh và nhất là từ khi quân Nhật Bản vào đóng ở Ðông Dương, rồi xem hình như người Pháp lại ngấm ngầm dung túng họ, có ý để họ quấy nhiễu quân Nhật may ra có xảy biến đổi gì chăng. Cho nên người ta thấy lúc ấy chính phủ bảo hộ vẫn bắt bớ những người làm thuyền thợ theo cộng sản, song người cộng sản nào có chút thế lực thì bắt rồi lại thả ra, hoặc dùng để làm việc với mình. Cái tình thế đảng cộng sản ở trong nước trước khi có cuộc đảo chính của quân Nhật là thế.

Trong khi ấy ông Hồ Chí Minh ở bên Tàu vẫn cộng tác với Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội, không có tranh giành địa vị như những người khác, cứ làm việc của một đảng viên có kỷ luật. Cái khôn khéo của ông lúc ấy không để lộ cho ai biết ông là lãnh tụ đảng cộng sản Ðông Dương.

Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội ở Liễu Châu được ít lâu rồi vì sự tấn công của quân Nhật, hội phải dời về Bách Sắc và đặt thêm hai chi bộ; một chi bộ ở Côn Minh do Vũ Hồng Khanh quản lý, và một chi bộ ở tỉnh Quảng Tây do Trương Trung Phụng quản lý.

Về khoảng cuối năm 1944, Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội lại dời về tỉnh Quảng Tây và cho ông Hồ Chí Minh về Bách Sắc để trù liệu kế hoạch nhập Việt. Sau đó hội cho ông Hồ Chí Minh cùng 22 đảng viên phần nhiều là người trong đảng Phục Quốc về nước để khởi sự hành động. Trong số 22 người ấy có một nữ đảng viên tên là Ðỗ Thị Lạc là người sau có đứa con gái với Hồ Chí Minh. Về sau thấy người ta nói khi về đến địa hạt Bắc Giang, có ba đảng viên trong 22 người ấy bị giết vì không chịu theo cộng sản.

Lúc đầu bọn ông Hồ Chí Minh chia ra làm hai đoàn. Một đoàn có ông Ðặng Văn Ý, cựu trung úy trong quân đội Pháp trước về Lạng Sơn đánh lấy đồn Bảo Lạc, thuộc Hà Giang. Một đoàn đi với Hồ Chí Minh có Vũ Nam Long, sau thường gọi là tướng Nam Long, đánh lấy đồn Ðồng Mu ở Sóc Giang thuộc Cao Bằng. Việc ấy xảy ra vào khoảng tháng hai năm 1945. Từ đó bọn ông Hồ Chí Minh bỏ danh hiệu Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội mà dùng danh hiệu cũ là Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh, tức Việt Minh, và dùng cờ đỏ sao vàng của cộng sản. Rồi đến quảng đầu tháng ba năm 1945 thì về đến vùng Văn Lãng, thuộc Thái Nguyên giáp Tuyên Quang và lập trụ sở bí mật ở đó. Từ bấy giờ trở đi, đảng Việt Minh hành động rất mạnh, nhưng cái tên Hồ Chí Minh vẫn giữ rất kín cho đến gần cuối tháng tám, sau khi cướp được chính quyền ở bắc bộ, người ta mới nghe nói.

Các chi bộ cộng sản ở trung và Nam Bộ đã sẵn sàng đâu đấy cả rồi, song cứ phải giữ bí mật, đợi khi có mệnh lệnh mới được ra mặt hành động. Ở bắc bộ, một mặt họ sai những người táo tợn đi đánh phá các nơi, hễ đâu có ai ra mặt chống họ, họ bắt đi hay giết chết, làm cho dân chúng khiếp sợ. Một mặt họ cho người đi diễn thuyết và tuyên truyền rằng đảng Việt Minh đã có các nước Ðồng Minh là Tàu, Nga, Mỹ ủng hộ và giúp cho binh khí để đánh bọn độc tài Pháp và Nhật. Họ lại nói rằng quân Việt Minh đã đánh lấy được mấy tỉnh ở mạn thượng du bắc bộ rồi.

Vào khoảng tháng 5 năm 1945, người Nhật thấy Việt Minh có thế mạnh, tưởng là một đảng theo chủ nghĩa quốc gia, bèn cho người đi tìm cách điều đình. Ðến ngày mùng 9 tháng năm, hai người Nhật và một người Việt Nam làm thông ngôn lên đến Ký Phú gần huyện Ðại Từ thuộc Thái Nguyên, đều bị quân Việt Minh giết cả. Việt Minh lại sai người về ám sát mấy người sĩ quan Nhật ở giữa Hà Nội và cho người đi đánh phủ nọ huyện kia. Các quan phủ huyện, người thì bị bắt, người thì chạy trốn, dân tình nôn nao cả lên. Những thanh niên Việt Nam lúc ấy phần nhiều cũng theo Việt Minh và đi tuyên truyền rầm rĩ. Người Nhật thấy vậy bèn ra lệnh bắt các thanh niên và những người họ ngờ theo Việt Minh đem giam và tra tấn rất cực khổ.

Khi tôi được tin người Nhật bắt các thanh niên ở Hà Nội, lập tức tôi thu xếp ra bắc. Hôm sau tôi nói chuyện với ông Yokohama, tối cao cố vấn Nhật, rằng hai ngày nữa tôi ra Hà Nội. Ông ấy bảo tôi: Cụ đang nhọc mệt ra Hà Nội làm gì, mọi việc dần dần rồi đâu ra đấy cả. Tôi nói thật ý định của tôi, ông Yokohama không nói gì. Ðến sáng hôm sau ông nói rằng: Nếu cụ đi Hà Nội, thì tôi cùng đi với cụ. Tôi bảo được thế càng hay.

Tôi ra Hà Nội, cùng đi có các ông Hoàng Xuân Hãn bộ trưởng bộ giáo dục, ông Vũ Văn Hiền bộ trưởng bộ tài chính, ông Phan Anh bộ trưởng bộ Y Tế, đề phòng khi điều đình ổn thỏa, sẽ lấy lại các công sở.

Ði lúc bấy giờ rất khó khăn, ngày đêm tàu bay Mỹ sang đánh phá, phải đêm đi ngày nghỉ. Ra đến Hà Nội được mấy ngày ông Vũ Ngọc Anh đi về Thái Bình thăm nhà và xem những bệnh viện vùng ấy, rồi đến khi trở về gần Bần Yên Nhân, bị tàu bay Mỹ bắn chết.

Thế là trong nội các mất một ông bộ trưởng rất tận tâm về việc nước, và chúng tôi mất một người bạn hòa nhã và trung thành.

Tôi đến Hà Nội hôm trước, hôm sau đến gặp ông Tsuchi-Hashi Yuitsu, tổng tư lệnh nhật, quyền chức toàn quyền của Pháp ở Ðông Dương, rồi bắt đầu nói chuyện. Trong cuộc nói chuyện chỉ có viên tổng tư lệnh, viên cố vấn và tôi. Viên tối cao cố vấn phiên dịch tiếng Việt ra tiếng Pháp. Nói câu nào, trước khi phiên dịch ra tiếng Pháp hay tiếng Nhật, viên ấy biên lấy những câu hỏi và những câu đáp lại.

Trước hết tôi nói: Quân đội Nhật đã đánh quân đội Pháp và công nhiên hứa hẹn trả quyền tự chủ cho nước Việt Nam. Bởi vậy tôi không quản tuổi già và sự khó khăn của hoàn cảnh mà đứng ra lập chính phủ. Tôi làm việc một lòng giúp nước tôi, cũng như các ông lo việc giúp nước Nhật, thế mà thấy nhiều người nói nọ nói kia rất khó chịu. Nếu các ông cho tôi là người làm việc cho nước Nhật, việc ấy không phải là phận sự của tôi, tôi sẵn lòng xin lui.

Tổng tư lệnh Nhật nói:
- Bao giờ người Nhật cũng giữ lời hứa hẹn nên những việc nội trị trong nước Việt Nam là không can thiệp đến. Còn những việc chưa giải quyết được là vì cần phải có thì giờ để thu xếp cho ổn thỏa. Cụ đừng nghe người Nhật hay người Việt Nam nói nhảm không có căn cứ gì. Vả tôi phụng mệnh Thiên Hoàng sang đây, việc gì cũng trách cứ ở tôi, cụ đừng ngại.
- Ngài đã nói thế, phận sự của chính phủ chúng tôi là phải thu lại mấy thành thị Hà Nội, Hải Phòng, Ðà Nẵng và toàn hạt đất Nam Bộcho nước Việt Nam. Nếu việc ấy không xong, thì chúng tôi đối với quốc dân không có nghĩa lý gì cả.
- Chúng tôi bao giờ cũng định trả lại các lãnh thổ Việt Nam cho chính phủ Việt Nam. Nhưng vì sợ các ông chưa xếp đặt được sẵn sàng, nên còn trì hoãn lại ít lâu.
- Chúng tôi vẫn sẵn sàng về việc ấy, chỉ còn đợi sự quyết định của các ông mà thôi.
- Vậy thì cụ định bao giờ lấy lại ba thành thị kia?
- Nếu ngài bằng lòng, thì tôi xin lấy ngay tự bây giờ.

Viên tổng tư lệnh Nhật nghĩ một lúc rồi nói:
- Vậy xin để đến sáng ngày kia, vào 11 giờ cụ cho làm lễ thu nhận ba thành thị ấy. Còn Nam Bộ thì có nước Cao Miên còn lôi thôi về mấy tỉnh ở biên giới.

Tôi nói:
- Việc ấy hiện bây giờ không thành vấn đề được, vì địa giới Nam Bộ ngày nay với địa giới Nam Bộ ngày trước không có gì thay đổi. Vậy phận sự chúng tôi là phải lấy lại toàn lãnh thổ của tổ quốc. Còn như Cao Miên có muốn nói chuyện gì về việc ấy, thì sẽ nói chuyện với chúng tôi về sau. Vả theo ý tôi, thì nước Cao Miên muốn thừa cơ chiếm lấy một ít đất của nam bộ, như thế làm mất cái tinh thần thân thiện của hai nước lân bang, và không đời nào dân Việt Nam chịu.

Tổng tư lệnh Nhật cứ viện hết lý do nọ đến lý do kia, thành ra cứ bàn cãi đến một ngày mới chịu nhận lời trả lại nam bộ. Có một điều nên biết, là từ ngày tôi ra Hà Nội, người Nhật nói chuyện rất hòa nhã và có vẻ cung kính, chứ không có điều gì trịch thượng hay gai ngạnh. Khi họ đã nhận lời trả lại đất nam bộ, có hỏi tôi rằng: Bao giờ cụ định vào nhận lấy đất nam bộ, hay cụ định cho ai đi thay cụ. Tôi nghĩ trong cái việc khó khăn này, mình phải đi mới được, và tôi nói: Tôi về Huế vài ngày để tâu bày mọi
việc với hoàng thượng, rồi độ chừng ngày mùng 8 tháng tám là tôi đã ở Sài gòn rồi.

Tổng tư lệnh Nhật nói:
- Cụ định vào thì hôm ấy tôi cũng vào, để xếp đặt mọi chuyện cho chóng xong.

Tôi nói:
- Cám ơn ngài. Ðược như thế thì có thể tránh được mọi sự khó khăn lặt vặt.

Việc lấy lại toàn lãnh thổ Việt Nam như thế là quyết định xong. Tôi nói đến việc lấy lại các công sở trước thuộc về chính phủ Ðông Dương toàn quyền. Tổng tư lệnh Nhật nói việc ấy có nhiều sự phức tạp vì các công sở ấy quan hệ đến các nước lân bang như Cao Miên và Ai Lao nữa.

Tôi nói:
- Các ông đã đánh đổ các thuộc địa của Pháp, đã nhận cho Việt Nam, Cao Miên và Ai Lao được tự chủ thì các công sở ấy theo lẽ tất nhiên là phải trả lại cho các nước ấy. Còn sự giao thiệp về quyền lợi riêng của mấy nước chúng tôi, sẽ theo tình thân thiện mà bàn với nhau.

Có một điều tôi nhất định đòi cho được, là phải bỏ chế độ phủ toàn quyền cũ, mới hợp cái nghĩa tự chủ của ba nước trong xứ Ðông Dương. Sau cuộc đàm phán hơn một ngày bàn về chi tiết việc giao trả lại chính phủ Việt Nam hết thảy các công sở, như sở hỏa xa, sở công an, vì còn chiến tranh, người Nhật xin để riêng mấy phòng cho họ hợp tác với người Việt Nam. Tôi nghĩ: trong lúc đầu còn lắm sự khó khăn, ta phải tạm nhượng bộ ít nhiều, để cho êm chuyện. Tôi ưng thuận. Còn ngày thu nhận các công sở ấy định vào ngày 15 tháng tám mà bấy giờ là ngày mùng 2 tháng tám dương lịch.

Những công việc và mấy vấn đề trên xong đâu đấy rồi, tôi xin tổng tư lệnh Nhật tha và trả lại cho chính phủ Việt Nam hết thảy những sĩ quan và quân lính Việt Nam mà quân đội Nhật còn giam giữ ở các nơi, để chúng tôi tổ chức lại quân đội bảo an. Và nhân vì súng ống không có, tôi lại xin cho chúng tôi đủ súng ống đạn dược để những đội bảo an ấy dùng. Tổng tư lệnh Nhật nhận lời và tạm cho bắc bộ 2000 khẩu súng và đạn dược. Tôi về lập tức cho gọi đại úy Thu và một trung úy đã được tha từ trước làm chương trình cải tổ các đội bảo an.

Tôi xin tha cho những thanh niên bị hiến binh Nhật bắt vì theo Việt Minh. Lúc ấy phần nhiều thanh niên hăng hái quá thường hay bạo động. Tổng tư lệnh Nhật gọi viên đại tá coi hiến binh Nhật đem sổ cho tôi xem, thì chỉ thấy độ 300 người bị bắt, chứ không như người ta đồn có tới hàng ngàn người, và có non một trăm người đã được tha rồi. Những người còn phải giữ lại là vì có chứng cớ, như cho tiền hay đã đi hội họp ở chỗ nào. Tôi lấy mọi lẽ giải thích sự hành động của thanh niên, và bảo người Nhật rộng lượng mà tha hết cả ra, để khỏi làm náo động lòng người. Hiến binh Nhật hứa sẽ xét chóng mà tha dần ra. Ngày hôm sau họ tha ra được năm, sáu chục người.

Nói rút lại, chúng tôi ra Hà Nội, điều đình với tổng tư lệnh Nhật được kết quả như là: lấy lại toàn lãnh thổ của nước Việt Nam, thu hết các công sở thuộc phủ toàn quyền cũ của Pháp, lấy hết các binh sĩ Việt Nam để tổ chức đội quân bảo an, lấy được 2000 khẩu súng mới và đạn dược, và xin tha được một số thanh niên bị bắt.

Sự điều đình của chúng tôi được ổn thỏa dễ dàng, có lẽ vì người Nhật tự biết họ sắp thua nên họ đổi thái độ để mua chuộc lòng người. Hay là họ có ý gì khác nữa, ta không thể biết được.

Lúc ấy chúng tôi còn dự định làm nhiều việc khác, nhất là chương trình cải tổ quân đội, luyện tập quân lính đề phòng khi hữu sự. Nếu có thì giờ thi hành được, thì độ năm bảy tháng, hay độ một năm, sẽ có kết quả khả quan lắm. Song ý người định thế, mà trời không cho làm thì sao?

Chúng tôi phải thu xếp về Huế. Giá lúc ấy có một người làm khâm sai ở bắc bộ cương quyết và hiểu việc, thì các việc tổ chức có thể mau chóng hơn, nhưng ông Phan Kế Toại là người chuyên làm việc trong thời bảo hộ của Pháp, tuy trong sạch hơn cả, song chỉ là một ông quan biết thừa hành mệnh lệnh, chứ về đường chính trị thì không thông thạo lắm, và tính lại nhát. Ông thấy một đường thì người Nhật làm khó dễ, một đường thì bọn Việt Minh bạo động, nay đánh chỗ này, mai đánh chỗ nọ, ông sợ hãi và chán nản, chỉ nói chuyện xin từ chức.

Phàm những người cầm quyền bính trong tay mà có những người tế nhị tài giỏi, biết quyền biến, giúp việc thì dù việc dở cũng hóa hay, mà không thì việc hay cũng hóa dở. Ðó là điều các nhà làm chính trị nên chú ý.

Trước tôi thấy cách làm việc của ông Toại rất lộn xộn, tôi đã muốn tìm người thay, nhưng tìm aỉ? Người nói giỏi thì nhiều, mà người làm được việc thì ít. Nếu ở trong quan trường cũ có người tài cán và hiểu việc thì hơn, vì chức khâm sai là một chức kiêm cả việc chính trị và cai trị. Việc cai trị không có lịch duyệt không làm được. Ông Toại là người làm quan có tiếng hơn cả mà còn như thế, huống người khác rồi ra sao. Vì thế nên tôi cứ trù trừ mãi. Sau ông Toại cứ nài. Tôi nghe nói ông Nguyễn Tường Long là người biết chính trị và có nghị lực hơn cả, nhưng lúc ấy ông đang bị bệnh thương hàn. Tôi nghĩ đến ông Nguyễn Xuân Chữ là người trong Việt Nam Ái Quốc Ðảng, có tính cương quyết và đứng đắn. Tôi gặp ông Chữ nói chuyện, ông đã nhận lời, nhưng hôm sau ông về bàn tính thế nào lại đổi ý, nói xin để thong thả.

Tôi thì vội về mà người thì không có. Tôi phải bảo ông Toại phải cố ở lại mà làm việc cho đến khi tôi thu xong đất nam bộ, tôi sẽ tìm người thay. Ông Toại nể tôi mà ở lại.

(còn tiếp)

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7112
Registration date : 01/04/2011

Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim  - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim    Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim  - Page 2 I_icon13Fri 21 Sep 2018, 09:45


Chương 4
Ra Huế Lập Chính Phủ

(tiếp theo)


Ðảng Việt Minh lúc ấy rất hoạt động, đánh huyện này, phá phủ kia. Lính bảo an ở các nơi phần nhiều bị Việt Minh tuyên truyền, tuy chưa theo hẳn, nhưng không chống cự nữa. Dân gian bấy giờ rất hoang mang, một đường có chính phủ quốc gia, nhưng vì thời gian eo hẹp, chưa kịp sắp đặt gì cả. Công việc thấy có nhiều sự khốn khó mà thường nghe sự tuyên truyền của Việt Minh, nói họ đã có các nước Ðồng Minh giúp đỡ cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập. Dân ta từ khi bị người Pháp sang cai trị, cứ khao khát độc lập, nay nghe Việt Minh nói thế, lại nghe nói đảng Việt Minh lên cầm quyền, dân không phải đóng thuế nữa, được hoàn toàn tự do và có nhiều hạnh phúc, thành ra ai cũng tin theo. Ngay những đạo thanh niên tiền tuyến do bộ Thanh Niên lập ra, cũng có ý ngã về Việt Minh.

Tôi thấy tình thế ấy, tôi bảo ông Phan Kế Toại đi tìm một vài người Việt Minh đến nói chuyện, vì lúc ấy tôi còn tưởng đảng Việt Minh dù theo chủ nghĩa cộng sản, nhưng chắc cũng nghĩ đến tương lai nước nhà. Hôm sau ông Toại đưa một thiếu niên Việt Minh đến, tôi nói: "Chúng tôi ra làm việc chỉ vì nước mà thôi, chứ không có ý cầu danh lợi gì cả, tôi chắc đảng các ông cũng vì nước mà hành động. Nếu vậy chúng ta tuy đi con đường khác nhau, nhưng cũng một mục đích như nhau, các ông thử xem ta có thể hợp tác với nhau, kẻ ở trong người ở ngoài, để cứu nước được không?".

Người ấy nói:

„Sự hành động của chúng tôi đã có chủ nghĩa riêng và có chương trình nhất định để đem nước đến chỗ hoàn toàn độc lập. Chúng tôi có thể làm lấy được.”

„Sự mưu cầu cho nước được độc lập cũng là mục đích của chúng tôi, nhưng vì đi đường thẳng có nhiều sự khó khăn nên chúng tôi phải uyển khúc mà đi từ từ có lẽ chắc chắn hơn.“

„Chúng tôi chỉ có một con đường thẳng đi đến hoàn toàn độc lập chứ không có hai.“

„Theo như ý các ông như thế, tôi sợ rất hại cho dân, mà chưa chắc đã thành công được.“

„Chúng tôi chắc thế nào cũng thành công. Nếu có hại cũng không cần, có hại rồi mới có lợi. Dù người trong nước mười phần chết mất chín, chúng tôi sẽ lập một xã hội mới với một thành phần còn lại, còn hơn với chín phần kia.”

Rồi người ấy ngồi đọc một bài hình như đã thuộc lòng để kể những công việc của đảng Việt Minh. Tôi thấy thái độ người ấy như thế, tôi biết không thể lấy nghĩa lý nói chuyện được.

Tôi nói:

„Nếu các ông chắc lấy được quyền độc lập cho nước nhà, các ông không vào chính phủ làm việc, cần gì phải đánh phá cho khổ dân?“

„Chúng tôi sẽ cướp lấy quyền để tỏ cho các nước Ðồng Minh biết chúng tôi mạnh, chứ không chịu để ai nhường.“

„Các ông chắc là các nước Ðồng Minh tin ở sức mạnh của các ông không?“

„Chắc lắm. Chắc trăm phần trăm.”

„Tương lai còn dài, các ông nhận lấy trách nhiệm đối với quốc dân và lịch sử.“

Xong việc ấy rồi cách hai hôm sau chúng tôi về Huế. Ông Phan Anh và ông Vũ Văn Hiền cùng về với tôi, còn ông Hoàng Xuân Hãn ở lại Hà Nội đợi đến ngày thu nhận sở Ðông Dương Học Chính và sở Công Chính.

Về đến Huế chúng tôi tâu bày mọi việc cho vua Bảo Ðại biết. Ngày tỏ ý vui vẻ lắm. Ðến khi họp hội đồng chính phủ trình bày công việc và kết quả việc chúng tôi ra Hà Nội, tôi vừa nói xong, ông Trần Văn Chương bộ trưởng ngoại giao nói: "Cụ ra Hà Nội lần này thành công là nhờ sự điều đình của tôi, khi tôi ra Hà Nội lần trước". Tôi nghe lời ông Chương nói, rất ngạc nhiên, vì lúc ấy tôi không nghĩ đến công cán gì cả. Lời ông Chương nói tỏ ra cái ý tranh công. Ngày trước tôi vẫn thường nói với các bộ trưởng: "Chúng ta cùng nhau hết lòng làm việc giúp nước, xin đừng ghen tị gì cả. Nếu ai làm được việc gì ích lợi là công chung tất cả của chúng ta. Hễ tôi làm không nổi và có ai sẵn lòng thay tôi, tôi xin nhường ngay". Sự tôi muốn nhường đó, ông Chương biết rõ hơn mọi người khác.

Tôi đáp lại ông Chương: "Việc tôi nói đây để trình bày những việc đã làm để nội các biết. Nếu có được một chút hiệu quả nhờ sự điều đình của ông Chương khi trước, càng hay. Thế tỏ ra công chung của mọi người trong nội các".

Sự thật sau khi ông Trần Văn Chương ra Hà Nội, có viên trung tướng tham mưu trưởng của tư lệnh bộ Nhật ở Ðông Dương tôi đã gặp khi trước, lúc mới ở Băng Cốc về Sài gòn, viên ấy ở Hà Nội trở vào nam, đi qua Huế có viết cho tôi lá thư bằng tiếng Nhật, nhờ ông Yokohama dịch ra tiếng Pháp đưa tận tay cho tôi. Ðại ý trong thư nói: "Việc ông bộ trưởng ngoại giao ra Hà Nội không có kết quả, vì ông ấy không biết giao thiệp, làm mếch lòng người Nhật". Tôi đưa thư ấy cho ông Hoàng Xuân Hãn và ông Phan Anh xem, để rõ tình thực.

Xong việc ấy, nói đến việc đi vào Nam Bộ. Thấy ý kiến các ông bộ trưởng phân vân. Ông Trần Ðình Nam, bộ trưởng bộ nội vụ, nói: "Nếu cụ đi nam, ở Huế nếu có xẩy ra việc gì, không ai chịu trách nhiệm". Ông Hồ Tá Khanh, bộ trưởng bộ kinh tế, đưa thư nói đại ý: "Phong trào Việt Minh mạnh lắm, nội các Trần Trọng Kim nên thôi đi, để họ làm việc may ra họ cứu được nước". Tôi nói: "Sự tôi thôi, thì tôi đã dự định rồi, nhưng để lấy lại đất Nam Bộcho trọn công việc của mình, tôi thôi ngay".

Tôi thấy việc đi nam có nhiều sự cản trở, trong nội các không có hòa khí như lúc đầu, và có lắm chuyện nhỏ mọn không muốn nói ra, làm tôi mất cả lòng hăng hái làm việc, thành ra đến ngày mùng 8 tháng tám tôi vẫn không đi nam được. Tổng tư lệnh Nhật ở Hà Nội vào Sài gòn không thấy tôi, điện ra dục. Tôi điện vào xin cứ cho lấy lại nam bộ, tôi không phải vào Nam nữa.

Ðược tin người Nhật ưng thuận, và lúc ấy có ông Nguyễn Văn Sâm lãnh tụ đảng Quảng Xã, vừa ở Sài Gòn ra Huế. Tôi vào tâu vua Bảo Ðại, xin cử ông Sâm làm Nam Bộ Khâm Sai. Ngày 14 tháng tám năm 1945, ông Sâm được sắc chỉ bổ vào Nam.

Ông Nguyễn Văn Sâm đi rồi, tôi cho công việc làm của tôi như thế tạm xong. Tôi nói tạm xong, vì lúc ấy tôi tưởng Nhật khéo léo lắm cũng chỉ được năm bảy tháng nữa là cùng, rồi ra quân Ðồng Minh kéo lên Ðông Dương, những việc đã làm đó, ai kể vào đâu. Song dù sao nó cũng thành cái hằn, cái nếp, thành một việc đã có rõ ràng, theo tình thế chính trị, người ta không thể xóa bỏ hẳn đi được.

Việc lấy lại đất Nam Bộ xong, tôi vào tâu vua Bảo Ðại, xin cho tôi từ chức. Ngài nói: "Ông đang làm được việc, sao lại xin thôi, và ông thôi lấy ai thay". Tôi tâu trình lên mấy người, ngài tỏ vẻ không thuận, bảo: "Các ông hãy tạm làm việc, chờ đến khi tìm được người ra lập nội các hãy thôi".

Lúc ấy tôi như cất được gánh nặng, nhưng tìm ai thay? Tôi nghĩ nên tìm những người thuộc về các đảng phái như Ngô Ðình Diệm, Nguyễn Xuân Chữ, Lê Toàn, Tạ Thu Thâu, Hồ Hữu Tường, Ðặng Thái Mai v...v... đã có tiếng hoạt động về chính trị, để vào lập nội các mới. Tôi điện đi các nơi mời những người ấy vào Huế, nhưng sợ một bức điện không được rõ, tôi nhờ ông Phan Anh ra Bắc và ông Hồ Tá Khanh vào nam gặp mọi người và nói chuyện cho rõ đuôi đầu. Nhưng ông Phan Anh ra đến vùng Phủ Diễn bị quân Việt Minh bắt giữ lại, ông Hồ Tá Khanh vào đến Quảng Ngãi cũng bị giữ lại. Ðang lúc ấy được tin nước Nhật Bản bị bom nguyên tử không chịu nổi phải xin hàng.

(còn tiếp)

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7112
Registration date : 01/04/2011

Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim  - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim    Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim  - Page 2 I_icon13Thu 27 Sep 2018, 08:28



Chương 4
Ra Huế Lập Chính Phủ

(tiếp theo)

Vua Bảo Ðại gọi tôi vào nói: Trong lúc rối loạn như thế này, các ông hãy lập ra lâm thời chính phủ để đợi xem tình thế biến đổi ra sao đã. Tôi bất đắc dĩ phải tạm ở lại. Lâm thời chính phủ vừa làm việc mấy ngày, ông Phan Kế Toại điện vào xin từ chức. Lúc ấy bọn ông Nguyễn Xuân Chữ, Trần Văn Lai xin lập Ủy Ban Cứu Quốc. Chính phủ nhận lời. Cách hai ngày sau, ngày 19 tháng tám, các công chức ở Hà Nội nghe bọn Việt Minh xúi tổ chức cuộc biểu tình. Ðảng Việt Minh nhân cơ hội ấy chiếm lấy Bắc Bộ.

Ðược mấy ngày ông Hồ Chí Minh về làm chủ tịch chính phủ lâm thời. Các đoàn thể thanh niên và các người trí thức ở bắc bộ điện vào Huế xin vua Bảo Ðại thoái vị và nhường cho Hồ Chí Minh.

Trong tình thế nguy ngập như thế, ở Huế còn có người bàn sự chống cự. Tôi muốn biết rõ sự thực, liền gọi trung úy Phan Tử Lăng người đứng coi đoàn thanh niên tiền tuyến ở Huế, hỏi xem có thể trông cậy bọn ấy được không. Trung úy Trương Tử Lăng nói: Tôi có thể nói riêng về phần tôi thì được. Còn về phần các thanh niên tôi không dám chắc.

Bọn thanh niên tiền tuyến trước rất nhiệt thành nay còn thế, huống chi những lính bảo an và lính hộ thành tất cả độ vài trăm người; những lính để canh giữ công sở, súng ống không ra gì, đạn dược không đủ, còn làm gì được, cũng bị Việt Minh tuyên truyền xiêu lòng hết cả rồi. Lúc ấy chỉ còn cách lui đi là phải hơn cả.

Tôi vào tâu vua Bảo Ðại: Xin ngài đừng nghe người ta bàn ra bàn vào. Việc đã nguy cấp lắm rồi, ngài nên xem lịch sử của vua Louis XVI bên Pháp và vua Nicholas II bên Nga mà thoái vị ngay là phải hơn cả. Vì dân ta đã bị bọn Việt Minh tuyên truyền và đang hăng hái về việc cách mệnh như nước đang lên mạnh, mình ngăn lại thì vỡ lở hết cả. Mình thế lực đã không có, bọn Việt Minh lại có dân chúng ủng hộ, nên để cho họ nhận lấy trách nhiệm bảo vệ nền độc lập của nước.

Vua Bảo Ðại là ông vua thông minh, hiểu ngay và nói: Trẫm có thiết gì ngôi vua đâu, miễn là bọn Việt Minh giữ được nền tự chủ của nước nhà là đủ. Trẫm muốn là người dân của một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ.

Nhờ ngài có tư tưởng quảng đại nên có tờ chiếu thoái vị. Khi tờ chiếu ấy tuyên bố ra, nhân dân có
nhiều người ngậm ngùi cảm động, nhưng lúc ấy phần tình thế nguy ngập, phần sợ hãi, còn ai dám nói năng gì nữa. Ðến bọn thanh niên tiền tuyến, người chính phủ tin cậy cũng bỏ theo Việt Minh, bọn lính hộ thành của nhà vua cũng không nghĩ đến nữa. Còn các quan cũ lẫn nấp đâu mất cả. Thật là tình cảnh rất tiều tụy. Nếu không mau tay lui đi, tính mệnh nhà vua và hoàng gia chưa biết ra thế nào.

Lúc bấy giờ người Nhật có đến bảo tôi: Quân đội Nhật còn trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân
Ðồng Minh đến thay. Nếu chính phủ Việt Nam công nhiên có lời mời quân Nhật giúp, quân Nhật còn
có thể giữ trật tự. Tôi nghĩ quân Nhật đã đầu hàng, quân Ðồng Minh sắp đến, mình nhờ quân Nhật
đánh người mình còn nghĩa lý gì nữa, và lại mang tiếng cõng rắn cắn gà nhà. Tôi từ chối không nhận.

Sau thấy những người ở ngoài không biết rõ tình thế nói: lúc ấy giá chính phủ không lui vội, tìm cách chống cự lại, Việt Minh không làm gì được, vì họ không có binh lực gì cả. Về đường binh lực, lúc ấy Việt Minh không không có gì thật. Nhưng cái phương lược của họ đánh bằng tuyên truyền, bằng lối quỉ quyệt lừa dối để lôi kéo dân chúng đi theo, chứ không đánh bằng binh khí. Sự tuyên truyền của họ đã có ngấm ngầm từ lâu trước khi quân Nhật đảo chính chứ không phải bây giờ mới có. Mình đem một vài trăm người trông cậy được ra chống với mấy vạn người toàn thanh niên thuyền thợ và đàn bà trẻ con, lại có những người Việt Minh táo tợn đứng sau lưng xui khiến, chống sao được? Chẳng qua chỉ gây một cuộc đổ máu vô ích, cốt chỉ bảo cho Việt Minh chớ có cướp phá. Mình đã mở cửa mời họ còn đánh phá gì nữa. Lúc bấy giờ chúng tôi nghĩ: họ đã thắng thế, dù sao họ cũng lo đến sự kiến thiết của nước nhà, nên chúng tôi mong ít có sự phá hại.

Việt Minh đã lên cầm quyền, vua Bảo Ðại đã thoái vị, tôi ra ở nhà đã thuê từ trước tại làng Vĩ Dạ gần Huế. Ðược mấy ngày, Việt Minh vào đưa vua Bảo Ðại, bấy giờ gọi là công dân Vĩnh Thụy, ra làm Tối Cao Cố Vấn ở Hà Nội để dễ quản thúc.

Sau thấy có người, hoặc vì tuyên truyền, hoặc vì không biết rõ sự thực nói: Chính phủ Trần Trọng Kim là một chính phủ bù nhìn, ý nói là chúng tôi ra làm việc để bọn Nhật sai khiến. Tôi dám cả tiếng bác lời nói đó.

Ngay từ lúc đầu, khi mới lập xong nội các, tôi đi với ông Hoàng Xuân Hãn sang phòng làm việc của
viên tối cao cố vấn Nhật, gặp ông Yokohama để đòi lại dinh khâm sai, dinh khâm sứ cũ của Pháp, để làm dinh nội các tổng trưởng. Ông Yokohama lúc đầu còn do dự và thấy những công chức Nhật muốn cản trở. Tôi quả quyết nói: Nếu các ông không trả chúng tôi dinh ấy và các phòng làm việc của viên khâm sứ thì chúng tôi thôi ngay. Vì không phải chúng tôi muốn ở dinh lớn, nhưng đó là biểu hiệu quyền tự chủ của nước Việt Nam theo lời hứa hẹn của người Nhật sau cuộc đảo chính ngày mùng 9 tháng ba. Những dinh thự ấy bây giờ là của Việt Nam. Ông Yokohama thấy tôi nói thế, liền nhận lời trả ngay, và xin để riêng mấy phòng trên lầu của phủ khâm sứ cũ cho nhân viên sở tối cao cố vấn làm việc, vì ở ngoài phố không có nhà khác.

Từ đó về sau, khi có việc gì, tôi gọi điện thoại mời viên cố vấn sang bên dinh nội các tổng trưởng nói chuyện chứ tôi không sang bên ấy. Việc ấy ở Huế ai cũng biết.

Lúc đầu người Nhật có ý muốn đòi khi chính phủ Việt Nam có việc làm gì quan hệ, phải hỏi trước viên tối cao cố vấn, có thuận mới được làm. Tôi bác đi, viện lẽ việc nội trị là việc chúng tôi, lẽ nào lại phải xin phép rồi mới được làm. Người Nhật đã đứng vào địa vị cố vấn, khi nào có việc hệ trọng, chúng tôi sẽ thông báo cho biết là đủ. Lúc ấy cũng được ông Yokohama là người thạo việc ngoại giao và am hiểu tình thế, nên mọi việc đều được êm ái và ổn thỏa.

Các tỉnh có những người quen thói cũ, hễ có việc gì, chạy đi cầu cứu người Nhật. Tôi còn nhớ, có một người con người bạn cũ của tôi, làm y sĩ trong cuộc y tế của một tỉnh khác, chạy đi nhờ một viên sĩ quan Nhật can thiệp để xin ở lại. Tôi thấy thế, liền bảo ông bộ trưởng y tế bắt người y sĩ ấy phải đi ngay, để tỏ cho biết chính phủ Việt Nam không phải dưới quyền sai khiến của người Nhật.

Như thế chúng tôi có phải là một chính phủ bù nhìn, cứ luồn cúi dưới quyền đàn áp của người Nhật
không? Chính vua Bảo Ðại đã hiểu rõ sự ấy, nên khi ngài ở Hương Cảng có nói chuyện với một phóng viên của một tờ báo bên Pháp: Người Nhật thấy chúng tôi cương ngạnh quá, tỏ ý tiếc đã để chúng tôi làm việc.

Còn những công việc chúng tôi đã làm trong mấy tháng tôi đã kể rõ ở trên. Ðối với dân chúng tôi đã tìm cách nâng cao dân trí lên. Người nào làm bậy có chứng cớ rõ ràng thì theo luật pháp mà trừng trị rất nghiêm. Chúng tôi lấy lại toàn lãnh thổ của tổ quốc và làm mọi việc không có điều gì nhục đến quốc thể. Ðó là chỗ chúng tôi tự hào, trong khi làm việc, không để cho ai lấy uy quyền đè nén, và đối với lương tâm không có gì đáng hổ thẹn.

Tôi ra ở làng Lại Thế. Lúc đầu ông Trịnh Ðình Thảo, nguyên bộ trưởng bộ tư pháp, đến ở với chúng
tôi hơn một tháng mới trở về Sài gòn. Chúng tôi ở đấy ngày ngày nghe tiếng trống mõ của dân làng, đàn bà trẻ con và dân đinh vác dao vác gậy đi biểu tình. Một hôm lại thấy đồn rầm lên rằng: Trong bốn nước Ðồng Minh Mỹ, Anh, Nga và Tàu, mỗi nước được hai phiếu, mà Mỹ và Nga đã bỏ bốn phiếu, Tàu bỏ một phiếu tức là được năm phiếu cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập. Vậy các dân làng phải sửa soạn ăn mừng độc lập. Rồi sau lại thấy mở cuộc quyên vàng khắp cả nước. Ai có vòng xuyến hoa tai hoặc đồ gì bằng vàng phải đem nạp chính phủ để tổ chức việc nước. Hết cuộc quyên vàng đến cuộc quyên đồng, đủ mọi thứ. trong hoàng thành, Việt Minh cho người vào lấy những bảo vật và y phục của các vua chúa đời trước đem ra chợ bán. Khi quân Nhật sắp hàng có đưa trả lại chính phủ Việt Nam bốn tấn bạc bằng thoi chở vào để trong cung, số bạc ấy không biết về sau ai lấy mất.

Bấy giờ tôi không có tiền, may nhờ chính phủ Việt Minh ở Huế trả tôi 1.600 đồng, tiền lương quá nửa tháng cuối cùng của tôi, tôi mới có tiền chi tiêu. Trong khi đó tôi cho con ra Hà Nội thu xếp rồi vào đem chúng tôi ra. Nhưng ra Hà Nội con tôi lo tiền chưa được, thành ra chúng tôi phải ở lại Huế hơn ba tháng. Ðất khách quê người hiu quạnh buồn bã, chỉ một mình vui với trăng, gió mát, với trời mưa nước lụt, ngồi nghe chim hót, ngắm cò bay, khi hứng thì đem Ðường thi ra dịch, nhờ thế khuây khỏa được qua ngày.

Chờ mãi không thấy con vào, may nhờ có một người đến chơi, biết rõ tình thế của tôi, tự nhiên giúp tôi món tiền, chúng tôi mới thuê mấy chỗ trên xe hơi chở hàng đi Hà Nội.

Ấy thế là xong một giấc mộng Nam Kha, bận rộn hơn bốn tháng trời, nghĩ lại thấy nực cười. Khi ở
Băng Cốc về, tôi vẫn định bụng không làm gì cả, mà thành ra phải làm việc này đến dự định làm việc nọ, rút cục tay không lại hoàn tay không.

(còn tiếp)

Về Đầu Trang Go down
Trăng



Tổng số bài gửi : 1841
Registration date : 23/04/2014

Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim  - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim    Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim  - Page 2 I_icon13Thu 27 Sep 2018, 19:40

Trà Mi đã viết:


Chương 4
Ra Huế Lập Chính Phủ

(tiếp theo)


Vua Bảo Ðại gọi tôi vào nói: Trong lúc rối loạn như thế này, các ông hãy lập ra lâm thời chính phủ để đợi xem tình thế biến đổi ra sao đã. Tôi bất đắc dĩ phải tạm ở lại. Lâm thời chính phủ vừa làm việc mấy ngày, ông Phan Kế Toại điện vào xin từ chức. Lúc ấy bọn ông Nguyễn Xuân Chữ, Trần Văn Lai xin lập Ủy Ban Cứu Quốc. Chính phủ nhận lời. Cách hai ngày sau, ngày 19 tháng tám, các công chức ở Hà Nội nghe bọn Việt Minh xúi tổ chức cuộc biểu tình. Ðảng Việt Minh nhân cơ hội ấy chiếm lấy Bắc Bộ.

Ðược mấy ngày ông Hồ Chí Minh về làm chủ tịch chính phủ lâm thời. Các đoàn thể thanh niên và các người trí thức ở bắc bộ điện vào Huế xin vua Bảo Ðại thoái vị và nhường cho Hồ Chí Minh.

Trong tình thế nguy ngập như thế, ở Huế còn có người bàn sự chống cự. Tôi muốn biết rõ sự thực, liền gọi trung úy Phan Tử Lăng người đứng coi đoàn thanh niên tiền tuyến ở Huế, hỏi xem có thể trông cậy bọn ấy được không. Trung úy Trương Tử Lăng nói: Tôi có thể nói riêng về phần tôi thì được. Còn về phần các thanh niên tôi không dám chắc.

Bọn thanh niên tiền tuyến trước rất nhiệt thành nay còn thế, huống chi những lính bảo an và lính hộ thành tất cả độ vài trăm người; những lính để canh giữ công sở, súng ống không ra gì, đạn dược không đủ, còn làm gì được, cũng bị Việt Minh tuyên truyền xiêu lòng hết cả rồi. Lúc ấy chỉ còn cách lui đi là phải hơn cả.

Tôi vào tâu vua Bảo Ðại: Xin ngài đừng nghe người ta bàn ra bàn vào. Việc đã nguy cấp lắm rồi, ngài nên xem lịch sử của vua Louis XVI bên Pháp và vua Nicholas II bên Nga mà thoái vị ngay là phải hơn cả. Vì dân ta đã bị bọn Việt Minh tuyên truyền và đang hăng hái về việc cách mệnh như nước đang lên mạnh, mình ngăn lại thì vỡ lở hết cả. Mình thế lực đã không có, bọn Việt Minh lại có dân chúng ủng hộ, nên để cho họ nhận lấy trách nhiệm bảo vệ nền độc lập của nước.

Vua Bảo Ðại là ông vua thông minh, hiểu ngay và nói: Trẫm có thiết gì ngôi vua đâu, miễn là bọn Việt Minh giữ được nền tự chủ của nước nhà là đủ. Trẫm muốn là người dân của một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ.

Nhờ ngài có tư tưởng quảng đại nên có tờ chiếu thoái vị. Khi tờ chiếu ấy tuyên bố ra, nhân dân có
nhiều người ngậm ngùi cảm động, nhưng lúc ấy phần tình thế nguy ngập, phần sợ hãi, còn ai dám nói năng gì nữa. Ðến bọn thanh niên tiền tuyến, người chính phủ tin cậy cũng bỏ theo Việt Minh, bọn lính hộ thành của nhà vua cũng không nghĩ đến nữa. Còn các quan cũ lẫn nấp đâu mất cả. Thật là tình cảnh rất tiều tụy. Nếu không mau tay lui đi, tính mệnh nhà vua và hoàng gia chưa biết ra thế nào.

Lúc bấy giờ người Nhật có đến bảo tôi: Quân đội Nhật còn trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân
Ðồng Minh đến thay. Nếu chính phủ Việt Nam công nhiên có lời mời quân Nhật giúp, quân Nhật còn
có thể giữ trật tự. Tôi nghĩ quân Nhật đã đầu hàng, quân Ðồng Minh sắp đến, mình nhờ quân Nhật
đánh người mình còn nghĩa lý gì nữa, và lại mang tiếng cõng rắn cắn gà nhà. Tôi từ chối không nhận.

Sau thấy những người ở ngoài không biết rõ tình thế nói: lúc ấy giá chính phủ không lui vội, tìm cách chống cự lại, Việt Minh không làm gì được, vì họ không có binh lực gì cả. Về đường binh lực, lúc ấy Việt Minh không không có gì thật. Nhưng cái phương lược của họ đánh bằng tuyên truyền, bằng lối quỉ quyệt lừa dối để lôi kéo dân chúng đi theo, chứ không đánh bằng binh khí. Sự tuyên truyền của họ đã có ngấm ngầm từ lâu trước khi quân Nhật đảo chính chứ không phải bây giờ mới có. Mình đem một vài trăm người trông cậy được ra chống với mấy vạn người toàn thanh niên thuyền thợ và đàn bà trẻ con, lại có những người Việt Minh táo tợn đứng sau lưng xui khiến, chống sao được? Chẳng qua chỉ gây một cuộc đổ máu vô ích, cốt chỉ bảo cho Việt Minh chớ có cướp phá. Mình đã mở cửa mời họ còn đánh phá gì nữa. Lúc bấy giờ chúng tôi nghĩ: họ đã thắng thế, dù sao họ cũng lo đến sự kiến thiết của nước nhà, nên chúng tôi mong ít có sự phá hại.

Việt Minh đã lên cầm quyền, vua Bảo Ðại đã thoái vị, tôi ra ở nhà đã thuê từ trước tại làng Vĩ Dạ gần Huế. Ðược mấy ngày, Việt Minh vào đưa vua Bảo Ðại, bấy giờ gọi là công dân Vĩnh Thụy, ra làm Tối Cao Cố Vấn ở Hà Nội để dễ quản thúc.

Sau thấy có người, hoặc vì tuyên truyền, hoặc vì không biết rõ sự thực nói: Chính phủ Trần Trọng Kim là một chính phủ bù nhìn, ý nói là chúng tôi ra làm việc để bọn Nhật sai khiến. Tôi dám cả tiếng bác lời nói đó.

Ngay từ lúc đầu, khi mới lập xong nội các, tôi đi với ông Hoàng Xuân Hãn sang phòng làm việc của
viên tối cao cố vấn Nhật, gặp ông Yokohama để đòi lại dinh khâm sai, dinh khâm sứ cũ của Pháp, để làm dinh nội các tổng trưởng. Ông Yokohama lúc đầu còn do dự và thấy những công chức Nhật muốn cản trở. Tôi quả quyết nói: Nếu các ông không trả chúng tôi dinh ấy và các phòng làm việc của viên khâm sứ thì chúng tôi thôi ngay. Vì không phải chúng tôi muốn ở dinh lớn, nhưng đó là biểu hiệu quyền tự chủ của nước Việt Nam theo lời hứa hẹn của người Nhật sau cuộc đảo chính ngày mùng 9 tháng ba. Những dinh thự ấy bây giờ là của Việt Nam. Ông Yokohama thấy tôi nói thế, liền nhận lời trả ngay, và xin để riêng mấy phòng trên lầu của phủ khâm sứ cũ cho nhân viên sở tối cao cố vấn làm việc, vì ở ngoài phố không có nhà khác.

Từ đó về sau, khi có việc gì, tôi gọi điện thoại mời viên cố vấn sang bên dinh nội các tổng trưởng nói chuyện chứ tôi không sang bên ấy. Việc ấy ở Huế ai cũng biết.

Lúc đầu người Nhật có ý muốn đòi khi chính phủ Việt Nam có việc làm gì quan hệ, phải hỏi trước viên tối cao cố vấn, có thuận mới được làm. Tôi bác đi, viện lẽ việc nội trị là việc chúng tôi, lẽ nào lại phải xin phép rồi mới được làm. Người Nhật đã đứng vào địa vị cố vấn, khi nào có việc hệ trọng, chúng tôi sẽ thông báo cho biết là đủ. Lúc ấy cũng được ông Yokohama là người thạo việc ngoại giao và am hiểu tình thế, nên mọi việc đều được êm ái và ổn thỏa.

Các tỉnh có những người quen thói cũ, hễ có việc gì, chạy đi cầu cứu người Nhật. Tôi còn nhớ, có một người con người bạn cũ của tôi, làm y sĩ trong cuộc y tế của một tỉnh khác, chạy đi nhờ một viên sĩ quan Nhật can thiệp để xin ở lại. Tôi thấy thế, liền bảo ông bộ trưởng y tế bắt người y sĩ ấy phải đi ngay, để tỏ cho biết chính phủ Việt Nam không phải dưới quyền sai khiến của người Nhật.

Như thế chúng tôi có phải là một chính phủ bù nhìn, cứ luồn cúi dưới quyền đàn áp của người Nhật
không? Chính vua Bảo Ðại đã hiểu rõ sự ấy, nên khi ngài ở Hương Cảng có nói chuyện với một phóng viên của một tờ báo bên Pháp: Người Nhật thấy chúng tôi cương ngạnh quá, tỏ ý tiếc đã để chúng tôi làm việc.

Còn những công việc chúng tôi đã làm trong mấy tháng tôi đã kể rõ ở trên. Ðối với dân chúng tôi đã tìm cách nâng cao dân trí lên. Người nào làm bậy có chứng cớ rõ ràng thì theo luật pháp mà trừng trị rất nghiêm. Chúng tôi lấy lại toàn lãnh thổ của tổ quốc và làm mọi việc không có điều gì nhục đến quốc thể. Ðó là chỗ chúng tôi tự hào, trong khi làm việc, không để cho ai lấy uy quyền đè nén, và đối với lương tâm không có gì đáng hổ thẹn.

Tôi ra ở làng Lại Thế. Lúc đầu ông Trịnh Ðình Thảo, nguyên bộ trưởng bộ tư pháp, đến ở với chúng
tôi hơn một tháng mới trở về Sài gòn. Chúng tôi ở đấy ngày ngày nghe tiếng trống mõ của dân làng, đàn bà trẻ con và dân đinh vác dao vác gậy đi biểu tình. Một hôm lại thấy đồn rầm lên rằng: Trong bốn nước Ðồng Minh Mỹ, Anh, Nga và Tàu, mỗi nước được hai phiếu, mà Mỹ và Nga đã bỏ bốn phiếu, Tàu bỏ một phiếu tức là được năm phiếu cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập. Vậy các dân làng phải sửa soạn ăn mừng độc lập. Rồi sau lại thấy mở cuộc quyên vàng khắp cả nước. Ai có vòng xuyến hoa tai hoặc đồ gì bằng vàng phải đem nạp chính phủ để tổ chức việc nước. Hết cuộc quyên vàng đến cuộc quyên đồng, đủ mọi thứ. trong hoàng thành, Việt Minh cho người vào lấy những bảo vật và y phục của các vua chúa đời trước đem ra chợ bán. Khi quân Nhật sắp hàng có đưa trả lại chính phủ Việt Nam bốn tấn bạc bằng thoi chở vào để trong cung, số bạc ấy không biết về sau ai lấy mất.

Bấy giờ tôi không có tiền, may nhờ chính phủ Việt Minh ở Huế trả tôi 1.600 đồng, tiền lương quá nửa tháng cuối cùng của tôi, tôi mới có tiền chi tiêu. Trong khi đó tôi cho con ra Hà Nội thu xếp rồi vào đem chúng tôi ra. Nhưng ra Hà Nội con tôi lo tiền chưa được, thành ra chúng tôi phải ở lại Huế hơn ba tháng. Ðất khách quê người hiu quạnh buồn bã, chỉ một mình vui với trăng, gió mát, với trời mưa nước lụt, ngồi nghe chim hót, ngắm cò bay, khi hứng thì đem Ðường thi ra dịch, nhờ thế khuây khỏa được qua ngày.

Chờ mãi không thấy con vào, may nhờ có một người đến chơi, biết rõ tình thế của tôi, tự nhiên giúp tôi món tiền, chúng tôi mới thuê mấy chỗ trên xe hơi chở hàng đi Hà Nội.

Ấy thế là xong một giấc mộng Nam Kha, bận rộn hơn bốn tháng trời, nghĩ lại thấy nực cười. Khi ở
Băng Cốc về, tôi vẫn định bụng không làm gì cả, mà thành ra phải làm việc này đến dự định làm việc nọ, rút cục tay không lại hoàn tay không.

(còn tiếp)

Đọc tới phần này thấy buồn quá tỉ.
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7112
Registration date : 01/04/2011

Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim  - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim    Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim  - Page 2 I_icon13Thu 27 Sep 2018, 19:50

Trăng đã viết:
Trà Mi đã viết:


Chương 4
Ra Huế Lập Chính Phủ

(tiếp theo)


Vua Bảo Ðại gọi tôi vào nói: Trong lúc rối loạn như thế này, các ông hãy lập ra lâm thời chính phủ để đợi xem tình thế biến đổi ra sao đã. Tôi bất đắc dĩ phải tạm ở lại. Lâm thời chính phủ vừa làm việc mấy ngày, ông Phan Kế Toại điện vào xin từ chức. Lúc ấy bọn ông Nguyễn Xuân Chữ, Trần Văn Lai xin lập Ủy Ban Cứu Quốc. Chính phủ nhận lời. Cách hai ngày sau, ngày 19 tháng tám, các công chức ở Hà Nội nghe bọn Việt Minh xúi tổ chức cuộc biểu tình. Ðảng Việt Minh nhân cơ hội ấy chiếm lấy Bắc Bộ.

Ðược mấy ngày ông Hồ Chí Minh về làm chủ tịch chính phủ lâm thời. Các đoàn thể thanh niên và các người trí thức ở bắc bộ điện vào Huế xin vua Bảo Ðại thoái vị và nhường cho Hồ Chí Minh.

Trong tình thế nguy ngập như thế, ở Huế còn có người bàn sự chống cự. Tôi muốn biết rõ sự thực, liền gọi trung úy Phan Tử Lăng người đứng coi đoàn thanh niên tiền tuyến ở Huế, hỏi xem có thể trông cậy bọn ấy được không. Trung úy Trương Tử Lăng nói: Tôi có thể nói riêng về phần tôi thì được. Còn về phần các thanh niên tôi không dám chắc.

Bọn thanh niên tiền tuyến trước rất nhiệt thành nay còn thế, huống chi những lính bảo an và lính hộ thành tất cả độ vài trăm người; những lính để canh giữ công sở, súng ống không ra gì, đạn dược không đủ, còn làm gì được, cũng bị Việt Minh tuyên truyền xiêu lòng hết cả rồi. Lúc ấy chỉ còn cách lui đi là phải hơn cả.

Tôi vào tâu vua Bảo Ðại: Xin ngài đừng nghe người ta bàn ra bàn vào. Việc đã nguy cấp lắm rồi, ngài nên xem lịch sử của vua Louis XVI bên Pháp và vua Nicholas II bên Nga mà thoái vị ngay là phải hơn cả. Vì dân ta đã bị bọn Việt Minh tuyên truyền và đang hăng hái về việc cách mệnh như nước đang lên mạnh, mình ngăn lại thì vỡ lở hết cả. Mình thế lực đã không có, bọn Việt Minh lại có dân chúng ủng hộ, nên để cho họ nhận lấy trách nhiệm bảo vệ nền độc lập của nước.

Vua Bảo Ðại là ông vua thông minh, hiểu ngay và nói: Trẫm có thiết gì ngôi vua đâu, miễn là bọn Việt Minh giữ được nền tự chủ của nước nhà là đủ. Trẫm muốn là người dân của một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ.

Nhờ ngài có tư tưởng quảng đại nên có tờ chiếu thoái vị. Khi tờ chiếu ấy tuyên bố ra, nhân dân có
nhiều người ngậm ngùi cảm động, nhưng lúc ấy phần tình thế nguy ngập, phần sợ hãi, còn ai dám nói năng gì nữa. Ðến bọn thanh niên tiền tuyến, người chính phủ tin cậy cũng bỏ theo Việt Minh, bọn lính hộ thành của nhà vua cũng không nghĩ đến nữa. Còn các quan cũ lẫn nấp đâu mất cả. Thật là tình cảnh rất tiều tụy. Nếu không mau tay lui đi, tính mệnh nhà vua và hoàng gia chưa biết ra thế nào.

Lúc bấy giờ người Nhật có đến bảo tôi: Quân đội Nhật còn trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi quân
Ðồng Minh đến thay. Nếu chính phủ Việt Nam công nhiên có lời mời quân Nhật giúp, quân Nhật còn
có thể giữ trật tự. Tôi nghĩ quân Nhật đã đầu hàng, quân Ðồng Minh sắp đến, mình nhờ quân Nhật
đánh người mình còn nghĩa lý gì nữa, và lại mang tiếng cõng rắn cắn gà nhà. Tôi từ chối không nhận.

Sau thấy những người ở ngoài không biết rõ tình thế nói: lúc ấy giá chính phủ không lui vội, tìm cách chống cự lại, Việt Minh không làm gì được, vì họ không có binh lực gì cả. Về đường binh lực, lúc ấy Việt Minh không không có gì thật. Nhưng cái phương lược của họ đánh bằng tuyên truyền, bằng lối quỉ quyệt lừa dối để lôi kéo dân chúng đi theo, chứ không đánh bằng binh khí. Sự tuyên truyền của họ đã có ngấm ngầm từ lâu trước khi quân Nhật đảo chính chứ không phải bây giờ mới có. Mình đem một vài trăm người trông cậy được ra chống với mấy vạn người toàn thanh niên thuyền thợ và đàn bà trẻ con, lại có những người Việt Minh táo tợn đứng sau lưng xui khiến, chống sao được? Chẳng qua chỉ gây một cuộc đổ máu vô ích, cốt chỉ bảo cho Việt Minh chớ có cướp phá. Mình đã mở cửa mời họ còn đánh phá gì nữa. Lúc bấy giờ chúng tôi nghĩ: họ đã thắng thế, dù sao họ cũng lo đến sự kiến thiết của nước nhà, nên chúng tôi mong ít có sự phá hại.

Việt Minh đã lên cầm quyền, vua Bảo Ðại đã thoái vị, tôi ra ở nhà đã thuê từ trước tại làng Vĩ Dạ gần Huế. Ðược mấy ngày, Việt Minh vào đưa vua Bảo Ðại, bấy giờ gọi là công dân Vĩnh Thụy, ra làm Tối Cao Cố Vấn ở Hà Nội để dễ quản thúc.

Sau thấy có người, hoặc vì tuyên truyền, hoặc vì không biết rõ sự thực nói: Chính phủ Trần Trọng Kim là một chính phủ bù nhìn, ý nói là chúng tôi ra làm việc để bọn Nhật sai khiến. Tôi dám cả tiếng bác lời nói đó.

Ngay từ lúc đầu, khi mới lập xong nội các, tôi đi với ông Hoàng Xuân Hãn sang phòng làm việc của
viên tối cao cố vấn Nhật, gặp ông Yokohama để đòi lại dinh khâm sai, dinh khâm sứ cũ của Pháp, để làm dinh nội các tổng trưởng. Ông Yokohama lúc đầu còn do dự và thấy những công chức Nhật muốn cản trở. Tôi quả quyết nói: Nếu các ông không trả chúng tôi dinh ấy và các phòng làm việc của viên khâm sứ thì chúng tôi thôi ngay. Vì không phải chúng tôi muốn ở dinh lớn, nhưng đó là biểu hiệu quyền tự chủ của nước Việt Nam theo lời hứa hẹn của người Nhật sau cuộc đảo chính ngày mùng 9 tháng ba. Những dinh thự ấy bây giờ là của Việt Nam. Ông Yokohama thấy tôi nói thế, liền nhận lời trả ngay, và xin để riêng mấy phòng trên lầu của phủ khâm sứ cũ cho nhân viên sở tối cao cố vấn làm việc, vì ở ngoài phố không có nhà khác.

Từ đó về sau, khi có việc gì, tôi gọi điện thoại mời viên cố vấn sang bên dinh nội các tổng trưởng nói chuyện chứ tôi không sang bên ấy. Việc ấy ở Huế ai cũng biết.

Lúc đầu người Nhật có ý muốn đòi khi chính phủ Việt Nam có việc làm gì quan hệ, phải hỏi trước viên tối cao cố vấn, có thuận mới được làm. Tôi bác đi, viện lẽ việc nội trị là việc chúng tôi, lẽ nào lại phải xin phép rồi mới được làm. Người Nhật đã đứng vào địa vị cố vấn, khi nào có việc hệ trọng, chúng tôi sẽ thông báo cho biết là đủ. Lúc ấy cũng được ông Yokohama là người thạo việc ngoại giao và am hiểu tình thế, nên mọi việc đều được êm ái và ổn thỏa.

Các tỉnh có những người quen thói cũ, hễ có việc gì, chạy đi cầu cứu người Nhật. Tôi còn nhớ, có một người con người bạn cũ của tôi, làm y sĩ trong cuộc y tế của một tỉnh khác, chạy đi nhờ một viên sĩ quan Nhật can thiệp để xin ở lại. Tôi thấy thế, liền bảo ông bộ trưởng y tế bắt người y sĩ ấy phải đi ngay, để tỏ cho biết chính phủ Việt Nam không phải dưới quyền sai khiến của người Nhật.

Như thế chúng tôi có phải là một chính phủ bù nhìn, cứ luồn cúi dưới quyền đàn áp của người Nhật
không? Chính vua Bảo Ðại đã hiểu rõ sự ấy, nên khi ngài ở Hương Cảng có nói chuyện với một phóng viên của một tờ báo bên Pháp: Người Nhật thấy chúng tôi cương ngạnh quá, tỏ ý tiếc đã để chúng tôi làm việc.

Còn những công việc chúng tôi đã làm trong mấy tháng tôi đã kể rõ ở trên. Ðối với dân chúng tôi đã tìm cách nâng cao dân trí lên. Người nào làm bậy có chứng cớ rõ ràng thì theo luật pháp mà trừng trị rất nghiêm. Chúng tôi lấy lại toàn lãnh thổ của tổ quốc và làm mọi việc không có điều gì nhục đến quốc thể. Ðó là chỗ chúng tôi tự hào, trong khi làm việc, không để cho ai lấy uy quyền đè nén, và đối với lương tâm không có gì đáng hổ thẹn.

Tôi ra ở làng Lại Thế. Lúc đầu ông Trịnh Ðình Thảo, nguyên bộ trưởng bộ tư pháp, đến ở với chúng
tôi hơn một tháng mới trở về Sài gòn. Chúng tôi ở đấy ngày ngày nghe tiếng trống mõ của dân làng, đàn bà trẻ con và dân đinh vác dao vác gậy đi biểu tình. Một hôm lại thấy đồn rầm lên rằng: Trong bốn nước Ðồng Minh Mỹ, Anh, Nga và Tàu, mỗi nước được hai phiếu, mà Mỹ và Nga đã bỏ bốn phiếu, Tàu bỏ một phiếu tức là được năm phiếu cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập. Vậy các dân làng phải sửa soạn ăn mừng độc lập. Rồi sau lại thấy mở cuộc quyên vàng khắp cả nước. Ai có vòng xuyến hoa tai hoặc đồ gì bằng vàng phải đem nạp chính phủ để tổ chức việc nước. Hết cuộc quyên vàng đến cuộc quyên đồng, đủ mọi thứ. trong hoàng thành, Việt Minh cho người vào lấy những bảo vật và y phục của các vua chúa đời trước đem ra chợ bán. Khi quân Nhật sắp hàng có đưa trả lại chính phủ Việt Nam bốn tấn bạc bằng thoi chở vào để trong cung, số bạc ấy không biết về sau ai lấy mất.

Bấy giờ tôi không có tiền, may nhờ chính phủ Việt Minh ở Huế trả tôi 1.600 đồng, tiền lương quá nửa tháng cuối cùng của tôi, tôi mới có tiền chi tiêu. Trong khi đó tôi cho con ra Hà Nội thu xếp rồi vào đem chúng tôi ra. Nhưng ra Hà Nội con tôi lo tiền chưa được, thành ra chúng tôi phải ở lại Huế hơn ba tháng. Ðất khách quê người hiu quạnh buồn bã, chỉ một mình vui với trăng, gió mát, với trời mưa nước lụt, ngồi nghe chim hót, ngắm cò bay, khi hứng thì đem Ðường thi ra dịch, nhờ thế khuây khỏa được qua ngày.

Chờ mãi không thấy con vào, may nhờ có một người đến chơi, biết rõ tình thế của tôi, tự nhiên giúp tôi món tiền, chúng tôi mới thuê mấy chỗ trên xe hơi chở hàng đi Hà Nội.

Ấy thế là xong một giấc mộng Nam Kha, bận rộn hơn bốn tháng trời, nghĩ lại thấy nực cười. Khi ở
Băng Cốc về, tôi vẫn định bụng không làm gì cả, mà thành ra phải làm việc này đến dự định làm việc nọ, rút cục tay không lại hoàn tay không.

(còn tiếp)

Đọc tới phần này thấy buồn quá tỉ.

Ông TTK có tinh thần yêu nước, giàu nhiệt huyết mà không gặp thời   :potay:
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7112
Registration date : 01/04/2011

Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim  - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim    Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim  - Page 2 I_icon13Mon 22 Oct 2018, 20:27


Chương 5
Về Hà Nội

Cuối tháng một dương lịch, chiều bảy giờ lên xe hơi chạy ra nghỉ ở Ðông Hà. Sáng hôm sau ra đến Nghệ, vào nghỉ nhà người cháu, trưa hôm sau xe mới ra Thanh Hóa, rồi hôm sau nữa mới đến Hà Nội. Dọc đường nhờ trời được bình an. Khi xe đến bến đò sông Gianh, sông rộng, gió to, sóng lớn, tôi thấy gần đó có chiếc tàu con kéo phà chở xe hơi sang sông, tôi hỏi: Tàu có chạy không?. Người ta nói: Tàu hết dầu xăng. Tôi hỏi: Có đò nào có mui cho thuê một chiếc để đưa chúng tôi sang trước. Người ta nói chỉ có chiếc đò không mui thôi. Chúng tôi đang lo nghĩ không biết tính sao, thì thấy người tài xế chạy đi nói thì thầm gì với mấy người chở phà, rồi một lát thấy chiếc đò có mui đến mời chúng tôi xuống.

Khi chiếc đò chở chúng tôi ra ngoài, thấy chiếc tàu đốt máy kéo phà đi. Sang bên kia hỏi người lái đò lấy bao nhiêu, người ấy nói: Cụ cho bao nhiêu cũng được. Sau tôi mới biết người tài xế biết chúng tôi, đi nói với mấy người chở đò nên họ mới đi lấy đò và cho tàu chạy. Ðây là một việc tỏ ra nhân dân Trung bộ đối với tôi vẫn có chút cảm tình, không ai ta oán gì trong khi chúng tôi vẫn làm việc. Chỉ có khi đến Thanh Hóa bị lính Tàu và Lính Việt Minh khám xe đâm thủng nát cái bồ đựng sách của tôi.

Tôi về đến Hà Nội, mừng quá, định bụng mình già yếu rồi, không có gì làm nữa và cũng chẳng đi đâu cả, chỉ vui với mấy quyển sách cổ và mấy người bạn cũ, trò chuyện tiêu khiển. Tưởng thế là yên, ngờ đâu tình thế phải phiêu lưu lần nữa.

(còn tiếp)

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7112
Registration date : 01/04/2011

Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim  - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim    Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim  - Page 2 I_icon13Mon 22 Oct 2018, 20:53


Chương 6
Chính Phủ Việt Nam và Tình Thế Trong Nước


Lúc bấy giờ tình thế trong nước bối rối lắm, quân Anh và quân Pháp lên chiếm giữ nam bộ và các thành thị phía Nam Trung Bộ từ vĩ tuyến 16, tức là Quảng Nam trở vào. Còn từ vĩ tuyến 16 trở ra quân Tàu đóng giữ các thành thị. Việt Minh lên cầm quyền trước hết lập ủy ban giải phóng, rồi cho người lên Bắc Giang đón ông Hồ Chí Minh về lập lâm thời chính phủ gồm có những người này:

Hồ Chí Minh, chủ tịch kiêm bộ ngoại giao
Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng bộ nội vụ, kiêm chức phó bộ trưởng bộ quốc phòng
Chu Văn Tấn, bộ trưởng bộ quốc phòng
Trần Huy Liệu, bộ trưởng bộ thông tin tuyên truyền
Dương Ðức Hiền, bộ trưởng bộ thanh niên quốc dân
Nguyễn Mạnh Hà, bộ trưởng bộ quốc dân kinh tế
Vũ Ðình Hòa, bộ trưởng bộ giáo dục
Vũ Ngọc Khánh, bộ trưởng bộ tư pháp
Phạm Ngọc Thạch, bộ trưởng bộ y tế
Ðào Trọng Kim, bộ trưởng bộ giao thông
Lê Văn Hiến, bộ trưởng bộ lao động
Phạm Văn Ðồng, bộ trưởng bộ tài chánh
Nguyễn Văn Tố, bộ trưởng bộ cứu tế xã hội
Cù Huy Cận, ủy viên không giữ bộ nào
Nguyễn Văn Xuân, ủy viên không giữ bộ nào

Võ Nguyên Giáp người Quảng Bình, rất lanh lợi và táo tợn, một tay trọng yếu trong đảng Việt Nam Cộng Sản. Trước đã sang ở bên Côn Minh, thường viết báo ký tên là Lâm Bá Kiệt, bấy giờ giữ chức bộ trưởng bộ nội vụ và kiêm chức phó bộ trưởng bộ quốc phòng. Nói là kiêm chức phó bộ trưởng bộ quốc phòng, nhưng kỳ thực là kiêm cả bộ quốc phòng, vì Chu Văn Tấn là người Thổ ở mạn thượng du, trước đã làm châu đoàn coi lính dõng, sau theo cộng sản, nên đảng Việt Minh đưa vào giữ địa vị ở bộ quốc phòng để khuyến khích những người Thổ đã theo mình.

Việt Minh đem một số người ở ngoài đảng của họ vào trong chính phủ như Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Văn Tố, Ðào Trọng Kim v...v... để tỏ ra là một chính phủ liên hiệp có cả các hạng người. Song những cơ quan trọng yếu như quốc phòng, nội vụ, tài chính, tuyên truyền đều ở tay những người chính thức Việt Minh, tức là cộng sản như Võ Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu, Lê Văn Hiến, Phạm Văn Ðồng v..v...

Ngày 11 tháng một năm 1945 chính phủ lâm thời lại xuống lệnh giải tán đảng cộng sản Ðông Dương, đó là một việc lý thú, cộng sản giải tán cộng sản. Sở dĩ chủ ý họ làm như vậy là vì lúc đó có các ủy viên của các nước Ðồng Minh đi lại trong nước, Việt Minh muốn tỏ cho những người ngoại quốc biết Việt Minh không phải là cộng sản.

Chính phủ lâm thời tổ chức cuộc tổng tuyển cử để triệu tập quốc hội. Cuộc tuyển cử được ấn định vào ngày 23 tháng chạp, sau hoãn đến ngày mồng 6 tháng giêng năm 1946. Khi ấy tôi đã về ở Hà Nội rồi, thấy cuộc tuyển cử rất kỳ cục. Mỗi chỗ để bỏ phiếu, có một người của Việt Minh trông coi, họ gọi hết cả đàn ông đàn bà đến bỏ phiếu, ai không biết chữ thì họ viết thay cho. Việt Minh đưa ra những bản kê tên những người họ đã định trước, rồi đọc những tên ấy lên và hỏi anh hay chị bầu cho ai? Người nào vô ý nói bầu cho một người nào khác thì họ quát lên: Sao không bầu cho những người này? Có phải phản đối không? Người kia sợ mất vía nói: Anh bảo tôi bầu cho ai, tôi xin bầu người ấy. Cách cưỡng bách ra mặt như thế, lẽ dĩ nhiên những người Việt Minh đưa ra được đến tám chín mươi phần trăm số người đi bầu. Ðó là một phương pháp rất mới và rất rõ để cho mọi người được dùng quyền tự do của mình lựa chọn lấy người xứng đáng ra thay mình làm việc nước.

Trước Việt Minh đã định lấy có 300 ghế đại biểu, sau họ muốn làm cho êm dư luận nên lấy thêm 70 ghế nữa, cho Việt Nam Quốc Dân Ðảng được 50 ghế và Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội được 20 ghế để hai đảng ấy tự cử người mình ra.

Mấy ngày trước kỳ họp quốc hội, Việt Minh và Quốc Dân Ðảng công kích nhau kịch liệt. Những tướng Tàu như Lư Hán và Tiêu Văn muốn làm tiền, tỏ ra có ý bênh vực Việt Nam Quốc Dân Ðảng, sau hình như bọn tướng Tàu ấy được số vàng lớn mới đứng ra dàn xếp, họp các lãnh tụ hai đảng ở nhà Lư Hán, có Hồ Chí Minh, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh v...v... đến bàn định cách chia các ghế bộ trưởng trong chính phủ mới.

Sau tôi sang Tàu gặp Nguyễn Dân Thanh là một người cách mệnh Việt Nam đã làm sĩ quan trong quân đội Tàu và đã đi lính Nhật ở mặt trận Diến Ðiện. Lúc ấy có theo quân Tàu về nước, biết rõ đầu đuôi việc ấy, kể lại cho tôi nghe thái độ mấy lãnh tụ Việt Minh và Quốc Dân Ðảng hôm họp ở nhà Lư Hán để dàn xếp hai bên đoàn kết với nhau.

Ðộ ấy ở Hà Nội, tôi cũng biết có một hôm ông Bảo Ðại cho đi tìm người trước làm việc ở Huế, đến nói rằng: Ông Hồ Chí Minh nhường cho ông ra lập chính phủ. Sau chuyện ấy thấy im bẳng không ai nói đến nữa.

Khi ở Hương Cảng tôi có hỏi lại việc ấy. Ông Bảo Ðại nói: Việc ấy có thật. Một hôm cụ Hồ có vẻ mặt lo nghĩ đến bảo tôi rằng cụ muốn để tôi đứng ra lập chính phủ, tôi từ chối. Hôm sau cụ Hồ lại đến năn nỉ về việc ấy. Tôi nói: nếu cụ muốn lập chính phủ, thì cụ kê cho tôi biết danh sách những người trong đảng cụ có những ai ra giúp việc. Cụ Hồ nói để ngày mai cụ sẽ đưa. Nhưng đến ngày hôm sau cụ Hồ có vẻ mặt vui vẻ, đến nói rằng: việc ấy hãy hoãn lại, để cụ ở lại làm việc ít lâu nữa. Cho nên việc ấy mới im.

Theo ý tôi hiểu, thì mưu mô do bọn tướng Tàu muốn làm tiền, một mặt làm ra bộ có ý ép ông Hồ Chí Minh phải lui đi để ông Bảo Ðại ra lập chính phủ, một mặt xui bọn Quốc Dân Ðảng không chịu nhượng bộ, để Việt Minh muốn im chuyện thì phải bỏ tiền ra. Ðến khi bọn tướng Tàu được tiền đút lót mới đứng ra dàn xếp cho xuôi chuyện. Ðó là một việc rất bí ẩn, khó lòng biết đích xác được, chẳng qua chỉ là sự xét đoán theo tình trạng hiện ra bên ngoài mà thôi. Vả tôi thấy những người biết qua việc ấy đều đồng ý kiến như thế cả.

Khi việc dàn xếp của các tướng Tàu xong rồi, đến ngày mùng 2 tháng ba thì mở cuộc họp quốc hội. Quốc hội này có cái đặc sắc hơn cả quốc hội của các nước trên thế giới là chỉ họp có một ngày xét qua bản lập hiến của Việt Minh đã định, và thừa nhận một chính phủ liên hiệp do ông Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Quốc hội lại giao toàn quyền cho một ủy ban thường trực có 15 người do chính phủ đề cử, và để ông Nguyễn Văn Tố làm trưởng ban. Ðoạn quốc hội giải tán. Nếu quốc hội các nước mà biết làm việc lanh lẹ như thế thì đỡ được bao nhiêu thì giờ và tiền chi phí!

(còn tiếp)

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7112
Registration date : 01/04/2011

Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim  - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim    Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim  - Page 2 I_icon13Tue 23 Oct 2018, 22:37


Chương 6
Chính Phủ Việt Nam và Tình Thế Trong Nước



Chính phủ liên hiệp quốc gia thành lập như sau:

Hồ Chí Minh, cộng sản, làm chủ tịch
Nguyễn Hải Thần, Việt Nam Cách mệnh Ðồng minh hội, phó chủ tịch
Huỳnh Thúc Kháng, không đảng phái, bộ trưởng bộ nội vụ
Nguyễn Tường Tam, Ðại Việt dân chính, bộ trưởng bộ ngoại giao
Phan Anh, không đảng phái, bộ trưởng bộ quốc phòng
Vũ Ðình Hòe, Xã hội dân chủ đảng, bộ trưởng bộ tư pháp
Ðặng Thai Mai, cộng sản, bộ trưởng bộ giáo dục
Lê Văn Hiến, cộng sản, bộ trưởng bộ tài chính
Trần Ðăng Khoa, Dân chủ đảng, bộ trưởng bộ công chánh
Chu Bá Phượng, Dân chủ đảng, bộ trưởng bộ kinh tế
Trương Ðình Chi, Việt Nam Cách mệnh Ðồng minh hội, bộ trưởng bộ xã hội y tế
Bồ Xuân Luật, Việt Nam Cách mệnh Ðồng minh hội, bộ trưởng bộ canh nông

Xét thành phần chính phủ liên hiệp lúc ấy, kể cả những người không đảng phái, có thể gọi là năm đảng nhưng chỉ có đảng Việt Minh cộng sản là có chương trình chính trị rõ ràng và có thế lực hơn cả. Còn các đảng khác thì chỉ có tên nêu ra mà thôi, chứ không có chương trình phân minh. Xã hội đảng và Dân chủ đảng là những đảng phụ thuộc của Việt Minh và không có thế lực gì. Việt Nam Quốc Dân Ðảng và Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội tuy có thế lực là nhờ có quân đội Tàu bênh vực, nhưng không có tính cách thống nhất và không có kỷ luật chặt chẽ. Bởi vậy đảng Cộng sản chỉ có ba người trong chính phủ nhưng quyền bính vẫn ở cả Cộng sản.

Về phương diện cai trị Việt Minh vẫn để ba khu như trước, là bắc bộ, trung bộ và nam bộ. Mỗi bộ có một nhân dân ủy ban dưới quyền một chủ tịch do chính phủ trung ương cử ra.

Ở các tỉnh, huyện, xã hay phố ở các thành thị, mỗi nơi đều có một nhân dân ủy ban và một chủ tịch do nhân dân ủy ban chọn lấy.

Về phương diện quân sự thì quân của Việt Minh có Giải phóng quân là quân đã được huấn luyện chính trị cộng sản, Vệ quốc quân và Tự vệ quân tức là công dân do các ủy ban xã, phố cắt để canh gác và giữ trật tự.

Quân của Quốc dân đảng thì có từng khu riêng. Tuy bề ngoài nói các quân đội thuộc về bộ quốc phòng, nhưng thực ra bộ ấy không có quyền hành gì cả. Việc gì cũng quyết định ở quân sự ủy viên hội có Võ Nguyên Giáp, cộng sản, làm chủ tịch và Vũ Hồng Khanh, Việt Nam quốc dân đảng, làm phó chủ tịch.

Lúc ấy khẩu hiệu của chính phủ là thống nhất quân đội mà ba tháng sau khi chính phủ liên hiệp đã thành lập, quân đội vẫn không thống nhất được. Bộ quốc phòng không biết rõ thực trạng quân đội của hai bên có bao nhiêu. Quân Việt Minh và quân Quốc dân đảng tuy nói là đoàn kết, nhưng không có lòng thành thật. Quân Việt Minh chỉ có rình cơ hội là đánh quân Quốc dân đảng, hay bao vây để tiêu diệt lực lượng của đối phương, thành ra hai bên cứ kình địch nhau mãi. Người không biết phương sách của đảng cộng sản thì lấy thế làm lạ, nhưng ai đã hiểu bí quyết của họ là phải đi đến chỗ độc tài, chỉ có những người phục tùng theo mệnh lệnh của mình, chứ không thể có những người đứng ngang với mình mà hợp tác với mình được.

Ở các địa phương và những nơi đô thị như Hà Nội, Hải Phòng, người bên nọ bắt người bên kia. Có người giữa ban ngày đang đi giữa đường bị mấy người ở đâu đến lấy mền trùm đầu rồi bắt đi mất tích.

Sở công an, Việt Minh bắt những người Việt Nam quốc dân đảng hay những người bị tình nghi vào tra tấn cực hình, có khi họ dùng những cách tàn nhẫn ghê gớm hơn thời Pháp và Nhật cai trị. Ai trông thấy những cảnh tượng ấy cũng bùi ngùi tủi giận vì gà một nhà mà lại đá nhau dữ bằng mấy gà lạ. Người một nước với nhau mà đối xử vô nhân đạo như thế, thật là thê thảm.

Theo chính sách của Việt Minh, lập ra một chính phủ, đem những người các đảng phái hay không đảng phái vào làm bộ trưởng là cốt làm cái bình phong che mắt người ngoài, chứ không có thực quyền làm được việc gì cả.

Khi tôi còn ở Hà Nội, cụ Huỳnh Thúc Kháng ra nhận chức bộ trưởng bộ nội vụ, có đến thăm tôi. Ngồi nói chuyện, tôi hỏi:

- Cụ nay đứng đầu một bộ rất quan trọng trong chính phủ, chắc là bận việc lắm.

Cụ Huỳnh nói:

- Bây giờ việc gì cũng do địa phương tự trị cả, thành ra không có việc gì mấy, và khi có việc gì, thì họ làm sẵn xong cả rồi, tôi chỉ có vài chữ ký mà thôi.

- Những khi có hội đồng chính phủ thì bàn định những gì?

- Cũng chưa thấy có việc gì, thường thì họ đem những việc họ đã làm rồi nói cho chúng tôi biết.

Xem như thế thì các ông bộ trưởng chỉ đứng để làm vị mà thôi, chứ không có quyền quyết định gì cả.

Có người hỏi ông Nguyễn Tường Tam rằng:

- Khi ông nhận chức bộ trưởng bộ ngoại giao của cụ Hồ giữ trước, ông thấy có việc gì quan trọng lắm không?

Ông trả lời:

- Tất cả giấy má trong bộ ngoại giao của cụ Hồ giao lại cho tôi, tôi chỉ thấy có ba lá đơn của mấy người sĩ quan Tàu nhờ tìm cho mấy cái nhà, và tìm cái ví đựng tiền bị kẻ cắp lấy mất.

Câu chuyện có thể là ông Tam nói khôi hài, nhưng đủ rõ việc các ông bộ trưởng không có gì. Tôi đem những câu chuyện đó nói ra đây để chứng thực là các bộ trưởng chỉ giữ hư vị chứ không có thực quyền. Cái thực quyên trong chính phủ lúc ấy là ở mấy người như ông Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và ở tổng bộ cộng sản điều khiển hết cả.

Tổng bộ cộng sản theo người ta nói, có những người sau đây:

Hà Bá Cang, nhất danh là Quận Thọt, người Hưng Yên
Nguyễn Lương Bằng, nhất danh là Sao Ðỏ, người Hải Dương
Bùi Lâm, người Trung Bộ
Ðặng Xuân Khu, người làng Hành Thiện, Nam Ðịnh
Bùi Công Trừng, người Quảng Bình, Trung Bộ
Pô, người Trung Hoa
Tiêu Sung, người Nhật

Những người ấy ở đâu không ai biết, hội họp chỗ nào chẳng ai hay, rất bí mật, song phàm việc gì trong chính phủ cũng phải qua tổng bộ. Tổng bộ có ưng thuận mới được thi hành. Ðó mới thực là chính phủ, một chính phủ bí mật mà có quyền thế vô hạn.

(còn tiếp)

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7112
Registration date : 01/04/2011

Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim  - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim    Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim  - Page 2 I_icon13Wed 24 Oct 2018, 14:13

Chương 7
Tôn Chỉ và Sự Hành Động của Cộng Sản Đảng


Cộng sản đảng, theo cách tổ chức và hành động của họ, là một thứ tôn giáo mới, giống như các tôn giáo cũ cốt lấy sự mê tín mà tin, chứ không hoài nghi hay đi trệch ra ngoài. Song các tôn giáo cũ nói có cõi trời, có thiên đường là nơi cực lạc. Cộng sản giáo ngày nay thì hoàn toàn duy vật, nghĩa là ngoài vật chất ra, không có sự tin tưởng nào khác nữa, cho thiên đường không phải ở cõi trời mà chính ở cõi trần gian này. Ai tin theo đạo ấy là phải tin lý thuyết của Các Mác và Lê Nin là tuyệt đối chân chính, đem áp dụng là được sung sướng đủ mọi đường, tức thực hiện được cảnh thiên đường ở cõi đời. Còn về đường tín ngưỡng, thì đạo Cộng sản là đạo hoàn toàn duy vật, tất không ai thờ phụng thần thánh nào khác nữa, nhất thiết phải nghĩ sùng bái những người như Các Mác, Lê Nin, Sử Ta Lin để thay những bậc thần thánh cũ đã bị truất bỏ.

Ðã tin mê cái đạo ấy và đã coi lý thuyết ấy là chân lý tuyệt đối, thì ngoài cái lý thuyết ấy ra, là tà giáo, là tả đạo. Ai không tin theo và phản đối những người đứng đầu đảng, tức là những bậc giáo chủ, thì là người phản đạo, tất phải trừng trị rất nghiêm. Vì vậy mới có sự tàn sát những người trong đảng cộng sản theo Trotsky, chủ Cộng sản Ðệ Tứ Quốc tế, là một chi cộng sản phản đối Sử Ta Lin, chủ Cộng sản Ðệ Tam Quốc tế.

Vậy những tín đồ cộng sản phải là những người cuồng tín và chỉ biết có đời sống vật chất mà thôi, ngoài ra không có gì nữa. Sống có một đời rồi hết, nên ai nấy chỉ lo làm cho mình được mọi điều thắng lợi, sá chi những điều phúc họa thiện ác.

Về đường thực tế, các đặc sắc của cộng sản là không nhận có luân thường đạo lý, không biết có nhân nghĩa đạo đức như người ta vẫn tin tưởng. Người cộng sản cho cái điều đó là hủ tục của xã hội phong kiến thời xưa, đặt ra để lừa dối dân chúng, nên họ tìm cách xóa bỏ hết. Ai tin chỗ ấy là người sáng suốt, là người giác ngộ, ai không tin là người mờ tối, là người mê muội. Vì có tư tưởng như thế, cho nên cha con, anh em, bè bạn không có tình nghĩa gì cả, chỉ biết tôn trọng chủ nghĩa của cộng sản và phục tòng những người cầm quyền của đảng, ngoại giả, giết hại lẫn nhau, lừa đảo nhau: hễ ai làm những việc mà lợi cho đảng là người giỏi, người tốt. Gia đình, xã hội, phong tục, chế độ cũ đều bỏ hết, bỏ đến tận cội rễ, để thành lập xã hội mới. Cái xã hội mới ấy không tranh đấu cho quốc gia hay cho dân tộc. Dù có nói tranh đấu cho quốc gia hay cho dân tộc nữa, cũng chỉ là cái phương pháp dùng tạm thời trong một cơ hội nào để cho được việc mà thôi, chứ mục đích cốt yếu là tranh đấu cho giai cấp vô sản. Khi ở đâu sự tranh đấu cho giai cấp ấy được thắng lợi, thì cứ tranh đấu mãi để bảo vệ quyền lợi của giai cấp ấy và xóa bỏ hết những cương giới nước nọ với nước kia để thực hiện một thế giới đại đồng, đặt dưới quyền chỉ huy của giáo chủ cộng sản ở bên Nga. Vì vậy cho nên bất kỳ nước nào đã theo cộng sản là phải phục tùng mệnh lệnh bên Nga, còn nước nào tuy theo chế độ cộng sản, nhưng còn muốn giữ tư tưởng quốc gia như nước Nam Phu Lạp Tư (Yougoslavie) bên Ðông Âu là bị trục xuất ra ngoài hội nghị của các nước cộng sản.

Cái phương thuật của đảng cộng sản bên Nga không khéo chỗ ở ấy, tuy nói là bài trừ đế quốc chủ nghĩa và tiêu diệt những chế đô độc tài áp chế đời xưa, nhưng lại áp dụng chế độ độc tài áp chế hà khốc và tàn ác hơn thời xưa, và gây ra một thứ đế quốc chủ nghĩa theo một danh hiệu khác, để tự mình thống trị hết thiên hạ. Thành ra các nước đã theo cộng sản đều phải là những nước phụ thuộc nước Nga, cũng như bên Tàu ngày xưa các nước chư hầu phải phục tùng mệnh lệnh thiên tử. Thì ra trong thế gian này chẳng có gì là mới lạ. So chế độ cộng sản ở nước Nga ngày nay có khác gì chế độ nhà Tần thời chiến quốc bên Tàu? Có khác là ở những phương tiện theo khoa học và những mánh khóe hiện thời mà thôi, còn thì cũng tàn bạo gian trá như thế, và cũng dùng những quyền mưu quỉ quyệt để thống trị hết cả các nước.

Ðảng cộng sản đã có cái tổ chức rất đúng khoa học, đảng viên lại giữ kỷ luật rất nghiêm, rất chịu khó làm việc và có tín lực rất mạnh. Ai theo đảng là đắm đuối vào chủ nghĩa của đảng, có lâm nguy nan gì thì cho là một vinh hạnh được tuẫn tử vì đảng. Về sự hành động thì đảng cộng sản chuyên dùng những thủ đoạn quỉ quyệt, nên tuy có thắng lợi mà những người trí thức ít người theo. Cũng vì vậy mà họ bài trừ trí thức và chỉ ưa dùng đàn bà, trẻ con và những người lao động là hạng người dễ khuyến dụ, dễ lừa dối.

(còn tiếp)

Về Đầu Trang Go down
Sponsored content




Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim  - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim    Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim  - Page 2 I_icon13

Về Đầu Trang Go down
 
Hồi ký 'Một Cơn Gió Bụi' của Trần Trọng Kim
Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 2 trong tổng số 4 trangChuyển đến trang : Previous  1, 2, 3, 4  Next

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
daovien.net :: VƯỜN VĂN :: Truyện Sưu tầm :: Hồi ký, tuỳ bút-