Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesVietUniĐăng kýĐăng Nhập
Bài viết mới
Những Bài Giảng Hay Thầy Thích Pháp Hoà by mytutru Yesterday at 20:28

Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 20:15

Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Yesterday at 16:18

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN by Trà Mi Yesterday at 10:41

TRUYỆN KIỀU CÓ TRƯỚC ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH, VÀ LÀ CỦA VIỆT NAM ??? by Trà Mi Yesterday at 10:27

Lục bát by Tinh Hoa Yesterday at 07:21

PHÁP VIỆN MINH ĐĂNG QUANG TĂNG NI & Đại Chúng by mytutru Yesterday at 00:55

SƯ TOẠI KHANH (những bài giảng nên nghe) by mytutru Sat 16 Mar 2024, 20:15

Xem tướng mạo đàn ông ngoại tình, lăng nhăng by Trà Mi Sat 16 Mar 2024, 10:05

Putin dối trá khi trả lời Tucker Carlson by Trà Mi Fri 15 Mar 2024, 11:39

Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Fri 15 Mar 2024, 11:20

Chùm thơ "Có lẽ..." by Tú_Yên tv Fri 15 Mar 2024, 11:09

Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Fri 15 Mar 2024, 11:07

7 chữ by Tinh Hoa Fri 15 Mar 2024, 03:27

Một thoáng mây bay 12 by Ai Hoa Thu 14 Mar 2024, 09:55

BẮT CÁ TRỜI MƯA by Phương Nguyên Wed 13 Mar 2024, 20:48

5 chữ by Tinh Hoa Wed 13 Mar 2024, 07:56

Tiến Trình Tu Học Phật - Thành Phật by mytutru Mon 11 Mar 2024, 23:17

Tập Mỗi Ngày by mytutru Mon 11 Mar 2024, 22:48

Lan ĐV 8 by buixuanphuong09 Mon 11 Mar 2024, 11:06

SẦU LY BIỆT by Phương Nguyên Mon 11 Mar 2024, 08:02

LỀU THƠ NHẠC by Phương Nguyên Sun 10 Mar 2024, 08:39

MỪNG NGÀY 08.03 by Phương Nguyên Sun 10 Mar 2024, 08:21

Chỉn by Trà Mi Sat 09 Mar 2024, 12:30

Lỗi 404 by mytutru Fri 08 Mar 2024, 11:09

Thể Tánh Muôn Loài by mytutru Tue 05 Mar 2024, 23:44

5-8-8-8 by Tinh Hoa Tue 05 Mar 2024, 03:32

Còn mãi duyên thầy by buixuanphuong09 Mon 04 Mar 2024, 13:37

Con Đường Tâm Mytutru TKN Đào Liên by mytutru Sat 02 Mar 2024, 12:09

Hoa Sen Ao Sen by mytutru Sat 02 Mar 2024, 08:27

Tự điển
* Tự Điển Hồ Ngọc Đức



* Tự Điển Hán Việt
Hán Việt
Thư viện nhạc phổ
Tân nhạc ♫
Nghe Nhạc
Cải lương, Hài kịch
Truyện Audio
Âm Dương Lịch
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
Đăng Nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập: 
:: Quên mật khẩu

Share | 
 

 Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592)

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Chuyển đến trang : 1, 2  Next
Tác giảThông điệp
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592) Empty
Bài gửiTiêu đề: Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592)   Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592) I_icon13Mon 14 Aug 2017, 08:53


Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592)


Vĩnh Liêm –Văn Uyên

I. Tranh luận về việc đặt tên đường Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông ở Hà Nội – Triều đại Mạc Đăng Dung và Mạc Đăng Doanh

         Đầu tháng 6/2015 Sở VHTT&DLHà Nội đã đề xuất HĐNDTP Hà Nội đặt hai con phố mang tên Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông thuộc quận Cầu Giấy. Trong đó, tên phố Mạc Thái Tổ (tức vua Mạc Đăng Dung) được đặt cho đoạn đường từ ngã ba giao cắt đường Phạm Hùng đến ngã tư giao cắt phố Trung Kinh, có chiều dài 900m, rộng 60m. Còn đoạn đường đặt tên phố Mạc Thái Tông (tức vua Mạc Đăng Doanh) từ ngã ba giao cắt với đường Phạm Hùng (cạnh công ty cổ phần lắp máy xây dựng, đối diện cổng sau Trung Tâm Hội Nghị Quốc Gia) đến ngã tư giao cắt với phố Trung Kinh, nối tiếp phố Vũ Phạm Hàm, có chiều dài 840m, rộng 17m. (trích “Tranh luận xung quanh việc đặt tên phố Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông ở Hà Nội”-Thanh Hằng)

Như vậy so với các con đường ở Hà Nội và trên toàn quốc thì đây là hai con đường rộng và bề thế nhất nước.

Việc đặt tên đường Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông đã làm dấy lên cuộc tranh luận gay gắt giữa hai quan điểm ủng hộ và chống, nhưng xem ra quan điểm ủng hộ chiếm đa số với những nhà sử học tên tuổi như GS sử học Văn Tạo, nguyên viện trưởng Viện Sử học, giáo sư Phan Huy Lê, chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, PGS.TS Đinh Quang Hải, Viện trưởng Viện Sử học – Viện hàn lâm KHXH Việt Nam v.v…

Theo ý kiến của các nhà sử học này thì:

– Khi khủng hoảng cung đình diễn ra trầm trọng, triều đình đổ nát, dân tình cực khổ, Mạc Đăng Dung đã dẹp được các phe phái phân chia cát cứ, lên ngôi tạo dựng được cơ nghiệp. Với 65 năm tồn tại và phát triển, nhà Mạc đã có cống hiến nhất định trong lịch sử.

– Mạc Đăng Dung còn được đánh giá cao vì ông phế bỏ nhà Lê sơ để lên ngôi nhưng đãkhông thi hành một cuộc tàn sát nào với con cháu những người trung thành với nhà Lê như đã từng xảy ra khi nhà Trần lên thay nhà Lý, nhà Hồ lên thay nhà Trần…

Phe phản đối tiêu biểu là PGS.TS Trần Thị Băng Thanh đã đưa ra các dẫn chứng từ sử sách của ta và cả triều Minh (TQ) để chứng minh đối sách ngoại giao sai lầm của nhà Mạc khi dâng đất, xin hàng, xin nội thuộc nhà Minh nên không thể coi là có công với đất nước…Riêng nhà sử học Lê Văn Lan từ chối cho biết ý kiến. (theo Thanh Hằng, bài đã dẫn).

Gần đây trên diễn đàn mạng có bài viết của Tôn Nữ Tịnh Tâm với tiêu đề Viết Tiếp “CẤM PHÓNG UẾ VÀO LỊCH SỬ” (trao đổi về bài tạp văn “Cấm phóng uế vào lịch sử” của Hoàng Thiếu Phủ -Hồn Việt số 90 trang 2&3- 2015) trong đó tác giả phản ứng gay gắt lập luận của Hoàng Thiếu Phủ khi HTP kể tội Mạc Đăng Dung (tội cướp ngôi, tội đầu hàng, tội cắt đất) và ngược lại tác giả đã kể nhiều công lao to lớn của Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc:

– Chấm dứt tình trạng loạn lạc nghiêm trọng của Đại Việt, mở ra một thời kỳ thái bình thịnh trị.

– Quan tâm đến giáo dục

– Kinh tế phát triển, đặc biệt nông nghiệp

– Lòng người hướng về nhà Mạc vẫn chưa hết khi vận trời đã về nhà Lê trung hưng
Tôn Nữ Tịnh Tâm đã trích dẫn từ các nguồn sử sách như Đại Việt sử ký toàn thư của các sử thần nhà Lê, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn, Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim để chứng minh lập luận của mình, nhưng tiếc thay những lập luận này thiếu vũng chắc , trích dẫn không đầy đủ hoặc tác giả không hiểu hết ý của các sử gia.

Trong mong muốn làm sáng tỏ những nghi vấn lịch sử, đồng thời đánh giá đúng vai trò của Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc đối với lịch sử Việt Nam, dựa vào các nguồn sử liệu đáng tin cậy, chúng ta hãy ngược dòng lịch sử tìm hiểu sự xuất hiện và vị trí của Mạc Đăng Dung cùng triều đại nhà Mạc trên chính trường Đại Việt vào những năm của thế kỷ XVI.

Nhà Hậu Lê từ Lê Thái Tổ (1428-1433) đến Lê Hiến Tông (1497-1504) rất thịnh trị, đặc biệt triều đại vua Lê Thánh Tông (1460-1497), đất nước ta phát triển về mọi mặt, dân cư no ấm, chính trị ổn định, lân bang nể phục.

Đến năm 1505 vua Lê Túc Tông (con của Hiến Tông) lên nối ngôi chỉ được 6 tháng thì mất, triều đình tôn người anh thứ hai của Túc Tông là Tuấn lên làm vua, tức vua Uy Mục (1505-1509).Kể từ khi Uy Mục lên ngôi, nhà Lê bước vào thời kỳ suy yếu. Uy Mục là vị vua hung ác, mới lên ngôi đã giết tổ mẫu là bà Thái hoàng Thái hậu, quan Lễ bộ Thượng thư là ông Đàm Văn Lễ và quan Đô ngự sử là ông Nguyễn Quang Bật vì khi vua Hiến Tông chết, những người này không chịu lập Uy Mục làm vua.

Chính vì cần người có sức khỏe để bảo vệ ngai vàng, nên thời Uy Mục, Mạc Đăng Dung, cháu 7 đời của danh thần Mạc Đĩnh Chi, nhà nghèo làm nghề đánh cá, có sức khỏe, dự thi nghề Giao chật (đánh vật) trúng Đô lực sĩ xuất thân, được sung vào Túc vệ, giữ việc cầm dù theo vua, rồi thăng bổ chức Đô chỉ huy sứ vệ Thiên vũ. Năm Hồng Thuận thứ 3 (1511) thời Tương Dực, được thăng làm Đô chỉ huy sứ Vũ Xuyên bá, (năm này Đăng Dung 29 tuổi). Thời Quang Thiệu (Chiêu Tông), triều đình sai trấn thủ Sơn Nam, gia phong chức phó Tướng Tả đô đốc. ( ĐVTS trang 34 và ĐVSKTT quyển XV trang 591 bản điện tử).

Như vậy Mạc Đĩnh Chi và Mạc Đăng Dung đều được nhà Trần và nhà Lê trọng dụng. Nhưng nếu Mạc Đĩnh Chi được nhà Trần trọng dụng vì học thức rộng và sự thanh liêm thì Mạc Đăng Dung được các vị vua cuối đời Lê tin dùng nhờ cơ bắp nhằm bảo vệ ngai vàng vì lúc này chính sự nhà Lê đã đổ nát (bên ngoài giặc giã nổi lên, trong triều thì quan lại chia phe đánh nhau).

Theo Đại Việt Thông sử (trang 35 bản điện tử) thì “Đăng Dung là người rất gian trá, nhưng bề ngoài làm ra vẻ thật thà ngay thẳng, để mua danh dự…”.. Việt Nam Sử Lược trang 274 ghi: “Mạc Đăng Dung bấy giờ quyền thế hống hách, ra vào cung cấm tiếm dụng nghi vệ thiên tử. Các quan ai có vì nhà vua mà can gián điều gì, thì Đăng Dung tìm cách giết đi. Các quan triều thần có nhiều người thấy quyền lớn về cả họ Mạc, cũng bỏ vua mà theo phò Mạc Đăng Dung.” Hể Đăng Dung dâng sớ xin giết ai thì các vua Lê đều nghe theo như trường hợp Cù Khắc Xương, Trần Công Vụ hay Lê Quảng Độ… bị giết thời Chiêu Tông (Toàn Thư trang 574-575 bản điện tử,Đại Việt Thông Sử trang 35 bản điện tử). Đây là điều kiện thuận lợi để Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê.

Năm Quang Thiệu thứ 3 (1518) thời Chiêu Tông, Mạc Đăng Dung thăng tước Vũ Xuyên Hầu, ra trấn thủ Hải Dương, thu thập dân quân, chỉnh đốn đội ngũ, binh số ngày thêm nhiều. Lúc này Thiết Sơn Bá Trần Chân nắm quyền binh trong Kinh Sư, Đăng Dung bèn cưới con gái Chân cho con trai mình là Đăng Doanh để làm vây cánh.(ĐVTS trang 36)

Vua Chiêu Tông nghe lời gièm pha giết Trần Chân khiến đồ đệ của Trần Chân cử binh đánh vào kinh đô, nhà vua chạy sang huyện Gia Lâm, triệu Hoằng Dụ cứu nhưng Dụ không đến, nhà vua đành sai người đi triệu Mạc Đăng Dung. “Ý ngài muốn cậy binh lực của Đăng Dung để khôi phục lại Kinh Sư. Nhưng Đăng Dung thấy triều đình rối loạn, bèn nẩy ra mưu đồ khác”(ĐVTS trang 36 bản điện tử). Trang 37 ĐVTS ghi “Sau khi Đăng Dung một mình giữ binh quyền, từng bình được nhiều giặc lớn, uy quyền ngày càng thịnh, mà đạo quân nhà vua thì yếu ớt, lòng người ai cũng hướng về Đăng Dung, nên y càng lưu tâm mưu việc phản nghịch.”

Thế mà Tôn Nữ Tịnh Tâm cũng trích dẫn từ “Đại Việt Thông Sử” của Lê Quý Đôn nhưng lại cắt bỏ phần không lợi cho lập luận của mình để dựng lên hình tượng một Mạc Đăng Dung xứng đáng với ngôi thiên tử vì được dân tin yêu. TNTT ghi “Sau khi Mạc Đăng Dung một mình giữ binh quyền, từng bình được nhiều giặc lớn, uy quyền ngày càng thịnh, lòng người ai cũng hướng về ” (TNTT ghi chú trang 15). TNTT đã cắt bỏ phần sau (“nên y càng lưu tâm mưu việc phản nghịch”)

(còn tiếp)
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592)   Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592) I_icon13Mon 14 Aug 2017, 08:59


Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592)


Vĩnh Liêm –Văn Uyên

(tiếp theo)

Chúng ta đều biết nhân dân chỉ muốn một cuộc sống thanh bình để làm ăn sinh sống nên việc hướng về Mạc Đăng Dung vì Dung đã dẹp được giặc giã là chuyện tất nhiên. Còn mưu đồ của Đăng Dung như thế nào, Dung có xứng đáng làm thiên tử hay không lại là vấn đề khác.

Kể từ đó Đăng Dung tự xem mình như thiên tử. “…Khi Đăng Dung đi đường bộ thì dùng lọng phượng bông vàng; khi đi đường thủy thì dùng thuyền rồng dây lụa. Tự do ra vào nơi cung cấm, không hề nể sợ. Lại giết hết những người tâm phúc của vua…” (ĐVTS trang 37). Điều này chứng tỏ Đăng Dung là kẻ hiếu sát, rắp tâm cướp ngôi nhà Lê. (Các sử gia Hà Nội cho rằng MĐD không giết những ai trung thành với vua Lê ).

Dĩ nhiên khi một triều đại quá thối nát thì việc thay thế một triều đại khác là vấn đề bức thiết, nhưng không thể là một triều đại mà thiên tử là kẻ hiếu sát với dân và hèn hạ với ngoại bang như Mạc Đăng Dung được.

Vua Chiêu Tông thấy tình thế bức bách bèn ngầm với Nguyễn Hiến và Phạm Thứ dời kinh đô ra ngoài hiệu triệu các tướng đến giúp. Ngày hôm sau Đăng Dung mới biết bèn sai quân ngăn chặn khắp nơi, lập Hoàng đệ Xuân lên ngôi tức vua Cung Hoàng.(1522-1527)

Vua Chiêu Tông chạy lên Sơn Tây, nhiều người hào kiệt về giúp ngày càng đông, nhưng vì vua nghe lời những kẻ hoạn quan không nghe lời các tướng, lòng người ly tán. Năm Giáp Thân (1524) Đăng Dung đánh Thanh Hóa, Trịnh Tuy thua trận chết, vua bị bắt đem về Đông Hà (huyện Thọ Xương), rồi bị giết. Vua Chiêu Tông làm vua được 11 năm, thọ 26 tuổi.

Tháng 6 Đinh Hợi (1527) Đăng Dung bắt các quan nhà Lê thảo bài chiếu truyền ngôi cho nhà Mạc, dùng năm này làm niên hiệu Minh Đức thứ nhất, bỏ Cung Hoàng xuống tước Cung vương, giam cùng Thái Hậu ở cung Tây nội, rồi giết chết . Đăng Dung sai đem xác hai người để phơi ngoài quán Bắc sứ, sau đưa về chôn ở lăng Hoa Dương, huyện Ngự Thiên theo nghi lễ của thiên tử và hoàng hậu. (TT trang 591quyển XV bản điện tử). Lúc này thần dân thất vọng, thiên hạ nôn nao (ĐVTS trang 40).

Các quan trong triều không phục, nhiều người đã phản kháng: nhổ vào mặt Đăng Dung, lấy nghiên đập vào mặt Đăng Dung, chưởi mắng… tất cả những người này đều bị Đăng Dung giết, có người nhảy xuống sông mà chết, có người thì quay đầu về Lam Sơn mà lạy rồi tự tử (VNSL trang 275).

TNTT trích tờ chiếu nhường ngôi của Cung Hoàng để biện minh cho sự cướp ngôi của Mạc Đăng Dung. Thực tế chiếu nhường ngôi được các quan nhà Lê thảo ra dưới sức ép của Đăng Dung dĩ nhiên phải ca tụng Đăng Dung nhằm hợp thức hóa việc cướp ngôi này là chính đáng.TNTT còn trích một cách có chủ ý câu ”…Bấy giờ, thần dân trong kinh đều theo Mạc Đăng Dung và đều đón Mạc Đăng Dung vào kinh ” nhưng bỏ phần đầu. Câu đầy đủ đoạn này là “Tháng 6, Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai vào Kinh, bắt vua (Cung Hoàng) nhường ngôi. Bấy giờ, thần dân trong kinh đều theo Mạc Đăng Dung và đều đón Đăng Dung vào kinh” (TT trang 590 bản điện tử). Việc “thần dân trong kinh đều theo Mạc Đăng Dung và đều đón Đăng Dung vào kinh” chẳng qua cũng là sự mong ước của thần dân cho một tương lai đất nước sáng sủa hơn , có ngờ đâu chỉ là sự lừa bịp.

Mùa đông tháng 12 Kỷ Sửu (1529), Mạc Đăng Dung cướp ngôi được 3 năm, tự thấy mình tuổi già (lúc này MĐD 47 tuổi) bèn truyền ngôi cho con trưởng là Đăng Doanh, tự xưng Thái thượng hoàng, ra ở điện Tường Quang, coi nghề đánh cá là thú ngao du tự lạc. (TT trang 593 bản điện tử). ĐVTS ghi .”Tuy đã nhường ngôi nhưng thực tế mọi việc trong nước đều do Đăng Dung định đoạt..” (Đăng Doanh ở ngôi được 10 năm 1530-1540)

Đăng Dung về Cổ Trai ở để trấn vững nơi căn bản, và làm ngoại viện cho Đăng Doanh (ĐVTS trang 41).

Đăng Dung sai người sang Yên Kinh báo cho nhà Minh rằng con cháu nhà Lê không còn ai, xin tạm coi việc nước, cai trị dân chúng. Vua Minh không tin, sai người sang thăm dò, Dung đem vàng bạc đút lót để sứ giả tâu với vua Minh rằng con cháu họ Lê đã hết, không ai nối ngôi được nên ủy thác cho họ Mạc. Vua Minh mắng không nghe, Đăng Dung sợ nhà Minh hỏi tội, bèn lập mưu cắt đất dâng hai châu Quy, Thuận, hai tượng người bằng vàng và bạc cùng châu báu, của lạ, vật lạ. Vua Minh thu nhận. Từ đấy Nam Bắc lại thông sứ đi lại.(TT trang 592 quyển XV bản điện tử).

Ở tội đút lót vàng bạc và cắt đất dâng cho nhà Minh của Mạc Đăng Dung, TNTT so sánh với việc Lê Lợi sau chiến thắng quân Minh cũng dâng biểu cầu phong, cũng nộp lễ cống, nộp tượng vàng thế thân v.v..để biện minh cho hành động hèn nhát của Mạc Đăng Dung trước ngoại bang mà không hiểu (hoặc cố tình không hiểu) rằng Bình Định vương Lê Lợi đứng trên cương vị vua của nước nhỏ thắng trận muốn có một chính sách hòa bình lâu dài với nước lớn cận kề để tránh cho dân tộc khỏi chịu cảnh đao binh triền miên. Đây là sự nhún nhường ngoại giao cần thiết cho bất cứ nhà lãnh đạo các nước nhỏ nào. Còn với Mạc Đăng Dung lại khác, đó là tội cướp ngôi giết vua trắng trợn không có sự đồng thuận của toàn dân ngoại trừ những kẻ a dua “theo đóm ăn tàn”, và tội khiếp nhược hèn nhát trước ngoại bang.

Năm Đinh Dậu (1537) vua nhà Minh (nhân cơ hội này) sai Cừu Loan làm Đô đốc, Mao Bá Ôn làm Tán lý quân vụ, đem quân đem quân sang đóng gần cửa Nam Quan rồi truyền hịch đi mọi nơi, thưởng quan tước và hai vạn bạc cho ai bắt được cha con Mạc Đăng Dung. Lại sai người mang thư sang cho Mạc Đăng Dung bảo phải đưa sổ ruộng đất nhân dân sang nộp và chịu tội, thì được tha cho khỏi chết. Đăng Dung sai bọn Nguyễn Văn Thái sang sứ nhà Minh xin hàng (VNSL trang 294).

Đến tháng 11 Canh Tý (1540) Đăng Dung vận áo trắng, tự quấn dây sợi vào cổ, dẫn cháu họ là Văn Minh cùng bầy tôi (9 người), mỗi người đều cầm thước, buộc dây ở cổ (biểu thị sự tự trói mình và chịu nhận hình phạt – ghi chú của Toàn Thư trang 599 quyển XVI bản điện tử) đến chực ở cửa Nam Quan, đi chân không đến phủ phục trước mạc phủ của quân Minh, quỳ gối, cúi đầu dâng biểu đầu hàng và bạ ghi chép thổ địa quân dân trong nước, tình nguyện nộp các động Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm và Liễu Cát trong châu Yên Quảng và châu Vĩnh Yên để lệ thuộc vào Khâm Châu; xin ban cho niên lịch và ấn tín. Sau khi tướng nhà Minh nhận hàng, bèn sai Văn Minh, Nguyễn Giản Thanh và Hứa Tam Tỉnh mang tờ hàng biểu đầu hàng tới Yên Kinh dâng vua Minh.( ĐVTS trang 42-43,TT trang 599 quyển XVI bản điện tử). Hành động đầu hàng nhục nhã này của Đăng Dung chưa thấy ở một vị vua nào của nước ta nhưng đáng tiếc TNTT lại dùng những luận điệu ngụy biện để gỡ tội cho Đăng Dung: “MĐD không “phản quốc” “nhục nhã” “hèn hạ” như ai đó đã kết tội (ám chỉ Hoàng Thiếu Phủ), mà ngược lại là một người đáng kính trọng vì đã dám hy sinh danh dự cá nhân cho đại cục của dân tộc, nhờ đó tránh được nguy cơ chiến tranh xâm lược từ nước láng giềng khổng lồ”.

Hành động “đi chân không, quỳ gối, cúi đầu dâng biểu đầu hàng” của Mạc Đăng Dung là hành động khiếp nhược, làm nhục quốc thể chứ không thể là hành động đáng kính trọng.

Bình Định Vương Lê Lợi sau khi đánh tan quân nhà Minh cũng chỉ sai sứ sang nhà Minh mang lễ vật hậu hỷ (có hai tượng người bằng vàng) để cầu hòa chứ ngài không đích thân đi; Quang Trung Nguyễn Huệ sau khi đánh tan 10 vạn quân Thanh xâm lược thì cử Phạm Công Trị đóng giả vua đem đồ cống phẩm và dâng biểu cầu phong vua Thanh. “Vua Càn Long tưởng là Quang Trung thật, vời đến chầu ở Nhiệt Hà, cho vào làm lễ ôm gối như tình cha con một nhà. Đến lúc về nước lại sai thợ vẽ một bức ảnh truyền thần để ban cho… “. (VNSL trang 403). Những vị vua như vậy mới xứng đáng được dân tộc tôn thờ, còn Mạc Đăng Dung thì ngược lại, đáng bị nguyền rủa (22 tháng 8 Tân Sửu (1541) Mạc Đăng Dung chết thọ 59 tuổi)

TNTT cho rằng thời nhà Mạc, đặc biệt thời Mạc Thái Tổ (MĐDung) và Mạc Thái Tông (MĐDoanh) là thời thái bình thịnh trị là không chính xác vì khi MĐD cướp ngôi nhà Lê thì cựu thần nhà Lê hoặc bị thanh trừng, hoặc tuẩn tiết hoặc trốn ra nước ngoài (Ai Lao) để mưu việc phục quốc, nhiều cuộc khởi nghĩa của con cháu nhà Lê và các cựu thần nhà Lê đã diễn ra khắp nơi:

Kỷ Sửu (1529) (Mạc Minh Đức năm thứ 3) bề tôi cũ của nhà Lê là hai anh em Trịnh Ngung, Trịnh Ngang chạy sang tố cáo với nhà Minh. Do họ Mạc đem nhiều lễ đút lót cho nhà Minh, việc không thành, hai anh em đều chết ở bên Minh (TT trang 593 bản điện tử).

Năm Canh Dần (1530) con công chúa An Thái là Lê Ý khởi binh chống lại ở Châu Gia xưng niên hiệu là Quang Thiệu, nhân dân đều hưởng ứng (ĐVTS trang 41 bản điện tử), Đăng Dung bị thua nhiều trận, nhưng do Lê Ý chủ quan bị đánh úp nên bị bắt đem về Đông Kinh và bị giết.

An Thanh hầu Nguyễn Kim (con của Nguyễn Hoằng Dụ) bề tôi cũ của nhà Lê dẫn con em chạy sang Ai Lao nương nhờ chúa Sạ Đẩu, Sạ Đẩu đem nhân dân và đất Sầm Châu cấp cho Kim. Từ đó Nguyễn Kim nuôi dưỡng sĩ tốt, chiêu nạp những kẻ chạy trốn, làm phản, ngầm tìm con cháu nhà Lê lập nên để mưu khôi phục.

Xuân Tân Mão (1531) An Thanh Hầu Nguyễn Kim dẫn quân từ Ai Lao về Thanh Hoá, Đăng Dung sai binh đánh, bị thua to.

Xuân Quý Tỵ (1533) (ở TT trang 595 ghi tháng 12 Nhâm Thìn) các cựu thần nhà Lê dựng Lê Duy Ninh (con của Chiêu Tông) lên ngôi ở Ai Lao tức Lê Trang Tông, cho người sang nhà Minh kể tội Đăng Dung, xin nhà Minh đánh dẹp. Sợ nhà Minh sang hỏi tội, Đăng Dung mật sai người hối lộ, xin cắt đất nộp nhà Minh và từ bỏ đế hiệu.(như phần trên đã ghi)

Năm Canh Tý (1540) Nguyễn Kim đem quân về đánh Nghệ An. Năm Nhâm Dần (1542) Trang Tông cất quân đánh Thanh Hóa và Nghệ An, qua năm sau (1543) thì thu phục được đất Tây Đô, quan tổng trấn nhà Mạc là Dương Chấp Nhất ra hàng.

Lúc này đất nước chia đôi, gọi là thời Nam Bắc Triều: từ Thanh Hoa trở vào thuộc nhà Lê, làm Nam Triều, từ Sơn Nam trở ra thuộc họ Mạc, làm Bắc triều. Hai bên đem quân đánh lẫn nhau kéo dài nửa thế kỷ.

Còn việc “cấm người các xứ trong, ngoài không được cầm giáo mác và dao nhọn, can qua cùng những binh khí khác hoành hành trên đường đi. Ai vi phạm thì cho pháp ty bắt giữ ” đưa đến kết quả: “…Từ đấy, người buôn bán và kẻ đi đường đều đi tay không, ban đêm không còn trộm cướp, trâu bò thả chăn không phải đem về, chỉ cần mỗi tháng xem lại một lần, có khi sinh đẻ cũng không biết được là gia súc nhà mình. Trong khoảng vài năm, người đi đường không nhặt của rơi, cổng ngoài không phải đóng, được mùa liên tiếp, trong cõi tạm yên” (TT trang 595 bản điện tử).

Đây không phải là biện pháp giáo dục mà là biện pháp nghiêm cấm, răn đe vì sợ bạo loạn. Vì vậy tuy “trong cõi tạm yên” nhưng chỉ trong khoảng vài năm và bao trùm bầu không khí bất an khi người đi đường không thể tự vệ nếu bị tấn công hoặc khi gia súc sinh đẻ cũng không biết có phải là gia súc nhà mình, không ai dám mang về. Người được lợi ở đây là ai thiết nghĩ chúng ta đều biết…

Nhà Mạc có quan tâm đến việc thi cử và chọn nhân tài, nhưng những người có nghĩa khí như Nguyễn Bỉnh Khiêm dù đỗ trạng nguyên có ra làm quan nhưng cũng sớm cáo quan về trí sĩ ở làng Trung An tỉnh Hải Dương.

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592)   Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592) I_icon13Tue 15 Aug 2017, 13:16


Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592)


Vĩnh Liêm –Văn Uyên

II. Sự suy tàn của Triều đại nhà Mạc

Triều đại Mạc Phúc Hải (1541-1546): niên hiệu Quảng Hòa

Mạc Đăng Doanh làm vua được 10 năm thì mất (1530-1540), truyền ngôi lại cho con là Mạc Phúc Hải. Đến tháng 8 năm Tân Sửu (1541) Đăng Dung chết ở Cổ Trai,thọ 59 tuổi.Kể từ thời Mạc Phúc Hải trở đi nhà Mạc ngày một suy yếu, nhà Lê bắt đầu trung hưng. Năm 1543 vua Trang Tông thân chinh đánh Phúc Hải , thu phục được Tây Đô, đất nước chia đôi gọi là thời Nam Bắc Triều.

Phúc Hải không chăm lo việc nước nên Bắc triều ngày càng suy yếu, trong khi Nam triều được Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm (rể của Nguyễn Kim) gíup đỡ và rất nhiều hào kiệt hưởng ứng ngày càng mạnh lên.

Năm Ất Tỵ (1545) Nguyễn Kim đem quân đánh Sơn Nam, đi đến huyện Yên Mộ bị Dương Chấp Nhất là hàng tướng nhà Mạc đánh thuốc độc chết, binh quyền giao lại cho Trịnh Kiểm. Nguyễn Uông, con trưởng của Nguyễn Kim bị Trịnh Kiểm giết, em là Nguyễn Hoàng sợ liên lụy, xin vào trấn ở Thuận Hóa.

Trịnh Kiểm rút về Thanh Hoa (Thanh Hóa), chiêu mộ những người hào kiệt, luyện tập quân sĩ, tích trữ lương thảo để lo việc đánh nhà Mạc. Nhiều danh sĩ của Bắc triều đã vào giúp nhà Lê như Phùng Khắc Khoan (Trạng Bùng), Lương Hữu Khánh…(VNSL trang 296).

Năm Bính Ngọ (1546) Mạc Phúc Hải mất (làm vua được 6 năm), truyền ngôi lại cho con trưởng là Mạc Phúc Nguyên .

Triều đại Mạc Phúc Nguyên (1546-1561): niên hiệu Vĩnh Định

Phúc Nguyên còn nhỏ tuổi, bao nhiêu công việc lớn đều do chú ruột là Khiêm Vương Kính Điển quyết định. Tình hình Bắc Triều không mấy sáng sủa:

Nội bộ chia rẽ:

– Khi Phúc Hải chết, tướng Phạm Tử Nghi bàn nên lập vua lớn tuổi là Hoằng Vương Chính Trung (con trai thứ của Mạc Đăng Dung) nhưng các tôn vương nhà Mạc và Kính Điển không theo. Do đó Tử Nghi khởi loạn, chiếm cứ Ngự Thiên ở Hoa Dương, tiếm xưng tôn hiệu, ngụy lập triều đình. Phúc Nguyên cử Kính Điển và Nguyễn Kính phát binh đánh Tử Nghi, có Phụng quốc công Lê Bá Ly giúp sức mới đẩy lùi được. Tử Nghi rút về chiếm cứ An Quảng. Mạc Chánh Trung chạy sang Khâm Châu vào Lưỡng Quảng tố cáo tội trạng Nguyễn Kính chuyên quyền và xin cứu trợ. Vua Minh ra lệnh thu xếp cho Chánh Trung vào xứ Thanh Viễn và hàng năm phát gạo cho.

– Phụng quốc công Lê Bá Ly là vị tướng giỏi của Bắc triều đã dẹp tan được giặc Phạm Tử Nghi, uy thế lẫy lừng, con trai là Phổ quận công Khắc Thận, con rể là Văn Phái hầu Nguyễn Quyện, binh hùng tướng lực đều nằm trong tay. Giữa Lê Bá Ly và cha con Phạm Quỳnh, Phạm Dao có mâu thuẩn (vợ Phạm Quỳnh là vú sữa nuôi Kính Điển nên hai cha con Phạm Quỳnh, Phạm Dao được ân sủng chức quyền- theo ĐVTS trang 57). Phạm Quỳnh và Phạm Dao gièm pha với Kính Điển rằng con trai của Lê Bá Ly có ý phản nghịch, Kính Điển không tin thì hai người này đem ý trên gièm pha với Phúc Nguyên. Phúc Nguyên cho quân vây đánh Bá Ly. Bá Ly dẫn quân chiếm cửa quan Châu Tắc, yêu cầu xử tội Phạm Quỳnh, Phạm Dao. Phúc Nguyên không nghe lại bức bách Bá Ly. Bá Ly không còn lựa chọn nào khác, tháng 2 Tân Hợi (1551) cùng con là Phổ quận công Lê Khắc Thận đem quân về hàng vua Lê kèm theo bức họa địa hình tiến dâng (ĐVTS trang 59 bản điện tử), nhiều người tài giỏi cũng ùa theo như Đô quận công Nguyễn Thiến và con là Nguyễn Quyện, Nguyễn Phủ … Từ đó hào kiệt các nơi kéo đến hưởng ứng rất đông. (theo TT q.XVI trang 602)

Nhiều điềm xấu xuất hiện:

– Xứ Hải Dương luôn bị nạn binh hỏa , rất nhiều người phải lưu vong. (ĐVTS trang 56)

– Mùa hạ 1547 tháp Báo Thiên không vì cớ gì tự nhiên đổ lở.

– Mùa hạ 1548 ở các phủ Nam Sách, Thượng hạ tầng,Lý Nhân, Khoái Châu, Trường An đương lúc ban ngày trời bỗng tối sầm, không gian liền nổi tiếng ầm ầm, mưa đá đổ xuống sầm sập, làm hư hại lúa ngoài đồng …người và súc vật bị thương rất nhiều…(ĐVTS trang 57).

Ở Nam Triều vua Trang Tông thăng hà, thái tử Huyên lên ngôi ở Thanh Hoa tức vua Trung Tông lấy niên hiệu Thuận Bình (1549). Vua Trung Tông chỉ ở ngôi được 8 năm thì mất, không có con, dòng dõi họ Lê cũng không còn ai, binh quyền đều ở trong tay Trịnh Kiểm. Tục truyền Trịnh Kiểm muốn xưng làm vua nhưng còn lưỡng lự nên cho người lẻn ra Hải Dương hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm tức trạng Trình xem như thế nào. Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm không nói gì cả, chỉ ngoảnh lại bảo đầy tớ rằng “Năm nay mất mùa thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo mạ”. Nói rồi lại sai đầy tớ ra bảo tiểu quét dọn chùa và đốt hương để ông ra chơi chùa, rồi bảo tiểu rằng “Giữ chùa thờ Phật thì được ăn oản”.

Sứ giả về kể lại, Trịnh Kiểm hiểu ý, cho người tìm con cháu nhà Lê và tìm được người cháu huyền tôn ông Lê Trừ (anh vua Thái Tổ) tên là Duy Bang, rước về lập lên làm vua tức vua Anh Tông. (VNSL trang297).

Lê Bá Ly sau khi đem con em họ hàng về Thanh Hoa quy thuận vua Lê, thăng đến chức “Khai phủ bình chương quân quốc trọng sự,chưởng triều đường chánh”, đến ngày 1 tháng 4 năm Đinh Tỵ (1557) qua đời, thọ 82 tuổi, được triều đình nhà Lê ban tờ chiếu tặng tước Nghĩa huân công, ban tên thụy là Trung Hựu.(ĐVTS trang 63)

Mùa thu tháng 7 năm Đinh Tỵ (1557) nhà Mạc sai Mạc Kính Điển (chú Mạc Phúc Nguyên) cầm quân đi đánh cướp ở Thanh Hoa, Phạm Quỳnh Phạm Dao đánh cướp ở Nghệ An nhưng thua nặng phải trở về.

Tháng 8 Thượng thư bộ Lại Thư quận công Nguyễn Thiến chết ở Thanh Hoa, con trai là Quyện và Miễn (TT ghi là Phủ) trốn về hàng Phúc Nguyên, được Phúc Nguyên phục chức và gả con gái tôn thất cho. (ĐVTS trang 63)

Tháng 9 Trịnh Kiểm đem 5 vạn quân thủy bộ ra miền giữa Sơn Nam đánh quân Mạc.

Năm Kỷ Mùi (1559) Trịnh Kiểm đem 6 vạn quân ra đánh mặt Bắc, lấy được những tỉnh Sơn Tây, Hưng Hóa, Thái Nguyên,Kinh Bắc, Lạng Sơn và các huyện ở mặt Hải Dương, tưởng sắp thành công, nhưng lại bị Mạc Kính Điển đem một đạo quân đi đường bộ vào đánh Thanh Hoa nguy cấp lắm, Trịnh Kiểm phải bỏ miền Bắc về giữ Tây Đô.

Hai bên cứ giữ nhau mãi: nhà Lê tuy đã trung hưng, nhưng giang sơn chưa thu lại được như cũ, nhà Mạc có làm vua thì cũng chỉ làm vua ở miền Bắc mà thôi. (VNSL trang 298)

(còn tiếp)
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592)   Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592) I_icon13Wed 16 Aug 2017, 08:57


Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592)


Vĩnh Liêm –Văn Uyên

II. Sự suy tàn của Triều đại nhà Mạc

Triều đại Mạc Mậu Hợp (1562-1592): niên hiệu Thuần Phúc

Năm Tân Dậu (1561) Mạc Phúc Nguyên mất, con là Mạc Mậu Hợp lên nối ngôi khi còn nhỏ (2 tuổi-Theo ĐVTS trang 68 bản điện tử), có thể xem đây là vị vua cuối đời Mạc.Lúc này chính trị nhà Mạc đã mục nát vì Mạc Mậu Hợp là vị vua trẻ tuổi, bất tài, ham mê tửu sắc và bạc đãi công thần.

Chiến tranh hai miền Nam Bắc vẫn tiếp diễn, khi thì Trịnh kiểm ra đánh Sơn Nam, khi thì Mạc Kính Điển vào đánh Thanh Hoa, không bên nào được hẳn.

Năm Canh Ngọ (1570) Trịnh Kiểm mất, giao binh quyền cho con là Trịnh Cối. Trịnh Cối bất tài, lại ham mê tửu sắc, tướng sĩ không mấy ai phục nên bị em là Trịnh Tùng đoạt quyền.

Khi hai anh em Trịnh Cối và Trịnh Tùng đánh nhau thì Mạc Kính Điển đem hơn 10 vạn quân vào đánh Thanh Hoa, Trịnh Cối liệu thế chống không nổi bèn đem quân đầu hàng họ Mạc, được giữ quan tước như cũ.

Quân Mạc thừa thế tiến lên đến sông Mã, tràn qua Hà Trung rồi vây đánh An Trường (thuộc huyện Thụy Nguyên) là chỗ vua Lê đóng.Vua Anh Tông về Đông Sơn, phong Trịnh Tùng làm tả thừa tướng, tiết chế chư quân để chống giữ với quân Mạc. Trịnh Tùng sai các tướng giữ mọi nơi, Mạc Kính Điển đánh mãi không được, lâu ngày hết lương thực đành phải rút về Bắc. Vua phong cho Trịnh Tùng làm Thái úy Trưởng quốc công (TT ghi là Trưởng quận công) và thăng thưởng cho các tướng sĩ. Lại sai ông Phùng Khắc Khoan đi chiêu tập các hoang dân ở Thanh Hoa về yên nghiệp làm ăn, chỉnh đốn việc chính trị. (VNSL trang 299)

Vua Anh Tông thấy Trịnh Tùng chuyên quyền rất lo. Lê Cập Đệ bàn với vua trừ họ Trịnh, nhưng Trịnh Tùng biết ý dùng mưu giết Lê Cập Đệ. Vua Anh Tông lo sợ, bèn cùng bốn hoàng tử chạy vào Nghệ An. Trịnh Tùng thấy vua xuất ngoại, cho người rước hoàng tử thứ năm là Duy Đàm ở làng Quảng Thi, huyện Thụy Nguyên về lập lên làm vua tức vua Thế Tông, rồi sai người đem binh đuổi theo vua Anh Tông, bắt được đưa về giết đi, nói rằng vua tự thắt cổ chết.

Trịnh Tùng thăng thưởng cho những người đồng đảng, rồi chia quân phòng giữ các nơi để chống nhau với quân Mạc. Từ năm Quý Dậu (1573) đến năm Quý Mùi (1583) Trịnh Tùng cứ giữ đất Thanh Hoa, Nghệ An, nhà Mạc nhiều lần đem quân đánh đều thất bại (VNSL trang 299-300).

Tháng 10 Canh Thìn (1580), Mạc Kính Điển mất (Kính Điển là ông chú của Mậu Hợp), đây là một tổn thất lớn cho Bắc triều vì Kính Điển là vị tướng có tài và đức độ, rất được quân sĩ kính trọng. Mậu Hợp đưa ông chú là Mạc Đôn Nhượng lên thay, đem quân vào đánh họ Lê, nhưng không được trận nào.

Dù nhà Mạc ngày càng suy yếu, Mạc Mậu Hợp vẫn tiếp tục con đường hoang dâm vô độ, bạc đãi công thần.

Đến năm Quý Mùi (1583) Trịnh Tùng thấy thế mình đã mạnh bèn cử binh mã ra đánh Sơn Nam lấy được thóc gạo đem về. Từ đó năm nào cũng ra đánh, bắt quân Mạc từ thế công chuyển sang thế thủ. Năm Tân Mão (1591) Trịnh Tùng quyết định cử đại binh (5 vạn quân) ra đánh Thăng Long.

Mạc Mậu Hợp cũng điều động hơn 10 vạn quân, sai Mạc Ngọc Liễn và Nguyễn Quyện lĩnh hai đạo đi làm tả hữu dực, Mậu Hợp dẫn trung quân đến đối trận với quân Trịnh Tùng. Quân Trịnh đánh rất hăng, quân Mạc chống không nổi, chết đến hàng vạn người, Mạc Mậu Hợp bỏ chạy. Quân Trịnh thừa thế đuổi tràn gần đến thành Thăng Long. Nhưng vì sắp đến tết Nguyên Đán Trịnh Tùng đình chiến cho quân sĩ nghỉ ngơi ăn tết.

Tháng giêng Nhâm Thìn (1592) Trịnh Tùng lập đàn tế trời đất, đặt ra ba điều cấm quân sĩ không được làm điều phi pháp với dân rồi mang đại binh ra Bắc tấn công Thăng Long lần thứ hai. Áp lực quân Trịnh quá mạnh, các mặt trận đều tan vỡ, quân Mạc chết như rạ, Mạc Mậu Hợp phải bỏ Thăng Long, vượt sông Hồng chạy đến Thổ Khôi (thuộc huyện Gia Lâm-Hà Nội), các tướng như Mạc Ngọc Liễn, Bùi Văn Khuê…bỏ thành mà chạy, tướng Nguyễn Quyện bị bắt sống (về sau phải chết trong ngục cùng con là Nguyễn Tín).”Trong kinh thành xác chất chồng lên nhau. Tướng tá chết chừng vài chục, sĩ tốt chết đến hơn nghìn người, khí giới bỏ ngổn ngang cao như quả núi, lâu đài cung điện nhà cửa sạch không.” (ĐVTS bản điện tử trang 88).

Tuy thắng trận nhưng Trịnh Tùng cho kéo quân về nghỉ ngơi, chờ thời cơ vì biết quân Mạc vẫn còn viện binh các nơi khác.

Về phía Mạc Mậu Hợp, tuy thua trận nhưng vẫn không bỏ được thói háo sắc. Nguyễn Thị Niên là con gái của tướng Nguyễn Quyện, vợ của tướng Bùi Văn Khuê, chị của Thị Niên là hậu của Mậu Hợp. Thế mà Mậu Hợp lại muốn chiếm đoạt Thị Niên nên ngầm tính mưu kế giết Văn Khuê. Văn Khuê biết ý, dẫn quân về giữ hạt Gia Viễn, không theo mệnh lệnh của triều đình. Mậu Hợp mấy lần vời cũng không tới, bèn sai tướng đem quân đến hỏi tội Văn Khuê.

Tháng 10, Văn Khuê trưng binh chống giữ, sai con trai chạy đến yết kiến phủ Tiết chế tố cáo sự tình, xin đầu hàng và xin cứu viện. Tiết chế Trịnh Tùng rất vui mừng, lập tức tâu hoàng đế để xin khởi binh, sai Hoàng Đình Ái dẫn một đạo quân đi trước để cứu Văn Khuê.

Tướng của Mậu Hợp là Định quận công Trần Bách Niên cũng về hàng Nam triều, tiếp đến có hơn 10 tướng Nam đạo sang hàng nhà Lê.

Áp lực Nam quân quá mạnh, quân Mạc không chống cự nổi, các mặt trận đều tan vỡ. Mạc Mậu Hợp bỏ kinh thành chạy trốn về huyện Kim Thành (Hải Dương), tông thất và quân sĩ nhà Mạc lũ lượt kéo nhau ra hàng. Thái hậu họ Mạc bị bắt, buồn rầu mà chết.

Mậu Hợp dựng con trai là Toàn làm vua, rồi trốn về ẩn ở chùa Mô Khuê hạt Phượng Nhởn, cuối cùng cũng bị bắt đem về Thăng Long, bêu sống 3 ngày rồi chém đầu tại bãi cát Bồ Đề, gửi đầu về Thanh Hoa, đóng đinh vào hai mắt bêu ở chợ.

Con của Mạc Kính Điển là Mạc Kính Chỉ nghe tin Mạc Mậu Hợp đã bị bắt, bèn tự lập làm vua đóng ở huyện Thanh Lâm chiêu mộ quân sĩ được sáu bảy vạn người, Mạc Toàn là con Mạc Mậu Hợp cũng theo về với Mạc Kính Chỉ (VNSL trang 303).

Trịnh Tùng thấy Kính Chỉ nổi lên, thanh thế to lắm, quan quân đánh mãi không được, bèn đem quân sang đánh ở huyện Cẩm Giang và huyện Thanh Lâm, bắt được Kính Chỉ và con cháu họ Mạc cả thảy hơn 60 người.

Trịnh Tùng về Thăng Long, sai quan vào rước vua Thế Tông ra Đông Đô, mở triều và thăng thưởng cho các tướng sĩ.

Năm sau tướng nhà Mạc là Mạc Ngọc Liễn tìm được con của Mạc Kính Điển là Mạc Kính Cung lập nên làm vua, chiếm giữ châu Yên Bác ở Lạng Sơn, nhưng một thời gian ngắn thì bị quân của Hoàng Đình Ái đánh dẹp phải chạy sang Long Châu cầu cứu nhà Minh.

Tuy nhờ nhà Minh bênh vực, Mạc Kính Cung chỉ giữ được mảnh đất nhỏ bé ở Cao Bằng.

Triều đại nhà Mạc tồn tại 65 năm (1527-1592) và bị xem là ngụy triều trong lịch sử Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:
– Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (viết tắt: TT)
– Đại Việt Thông Sử (viết tắt ĐVTS)
– Việt Nam Sử Lược (viết tắt VNSL)

Đính kèm
–Tranh Luận xung quanh việc đặt tên phố Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông- Thanh Hằng
– Viết tiếp “Cấm phóng uế vào lịch sử” -Tôn Nữ Tịnh Tâm (TNTT)
–“Cấm phóng uế vào lịch sử” – Hoàng Thiếu Phủ


Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592)   Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592) I_icon13Thu 17 Aug 2017, 09:21


Tranh luận xung quanh việc đặt tên phố Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông ở Hà Nội

Thanh Hằng

Đầu tháng 6/2015, Sở VHTT&DL Hà Nội đã đề xuất Hội đồng nhân dân (HĐND) TP Hà Nội đặt 2 phố mang tên Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông thuộc quận Cầu Giấy.

Trong đó, tên phố Mạc Thái Tổ (tức vua Mạc Đăng Dung) được đặt cho đoạn đường từ ngã ba giao cắt đường Phạm Hùng đến ngã tư giao cắt phố Trung Kính, có chiều dài 900m, rộng 60m. Còn đoạn đường đặt tên phố Mạc Thái Tông (tức vua Mạc Đăng Doanh) là từ ngã ba giao cắt với đường Phạm Hùng (cạnh Công ty cổ phần Lắp máy xây dựng, đối diện cổng sau Trung tâm Hội nghị Quốc gia) đến ngã tư giao cắt với phố Trung Kính, nối tiếp phố Vũ Phạm Hàm, có chiều dài 840m, rộng 17m.

Theo ông Tô Văn Động, Giám đốc Sở VHTT&DL Hà Nội, việc đề xuất đặt tên của 2 vua nhà Mạc cho 2 con phố đã được Bộ VHTT&DL ủng hộ, Viện Sử học đồng ý. Hơn nữa, đã có 9 tỉnh, thành đặt tên 2 vị vua nhà Mạc cho đường phố ở địa phương: TP Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Hải Phòng, Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Ngãi… Sở VHTT&DL đang tổ chức lấy ý kiến nhân dân về việc này, làm cơ sở để HĐND TP Hà Nội quyết định trong kỳ họp tới.

Ngay trong tuần đầu tiên việc lấy ý kiến được thông báo công khai, đã có những ý kiến khác nhau về vấn đề này. Ngược lại với các ý kiến trên, PGS.TS. Trần Thị Băng Thanh, người có nhiều công trình nghiên cứu, dịch thuật văn học phương Đông nổi tiếng, đã đưa ra các dẫn chứng từ sử sách của ta và cả triều Minh (Trung Quốc), để chứng minh đối sách ngoại giao sai lầm của nhà Mạc khi dâng đất, xin hàng, xin nội thuộc nhà Minh, nên không thể coi là có công với đất nước.

Sự việc khá rõ ràng, không có đủ chứng cớ để nghi ngờ các sử gia Lê, Nguyễn vì muốn tô vẽ cho triều đại mình mà nói oan cho Mạc Đăng Dung. Nếu biện giải rằng: Mạc Đăng Dung ứng xử như thế chỉ để "xoa dịu" Mao Bá Ôn, để tránh một cuộc xâm lược mới… thì sự biện giải ấy không thể thuyết phục.

Ghi công những đóng góp của nhà Mạc và không coi nhà Mạc là "ngụy triều" cũng phải, nhưng những sai lầm của nhà Mạc trong đối sách về ngoại giao không thể bỏ qua. Lấy tên Mạc Thái Tổ, Mạc Thái Tông để đặt tên đường ở Hà Nội chỉ làm tăng thêm sự hoài nghi của nhân dân về tính lệ thuộc.

Riêng nhà sử học Lê Văn Lan từ chối cho biết ý kiến. Ông nói rằng, “một số học trò” của ông đã làm rối việc này lên rồi, ông không muốn mọi việc “rối” thêm nữa.

Theo ông Trương Minh Tiến, Phó Giám đốc Sở VHTT&DL Hà Nội: Năm 2014, Sở VHTT&DL đã đề xuất việc đặt tên vua nhà Mạc cho đường phố Hà Nội, nhưng khi đó, việc này chưa thích hợp. Mới đây, Sở VHTT&DL và Hội đồng đặt tên đường phố Hà Nội tiếp tục họp và đã được hơn 90% số phiếu đồng ý cho đề xuất trên, sau khi các nhà sử học đưa ra những nghiên cứu về vai trò, vị trí của nhà Mạc trong lịch sử dân tộc.

Trao đổi với PV Báo CAND, GS. Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam cho biết: Ông ủng hộ việc đặt tên vua nhà Mạc cho đường phố Hà Nội, vì những nghiên cứu của các nhà sử học cho thấy, vương triều này cần được nhìn nhận khách quan, công bằng như mọi vương triều khác, do có những đóng góp nhất định về văn hóa, tư tưởng và kinh tế. Nhà Mạc là vương triều ra đời và tồn tại sau nhà Lê. Việc nhà Lê sụp đổ, nhà Mạc thay thế là một hiện tượng có ý nghĩa tiến bộ, được nhiều người ủng hộ, không nên coi sự việc này là cướp ngôi. Bởi khi đó, triều Lê suy yếu, các tướng chia bè phái đánh lẫn nhau, nông dân nổi dậy khởi nghĩa.

Quan điểm cho rằng nhà Mạc “dâng” đất cho Trung Hoa là do sử nhà Lê chép, là quan điểm của nhà Lê vốn đối lập với triều Mạc, nên không khách quan.

GS. Sử học Văn Tạo, nguyên Viện trưởng Viện Sử học, cũng từng khẳng định: “Khi khủng hoảng cung đình diễn ra trầm trọng, triều đình đổ nát, dân tình cực khổ, Mạc Đăng Dung đã dẹp được các phe phái phân chia, cát cứ, lên ngôi tạo dựng được cơ nghiệp…Với 65 năm tồn tại và phát triển, nhà Mạc đã có cống hiến nhất định trong lịch sử dân tộc”.

Mạc Đăng Dung được các sử gia sau này đánh giá cao còn bởi, ông phế bỏ nhà Lê sơ để lên ngôi, nhưng đã không thi hành một cuộc tàn sát nào với con cháu và những người trung thành với nhà Lê, như từng xảy ra khi nhà Trần lên thay nhà Lý, nhà Hồ lên thay nhà Trần. Vương triều Mạc đã là một thực thể không thể thiếu trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam.

PGS.TS. Đinh Quang Hải, Viện trưởng Viện Sử học - Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam nhấn mạnh: Viện Sử học nhận thấy, việc TP Hà Nội đặt tên Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông cho đường phố mới ở Hà Nội là một việc làm đúng đắn, nhằm giáo dục truyền thống và ghi nhớ công lao tiền nhân. Lịch sử nhà Mạc là một trang lịch sử quan trọng trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc. Những đóng góp của nhà Mạc mà tiêu biểu là hai vị vua đầu triều Mạc: Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông đã được giới khoa học ghi nhận, cũng như được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước, như quyết định của Thủ tướng khôi phục lại Dương Kinh của nhà Mạc và Quyết định công nhận Di tích Lịch sử cấp Quốc gia cho Từ đường họ Mạc ở Hải Phòng từ năm 2002.


Thanh Hằng

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592)   Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592) I_icon13Thu 17 Aug 2017, 14:12


CẤM PHÓNG UẾ VÀO LỊCH SỬ!

HOÀNG THIẾU PHỦ

         Ông Thắng là giáo viên dạy Sử rất được học sinh mến mộ vì lối giảng bài sinh động và hấp dẫn. Bữa nay ông mở đầu tiết học bằng một mẩu tin ngắn đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày chủ nhật 30-10- 2014 nhan đề: Không đặt tên đường Mạc Thái Tổ, Mạc Thái Tông. Ông dừng lại một chút đặt câu hỏi: “Có em nào biết Mạc Thái Tổ, Mạc Thái Tông là ai không?”. Cả lớp ngồi im. Ông lại hỏi: “Thế các em có biết một nhân vật lịch sử tên là Mạc Đăng Dung không?”. Cả lớp liền đồng thanh trả lời: “Dạ biết”. Ông chỉ một nữ sinh ngồi ở bàn đầu hỏi: “Em biết gì về ông này?”.

- Dạ thưa thầy, đó là một kẻ gian thần, giết vua để chiếm ngôi rồi tự trói mình ra hàng quân Minh ở ải Nam Quan.

- Đúng rồi. Và Mạc Thái Tổ, Mạc Thái Tông mà người ta tính đặt tên cho hai con đường lớn ở thủ đô Hà Nội chính là Mạc Đăng Dung và con là Mạc Đăng Doanh. Nên biết rằng khi một ông vua được nhân dân ngưỡng mộ, lịch sử ghi công thì người ta mới gọi Thái tổ, Thái tông để tỏ lòng tôn kính. Ví dụ: Lý Thái Tổ, Lê Thái Tổ, Lê Thánh Tông. Nhưng đối với cha con Mạc Đăng Dung và Mạc Đăng Doanh, lịch sử coi họ là tội đồ cho nên dù họ có xưng là Thái tổ Thái tông gì đi nữa cũng không ai muốn gọi. Chỉ thích gọi tên để mà thóa mạ. Cũng vì thế mà nói Mạc Đăng Dung thì cả lớp đều biết. Còn nói Mạc Thái Tổ, Mạc Thái Tông thì các em không biết.

Rồi ông nhìn vào giáo án nói tiếp: “Để các em hiểu thế nào là Mạc Đăng Dung, thầy sẽ tóm tắt một số tư liệu dựa trên các bộ sách lịch sử kinh điển như: Đại Việt sử ký toàn thư của các sử quan thời Hậu Lê, Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn, Việt Nam quốc sử khảo của Phan Bội Châu, Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim… Theo các tài liệu này thì:

- Để cướp ngôi, Mạc Đăng Dung đã giết hai vị vua cuối cùng của nhà Hậu Lê là Lê Chiêu Tông, Lê Cung Hoàng và bà Hoàng Thái hậu. Hàng chục vị quan đứng đầu triều đình ra mặt phản đối, kẻ thì nhổ vào mặt, kẻ thì lấy nghiên mực xáng vào đầu Mạc Đăng Dung đều bị giết tại chỗ. Nhiều người quay đầu về Lam Sơn lạy rồi tự tử. Một số khác khởi binh chống lại Mạc Đăng Dung rồi đánh đuổi họ Mạc lên tới biên giới Lạng Sơn, Cao Bằng.

- Nhưng nhục nhã nhất là việc đầu hàng và cắt đất biên giới dâng cho giặc. Đại Việt Sử ký toàn thư chép: Mùa đông, tháng 11, năm Canh Tý (1540), Mạc Đăng Dung cùng với bá quan văn võ trong triều qua Trấn Nam Quan, mỗi người đều cầm thước, buộc dây ở cổ, đi chân không đến phủ phục trước doanh trướng của quân Minh, quỳ gối cúi đầu dâng tờ biểu đầu hàng, nộp hết sổ sách về đất đai, quân dân và quan chức cả nước để chờ phân xử. Đăng Dung còn tự nguyện dâng các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương, La Phù của châu Vĩnh An trấn Yên Quảng, xin cho nội thuộc vào Khâm Châu. Tự cổ chí kim trong lịch sử Việt Nam chưa có ông vua nào độc ác và hèn hạ đến thế”.

Một cậu học trò giơ tay hỏi: - Thưa thầy, một ông vua hèn như thế sao còn có người đề xuất đặt tên đường?

- Câu hỏi hay đấy. Chính thầy cũng đang tìm hiểu. Chỉ biết rằng gần đây có một số nhà sử học muốn tỏ ra mình thông thái hơn người xưa nên đã tìm đủ lý do để chạy tội, thậm chí kể công lao của Mạc Đăng Dung. Lại có một số người khác dựa vào lập luận của các sử gia ấy toan tính việc đánh bóng tên tuổi Mạc Đăng Dung chắc là để phục vụ một ý đồ nào đó. Bởi vậy chúng ta hãy cảnh giác: Nếu hôm nay âm mưu đặt tên đường Mạc Thái Tổ, Mạc Thái Tông không bị ngăn chặn thì không chừng sẽ có ngày họ thừa thắng xông lên, đặt thêm những con đường mang tên các tướng Tàu như Mã Viện, Liễu Thăng, Toa Đô, Ô Mã Nhi…

Cậu học sinh trưởng lớp bỗng đứng lên phát biểu một câu rất tếu:

- Em nói điều này xin thầy tha lỗi chứ nếu họ dám dựng những bảng tên đường như thế thì mỗi lần đi ngang chúng em sẽ tè một phát vào đấy.

Cả lớp cười rần rần. Một nữ sinh vui vẻ tham gia:

- Chỉ sợ các bạn tè được vài lần thì họ sẽ gắn thêm một cái bảng đề: “Cấm phóng uế”.

Cả lớp lại cười. Ông thầy cũng cao hứng nói đùa:

- Nếu thế thì mình sẽ thêm vào mấy chữ, thành ra cái bảng đề CẤM PHÓNG UẾ VÀO LỊCH SỬ.

Có lẽ thầy trò họ còn có nhiều điều muốn nói nhưng reng... reng… Chuông báo hết giờ.

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592)   Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592) I_icon13Mon 21 Aug 2017, 07:20


VIẾT TIẾP “CẤM PHÓNG UẾ VÀO LỊCH SỬ”

TÔN NỮ TỊNH TÂM


Trao đổi về bài tạp văn
“Cấm phóng uế vào lịch sử” của Hoàng Thiếu Phủ


(Hồn Việt số 90 trang 2&3-2015).


         Trước đây, sách Việt Nam sử lược (VNSL) của Trần Trọng Kim được phổ biến rộng rãi. Nhiều người còn nhớ đoạn tác giả kết án Mạc Đăng Dung (MĐD) một cách hùng hồn: “Mạc Đăng Dung đã làm tôi nhà Lê mà lại giết vua để cướp lấy ngôi, ấy là một nghịch thần: đã làm chủ một nước mà không giữ lấy bờ cõi, lại đem cắt đất mà dâng cho người, ấy là một người phản quốc. Làm ông vua mà không giữ được danh giá cho trọn vẹn, đến nỗi phải cởi trần ra trói mình lại, đi đến quỳ lạy ở trước cửa một người tướng của quân nghịch để cậy lấy cái phú quý cho một thân mình và một nhà mình, ấy là một người không biết liêm sỉ. Đối với vua là nghịch thần, đối với nước là phản quốc, đối với cách ăn ở của loài người là không có nhân phẩm; một người như thế ai mà kính phục” (VNSL tập II, trang 17).

Có lẽ khi ngồi trên ghế nhà trường, Hoàng Thiếu Phủ đã đọc VNSL (mà ông cho là một trong “ các bộ sách lịch sử kinh điển”), chịu ảnh hưởng của bản luận tội nói trên, nên ông đã phản ứng khá gay gắt khi hay tin thành phố Hà Nội định lấy tên MĐD và con là Mạc Đăng Doanh để đặt cho hai con đường ở Thủ đô. Trong tập văn Cấm phóng uế vào lịch sử!, Hoàng Thiếu Phủ đã đặt vào miệng thầy trò một lớp học nào đó những câu như sau: MĐD là ”Một kẻ gian thần, giết vua để chiếm ngôi rồi tự trói mình ra hàng quân Minh ở Ải Nam Quan nhục nhã nhất là việc đầu hàng và cắt đất biên giới dâng cho giặc""tự cổ chí kim trong lịch sử Việt Nam chưa có ông vua nào độc ác và hèn hạ đến thế""đối với cha con MĐD và Mạc Đăng Doanh, lịch sử coi họ là tội đồ”.

Trong bài viết này, chúng tôi không có ý đồ xấu nào để phục vụ nên sẽ không dựa vào lập luận của các sử gia gần đây mà chỉ trích dẫn những bộ sử xưa. Chúng tôi sẽ lần lượt đề cập tới ba “ tội” của MĐD mà Trần Trọng Kim đã lên án: cướp ngôi, đầu hàng giặc, cắt đất dâng cho Tàu.

* Tội “cướp ngôi”:

Nếu giai đoạn đầu của nhà Hậu Lê có những vị minh quân như Lê Thái Tổ, Lê Thánh Tông… thì các ông vua của giai đoạn cuối lại quá tệ. Đại Việt sử ký toàn thư ( ĐVSKTT) của các sử gia đời Hậu Lê điểm mặt ba vua Uy Mục, Tương Dực, Chiêu Tông như sau:

Lê Uy Mục “ nghiện rượu, hiếu sắc, hoang dâm, thích ra oai, tàn hại người tông thất, giết ngầm tổ mẫu, họ ngoại hoành hành, trăm họ oán giận, người bây giờ gọi là Quỷ Vương (vua quỷ), điếm loạn đã xuất hiện từ đây” (tập III, tr 57), “ bạo ngược vô đạo, giết hại tông thất, tàn sát nhân dân, tự mình chuốc lấy diệt vong chẳng đáng lắm sao!” ( tập II, tr 78)

Năm 1509, Lê Dinh lật đổ Uy Mục, lên làm vua ( tức Tương Dực), nhưng ông này lại đi vào vết xe đổ của vua trước. Lê Tương Dực “ chơi bời vô độ, xây dựng liên miên, dân nghèo thất nghiệp, trộm cướp nổi lên, dẫn tới nguy vong là bởi ở đấy” (tập III, tr 81), “ xa hoa dâm dục quá độ, hình phạt nặng, thuế khóa nhiều, giết hết các thân vương, can qua xảy ra khắp nơi, người thời ấy gọi là “ Vua lợn”, điềm nguy vong đã được thấy đó” ( tập III, tr120).

Năm 1516, Trịnh Duy Sản giết Tương Dực, lập Lê Y lên làm vua (tức Chiêu Tông).

Lê Chiêu Tông “ bấy giờ trong buổi loạn lạc, quyền binh không ở trong tay, bên trong thì nghe lời xiếm nịnh gian trá, bên ngoài lại ham mê săn bắt chim muông, ngu tối bất minh, ương ngạnh tự phụ, bị nguy vong là đáng lắm!” (tập II tr 127).

Dưới thời các hôn quân nói trên, xã hội Đại Việt vô cùng loạn lạc, dân chúng khốn khổ. Trong triều, các đại thần chia bè kết đảng, đem quân đánh lẫn nhau: bên ngoài, các cuộc nổi loạn nổ ra ( như loạn Trần Cáo có hàng vạn người theo, có lúc chiếm được kinh thành, Trần Cáo tự xưng làm vua). Các Vua phải nhờ đến tài thao lược của MĐD, sách Đại Việt thông sử ( ĐVTS) của Lê Quý Đôn viết: “ Sau khi Đăng Dung một mình giữ binh quyền, tung binh được nhiều giặc lớn, uy quyền ngày càng thịnh, lòng người ai cũng hướng về” ( ĐVTS, tr 15).

Trước “ uy quyền ngày một lớn” (ĐVSKTT, tâp III, tr 154) của MĐD, Chiêu Tông lo sợ, rời kinh thành, “hiệu triệu các tướng bốn phương hỏi tội Đăng Dung” (ĐVTS, tr 116). Triều đình lập em của Chiêu Tông là Lê Xuân lên làm vua (tức Cung Hoàng). ĐVSKTT nhận định: lúc đó “ lòng người đã lìa, tài năng (của Cung Hoàng) lại vốn hạng thường, hạng kém thì dẹp yên thế nào được” ( tập II, tr 161).

Đất nước không phải của riêng của một ông vua hay một dòng họ nào, nhất là khi ông vua ấy bất tài, dòng họ ấy suy tàn. Cuộc đảo chính tháng 7 năm 1527 diễn ra dưới hình thức một cuộc nhường ngôi ( dẫu không phải là tự nguyện). Tờ chiếu – do Đông Các Đại học sĩ Nguyễn Văn Thái, nhân danh vua Cung Hoàng, thảo – nêu lý do việc nhường ngôi: “ Lòng người đã lìa, mệnh trời không giúp… thiên hạ đã không phải là của nhà ta (nhà Lê). Ta không có đức, lạm giữ ngôi trời (ngôi Vua), việc gánh vác không kham nổi. Mệnh trời, lòng người đều theo về người có đức… Thái sư An Hưng Vương Mạc Đăng Dung… bẩm tính thông minh sáng suốt, có tài lược văn võ. Bên ngoài đánh dẹp bốn phương, các nơi đều phục tùng; bên trong coi sóc trăm quan, mọi việc đều tốt đẹp. Công to đức lớn, trời cho người theo. Nay ta cân nhắc lẽ phải, nên nhường ngôi cho” (ĐVSKTT, tập III, tr170-171). “ Mệnh trời” là một khái niệm siêu hình, khó thấy nhưng “ lòng người” là một thực tế, các sứ giả nhà Lê, tuy chống họ Mạc, nhưng cũng thừa nhận “ Bây giờ thần dân trong kinh Thăng Long đều theo Mạc Đăng Dung và đều đón Mạc Đăng Dung vào kinh” (ĐVSKTT, tập III, tr 170), “ Lúc này thần dân phần nhiều hướng về Đăng Dung” (ĐVSKTT, tr 121). Khi nhận định cuộc đảo chính tháng 7/1527, chúng ta đứng về phía “lòng dân” hay tỏ ra “ bảo hoàng hơn vua”?

*Tội “ đầu hàng”:

Đầu năm 1533, cựu thần nhà Lê là Nguyễn Kim lập Lê Duy Ninh ( con của Chiêu Tông) lên làm vua ( tức Trang Tông). Trang Tông lần lượt cử hai sứ giả là Trịnh Duy Liêu và Trịnh Viên sang Yên Kinh kể tội Mạc Đăng Dung (nội dung có lẽ không khác “ bản luận tội” của Trần Trọng Kim bao nhiêu), Minh Thế Tông chụp lấy cơ hội này, sai Cửu Loan và Mao Bá Ôn dẫn 20 vạn quân áp sát biên giới Việt – Trung. Mạc Đăng Dung ( lúc đó đã lên làm Thái thượng hoàng) cùng con là vua Mạc Đăng Doanh quyết định đối phó bằng hai biện pháp song song; quân sự và ngoại giao.

Một mặt, MĐD “ tu sửa trai sách, luyện tập thủy quân, trưng cầu hết thảy các cựu thần lão tướng để cùng bàn việc nước” tuyển trai tráng sung vào ngạch quân”. (ĐVTS, tr 140,141). Mặt khác, MĐD dùng cách trá hàng để đẩy lui 20 vạn quân địch. Nội dung đầu hàng của MĐD gồm:

“- Xin kính theo chính sóc (tức theo lịch sử của nhà Minh),
- Xóa bỏ tiệm hiệu ( không xưng hoàng đế, thái thượng hoàng),
- Trả lại đất bốn động đã chiếm,
- Xin nội thuộc xung thần,
- Xin hàng năm ban lịch Đại Thông
(tức lịch nhà Minh),
- Và bù đủ lễ vật tiến cống hàng năm” (ĐVSKTT, tập III, tr191).

Hầu hết những điều trên đây không có gì mới. Sau khi chiến thắng vẻ vang quân Minh năm 1427, Lê Lợi cũng sai sứ sang Tàu dâng biểu cầu phong, nộp lễ cống, nộp tượng người vàng thế thân v.v…Lúc đó, vua Minh chỉ phong Lê Lợi làm “quyền thự An Nam quốc sự” ( tạm coi công việc nước An Nam) ( ĐVSKTT, tập II, tr 306), về sau mới phong làm An Nam quốc vương.

Trong sớ dâng lên Minh Thế Tông, Mao Bá Ôn nhắc lại chuyện “ thời xưa, Trương Phụ dùng hơn hai mươi vạn người đánh dẹp nước ấy (An Nam) mà cũng chỉ lập quận huyện được mấy năm, chúng (người Việt ) lại liên tiếp phản bạn, rốt cuộc quyền cai trị lại thuộc về người Di ( chỉ người Việt )” rồi đề nghị vua Minh “ châm chước sự lợi hại về thời trước, không gì bằng cứ để nước ấy là người ngoài mà không sáp nhập vào Trung Quốc, chỉ dùng người Di trị người Di, mới được ổn tiện” ( ĐVTS, tr 154 – 155).

Sau khi cân nhắc, năm 1541 Minh Thế Tông quyết định “ xá tội cho cha con Mạc Đăng Dung đổi An Nam quốc thành An Nam đô thống sứ, cho hàm nghị phẩm và quả ấn bằng bạc và được đời đời truyền nối, 13 lộ (tức các đơn vị hành chính của Đại Việt thì cứ theo nguyên tên cũ dưới quyền Đô thống sứ quản hạt và sai khiến triều cống, ngoài ra, các chức quan lớn nhỏ trong toàn cõi đều thuộc quyền Đô thống sứ tùy nghi cắt đất” ( ĐVTS, tr. 157).

Như vậy, bằng biện pháp trá hàng, MĐD đã tránh được thế “ lưỡng đầu thọ địch” (quân Minh từ phía Bắc đánh xuống, quân Lê Trang Tông từ phía Nam đánh lên), tránh lặp lại thất bại mà Hồ Quý Ly đã chịu năm 1407 (một thất bại đau đớn, đẩy đất nước chìm đắm trong hai thập niên bị Tàu đô hộ).

Trở lại Thăng Long, họ Mạc vẫn xưng hoàng đế và Thái thượng hoàng, vẫn làm chủ nước Đại Việt. Không có bóng dáng người Tàu nào trên đất nước ta. Việc “ xin nội thuộc và xưng thần” chỉ mang tính hình thức để đánh lừa đám bá quyền Đại Minh. Bằng cách đầu hàng giả, MĐD đã giữ được độc lập thật cho Tổ quốc. Qua hành động này, MĐD không “ phản quốc” “ nhục nhã”, “ hèn hạ” như ai đó đã kết tội, mà ngược lại là một người đáng kính trọng vì đã dám hy sinh danh dự cá nhân cho đại cục của dân tộc, nhờ đó tránh được nguy cơ chiến tranh xâm lược từ nước láng giềng khổng lồ. Người đáng bị kết tội chính là Lê Trang Tông, kẻ đã vì quyền lợi của dòng họ mình mà không ngăn, lại mời rắn về cắn gà nhà.

* Tội “ cắt đất”:

Theo ĐVSKTT, MĐD hai lần cắt đất dâng cho nhà Minh. Lần đầu tiên vào năm 1528, MĐD “ cắt đất dâng hai châu Quy và Thuận “ (ĐVSKTT, tập III, tr 176). Thực ra “ hai châu Quy và Thuận đã bị nhà Tống chiếm từ đời Lý” ( ĐVSKTT, tập III, tr 178, chú thích số 1). Lần sau vào năm 1540, MĐD dâng cho nhà Minh 6 động ( động là đơn vị hành chính, có khoảng 280 hộ), nhưng nhiều tài liệu khác chỉ nói 4 động. Thực ra ,các động này trước kia thuộc Tàu. Năm 1427, các trưởng động xin theo về nhà Lê. Nhưng năm 1540, khi nhà Minh đe dọa đánh nhà Mạc, các trưởng động xin trở lại với nhà Minh ( trước khi có việc Mạc Đăng Dung đầu hàng). Trong biểu tấu đầu hàng, MĐD nói rõ: “ Thủ thần Khâm Châu (của Tàu) tâu xưng (bốn động) là đất của Khâm Châu. Nếu quả như vậy thì những đất ấy do triều trước họ Lê mạo nhận. Nay hạ thần xin tình nguyện dâng các xứ ấy lệ thuộc vào Khâm Châu” (ĐVTS, tr 150 -151).

Như vậy, không hề có việc cắt đất dâng cho Tàu, mà chỉ là việc “ của Tàu trả âm ty” mà thôi.

* Công của Mạc Đăng Dung

Sẽ không trọn vẹn nếu gỡ tội cho MĐD mà không nói tới công của ông. Cuộc đảo chính tháng 7 năm 1527 đã chấm dứt tình trạng loạn lạc nghiêm trọng của Đại Việt và đưa lại một thời kỳ thái bình thịnh trị. Chính xác sứ giả nhà Lê – vốn rất ác cảm với họ Mạc – vẫn phải thừa nhận: “ Từ đấy, những người đi buôn bán chỉ đi tay không, không phải đem khí giới tự vệ. Trong khoảng mấy năm, trộm cướp bặt tăm, Súc vật chăn nuôi, tối đến không phải dồn vào chuồng, cứ mỗi ngày một lần kiểm điểm thôi” ( ĐVTS, tr 138), “ trong khoảng vài năm người đi đường không nhặt của rơi, cổng ngoài không cần phải đóng” ( ĐVSKTT, tập III, tr 182).

Nhà Mạc rất quan tâm đến giáo dục. Lịch triều hiến chương loại chí ( LCHCLC) của Phan Huy Chú ghi nhận: nhà Mạc “ dẫu bận chiến tranh mà vẫn không bỏ thi cử, vì thế được nhiều người tài giỏi, giúp việc giữ nước chống nhà Lê” ( tập II, tr.165). Chỉ tính trong vòng 65 năm đầu (1527 – 1592), nhà Mạc đã mở 22 khoa thi Hội, tuyển được 485 tiến sĩ, trong đó có 13 trạng nguyên (như Nguyễn Thiến, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Giáp Hải, Nguyễn Kỳ…).

Kinh tế phát triển, đặc biệt nông nghiệp “ bấy giờ được mùa, nhà no người đủ, trong nước gọi thời ấy là bình trị “ (LCHCLC, tập II, tr 217) “ lại trúng mùa luôn luôn, nhân dân bốn trấn đều được yên ổn” ( ĐVTS, tr.138).

Khuôn khổ một bài báo không cho phép chúng tôi nói đến những thành tựu về các mặt văn hóa, thủ công nghiệp, thương nghiệp… của nhà Mạc. Chỉ xin nhắc lại một nhận định của Phạm Đình Hổ, tế tửu Quốc Tử Giám (tức viện trưởng Viện Đại học Quốc gia) trong Vũ trung tùy bút “ Các đức chính của đời Minh Đức (niên hiệu của MĐD), Đức Chính (niên hiệu của Mạc Đăng Doanh), nhà Mạc vẫn còn cố kết ở lòng người chưa quên. Vậy nên sau này vận trời đã về nhà Lê trung hưng mà lòng người thì hướng theo nhà Mạc vẫn chưa hết. Những nhà Nho đời bấy giờ còn nhiều người ẩn hình giấu bóng, không chịu ra làm quan cho nhà Lê trung hưng” (tr.137).

Chúng tôi tán thành khẩu hiệu “ Cấm phóng uế vào lịch sử!” của Hoàng Thiếu Phủ, nhưng muốn nói thêm: cũng cần làm vệ sinh những gì mà các tác giả đã lỡ “phóng uế” vào sử học để bộ mặt của ngành khoa học này luôn được sạch sẽ! Chính vì lẽ đó, chúng tôi mạo muội viết tiếp bài tạp văn của Hoàng Thiếu Phủ.

Sách tham khảo:
1. Các sử thần nhà Lê, Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985, tập III NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2000.

2. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí tập I và II, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội 1992.

3. Lê Quý Đôn, Đại Việt thông sử, NXB Tổng hợp Đồng Tháp, 1993.

4. Phạm Đình Hổ, Vũ Trung tùy bút, NXB Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, 1989.

5. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Trung tâm học liệu xuất bản, Sài Gòn, 1971

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592)   Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592) I_icon13Thu 24 Aug 2017, 15:00


Không nên đặt tên đường Mạc Thái Tổ, Mạc Thái Tông

TRẦN THỊ BĂNG THANH


TP - Đối sách ngoại giao của nhà Mạc dâng đất, dâng sổ hộ tịch kể cả việc xin nội thuộc nhà Minh, chấp nhận trở thành những "ty" lệ thuộc tỉnh Quảng Tây thì đó là một sai lầm, không thể coi là có công với đất nước.

Trên báo Tuổi trẻ ngày thứ ba 9/6/2015 có đăng bài "Giải mã" nhà Mạc quanh chuyện đặt tên đường và ý kiến vị Phó Giám đốc Sở VH-TT&DL TP. Hà Nội muốn "lắng nghe ý kiến rộng rãi" của nhân dân. Nhân đây, tôi xin nêu vài ý kiến.

Thứ nhất, việc  ghi nhận đóng góp của nhà Mạc cho lịch sử dân tộc về kinh tế, văn hóa và không coi Mạc là "ngụy triều" (chỉ vì nhà Mạc đã giành ngôi vua từ nhà Lê) là vấn đề có lẽ không khó nhất trí. Tuy nhiên đối sách ngoại giao của nhà Mạc dâng đất, dâng sổ hộ tịch kể cả việc xin nội thuộc nhà Minh, chấp nhận trở thành những "ty" lệ thuộc tỉnh Quảng Tây thì đó là một sai lầm, không thể coi là có công với đất nước. Sự việc ấy do 2 vị Mạc Thái Tổ, Thái Tông chủ trương, thực hiện, cho nên việc đặt tên đường cho hai vị cần phải tính đến.

Thứ hai là việc "giải mã" sự việc được gọi là "nghi án" này. Sự kiện lịch sử ấy đã được các bộ sử của ta và cả Minh sử ghi chép khá rõ ràng. Khâm định Việt sử thông giám cương mục đã tham bác các sách, biện luận, dưới đây xin trích ra một số sự kiện chính từ ghi chép của bộ sử này như sau:

- Ngày 3 tháng 11 năm Canh Tí  (1540)"Bọn Mao Bá Ôn thiết lập mạc phủ và tướng đài ở Nam Quan…" "Đến kỳ đã định, Đăng Dung… cùng cháu là Văn Minh và bè đảng là bọn Vũ Như Quế hơn 40 người do đường Nam Quan đi sang; ai nấy buộc dây vào cổ, đi chân không, gieo mình vào mạc phủ tướng Minh, khúm núm, phủ phục, khấu đầu lạy, dâng tờ biểu xin hàng, nộp trình sổ sách đất đai và nhân dân do mình cai quản. (Việt sử thông giám cương mục, Chính biên XXVII, Bản dịch của Viện Sử học in năm 1959, tr. 1337). (Mạc phủ, nơi Mạc Đăng Dung và hơn bốn mươi thuộc hạ đầu hàng, về sau được gọi là Thành Thụ hàng).

- "Đăng Dung lại xin hàng, dâng đất các động Ti Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, La Phù, An Lương thuộc châu Vĩnh An ở An Quảng để lệ vào Khâm Châu. Lại xin nhà Minh ban cho chính sóc và ấn chương đã làm từ trước để Đăng Dung coi giữ việc nước trong khi chờ đợi mệnh lệnh có thay đổi hoặc quyết định ra sao" (Sách đã dẫn tr. 1338).

- Cương mục cũng ghi thêm: "Năm Mạc Minh Đức thứ 2 (1528), Sử cũ chép Mạc Đăng Dung sợ nhà Minh hỏi tội, bèn tính chuyện cắt đất đem dâng hai châu Quy, Thuận, vua Minh thu nhận. Từ đó Nam Bắc lại đi lại thông hiếu".(Sách đã dẫn tr. 1338).

- Tháng 10 mùa đông, Mạc Phúc Hải, Quảng Hòa năm thứ 1 (1541). "Nhà Minh đổi nước An Nam làm An Nam đô thống sứ ty, trao cho Đăng Dung chức Đô thống sứ, đổi đặt toàn quốc làm mười ba tuyên phủ ty, cho lệ thuộc vào đất nhà Minh" (Sách đã dẫn tr. 1340).

- "Nhà Minh bèn đổi nước An Nam làm Đô thống sứ ti, cho Đăng Dung làm Đô thống sứ, phẩm trật vào bậc tòng nhị (còn kém chánh nhị phẩm), ban cho ấn chương khác và cho đời được cha truyền con nối. Còn các nghi thức mà Đăng Dung tiếm dùng đều bắt tước bỏ hoặc cải chính lại. Trong mười ba lộ như Hải Dương, Sơn Nam vân vân đều đặt tuyên phủ ty, mỗi ty đặt một tuyên phủ đồng tri, một tuyên phủ phó sự và một tuyên phủ thiêm sự, dưới quyền cai quản của đô thống sứ. Tất cả các ty trên đây đều cho lệ thuộc vào Quảng Tây phiên ty (Sách đã dẫn tr. 1341).

Cũng theo Cương mục thì Mao Bá Ôn (nhà Minh) còn đem gấp tờ tấu lên vua Minh đề xuất việc hàng năm bắt nhà Mạc "phải lên Nam Quan lĩnh lịch được ban", lễ cống năm trước còn thiếu, kiểm tra theo lệ ngạch, "bắt năm sau phải nộp bổ sung cho đầy đủ" (Sách đã dẫn tr. 1340). Cương mục cũng ghi danh mục cống vật, Mạc Phúc Hải cống năm 1542 trích từ Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn.

Tôi thấy sự việc cũng khá rõ ràng, không có đủ chứng cớ để nghi ngờ các sử gia Lê, Nguyễn vì muốn tô vẽ cho triều đại mình mà nói oan cho Mạc Đăng Dung. Có chăng là những cách lý giải của người ngày nay. Tôi nghĩ nếu biện giải rằng: Mạc Đăng Dung ứng xử như thế chỉ để "xoa dịu" Mao Bá Ôn, để tránh một cuộc xâm lược mới… thì sự biện giải ấy không thể thuyết phục. Làm sao lại có thể ngây thơ tin rằng nhà Minh chỉ cần cái danh chiến thắng suông! Một trăm năm trước, đất nước này nhà Minh đã từng đã cai trị với một chính sách "bại nhân nghĩa nát cả càn khôn", đã vơ vét đến "sạch không đầm núi", đã bắt người lên rừng xuống biển tìm châu báu… và đã bị đuổi đi. Thôn tính nước này gộp vào lãnh thổ "Đại Hán" của họ là một tham vọng chưa bao giờ nguội, lẽ nào bây giờ có người tự nguyện dâng hiến chỉ để cầu một chức "đô thống" nhỏ nhoi, tiếc gì không cho để được nhận! Đã nhận rối, chia ra để trị rồi, giao cho một tỉnh quản lĩnh rồi, lẽ nào chỉ là việc nói vu vơ? Mà thực chất họ đã tính đến cả rồi (Xem những điều tâu về cách chế tài của Mao Bá Ôn)…

Thêm nữa nói rằng đấy là những "đất khống" cũng không thuyết phục. Chẳng lẽ người Minh dễ lừa đến thế!

Chuyện lấn đất vùng biên của Việt Nam là chuyện xảy ra "thường ngày", Việt Nam nhiều lần đã phải đòi, phải lấy lại, khi thì "hội khám", khi thì gửi thư, hội nghị tranh biện (nổi tiếng như Hội nghị Vĩnh Bình, Thư đòi đất đời Lý), khi thì không chịu được sự cai trị của các quan chức Trung Quốc, trưởng các tộc nhóm đem dân chạy về lại Việt Nam… Cho nên những đất Trung Quốc chiếm được chưa phải là lãnh thổ của Trung Quốc, bây giờ Mạc Đăng Dung đem dâng chính là đã chính thức công nhận chủ quyền của họ. Trong ngoại giao đó là một việc thất thố, tổn hại đến lợi ích quốc gia.

Nói tóm lại dâng đất, dâng sổ đất đai và dân số, tự nguyện xin nội thuộc trở thành ty quận của họ, xóa bỏ cả một đất nước đã có truyền thống mấy nghìn năm văn hóa, tổ tiên đã đổ bao máu xương tâm trí để khai thác giữ gìn, thì đó là một sai lầm không thể bỏ qua.

Cho nên nếu cuộc đổi thay Mạc - Lê đem lại sự tiến bộ cho đất nước thì cuộc thay đổi lại Lê - Mạc lần này lại có thể đem đến một cơ may để nước ta hóa giải được sự cam kết rất bất lợi với nhà Minh, thoát được cái thân phận "các ty lệ thuộc" một tỉnh vùng biên Quảng Tây, giữ lại được thành quả của cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn, giữ lại được đất nước đến ngày nay. Đó là sự thật. Cho nên, trong lịch sử chưa thấy ai biện hộ cho việc làm này của nhà Mạc. Ngô Thì Nhậm trong dịp đi sứ nhà Thanh năm 1793, qua Thụ hàng thành đã viết bài thơ ghi lại sự công phẫn trước việc làm của Mạc Đăng Dung:

Thụ Hàng thành

Lộ kinh Mạc phủ nhập Bằng Tường,
Cố thụ Hàng thành thị cố cương.
Sơn tự Lạng Sơn, khê giảo thiểu,
Thạch xưng Hạ Thạch lý thiên trường.
Thủy xa chuyển trục lôi huyên ngạn,
Hỏa hiệu tiêu đài tuyết mãn đường.
Đô thống Hàng Thành thành thậm sự,
Linh nhân thiên tải mạ Nghi Dương.


(Đường đi qua phủ mạc vào Bằng Tường, Thành Thụ Hàng xưa là cương giới cũ của nước ta. Núi non giống như ở Lạng Sơn nhưng suối khe ít hơn. Đá thì gọi là Hạ thạch, riêng đường càng dài. Trục guồng nước chuyển, tiếng nước đổ như sấm huyên náo bên bờ, Trên đài pháo hiệu tàn bay như tuyết khắp nhà. Đô thống, Thành Hàng là cái trò gì vậy, Khiến người ta  nghìn năm còn chửi mắng kẻ Nghi Dương (Mạc Đăng Dung người Nghi Dương).

Vị túc nho Nguyễn Sĩ Lâm dịch thành thơ như sau:

Lối qua Mạc phủ tới Bằng Tường,
Thành Thụ Hàng xưa, dấu cố cương.
Núi tựa Lạng Sơn, dòng suối ít,
Mốc nêu Hạ Thạch, dặm đường trường.
Tuyết bay tàn pháo đồn canh khắp,
Sấm chuyển guồng xe, bến nước vang.
Đô thống xin hàng, trò khốn nạn,
Nghìn năm bán nước tiếng Nghi Dương


(Ngô Thì Nhậm toàn tập (Tập 3), Nxb Khoa học xã hội, 2005.

Đương nhiên, trong chuyện cầu cứu nhà Minh này có trách nhiệm của cả nhà Mạc và nhà Lê. Hai bên tranh giành ngôi vị, tìm cách loại bỏ nhau khiến người ngoài có thể lợi dụng. Giá như nhà Mạc và nhà Lê đã có thể vì đất nước, dân tộc mà xử sự như Trần Quốc Tuấn, giá như nước ta có cách nào đó để tuyển chọn người đứng đầu đất nước dân chủ, hợp lý, chính xác, ôn hòa sớm hơn! Bởi lẽ trong mỗi cuộc tranh giành, đất nước, dân tộc đều tổn thất rất nhiều nhân tài tướng giỏi. Cho nên tôi cho rằng ghi công những đóng góp của nhà Mạc là nên, không coi nhà Mạc là "ngụy triều" cũng phải, nhưng những sai lầm của nhà Mạc trong đối sách về ngoại giao cũng không thể bỏ qua. Bởi lẽ tôn vinh hay rút kinh nghiệm từ lịch sử chính là để giúp ích cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của chúng ta ngày nay. Tôi tán thành những ý kiến trong Hội đồng Tư vấn cho rằng không nên lấy tên Mạc Thái Tổ, Mạc Thái Tông để đặt tên đường ở Hà Nội, điều ấy chỉ làm tăng thêm sự hoài nghi của nhân dân về tính lệ thuộc.


TRẦN THỊ BĂNG THANH
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592)   Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592) I_icon13Mon 28 Aug 2017, 08:57

Nhận định:

Các nhà sử học trong nước xem hành động Mạc Đăng Dung cướp ngôi, giành quyền lực và đầu hàng dâng đất cho ngoại bang là yêu nước, là có công với dân chúng cũng không có gì là lạ lùng. 

Ai cũng biết trong chế độ độc tài (còn gọi là chuyên chính), những người làm công tác nghiên cứu giảng dạy khoa học nhân văn (xã hội) cũng như cơ quan truyền thông, báo chí là công cụ tuyên truyền của chính quyền. Họ chỉ được suy nghĩ và nói theo chính sách của Đảng và nhà nước.  :bquite:

Chúng ta có thể so sánh một số sự việc như sau:

- Lần đầu tiên vào năm 1528, MĐD “ cắt đất dâng hai châu Quy và Thuận “ (ĐVSKTT, tập III, tr 176). Thực ra “ hai châu Quy và Thuận đã bị nhà Tống chiếm từ đời Lý”. Vậy thì cũng có thể nói: "Hoàng Sa đã bị Trung Cộng chiếm từ thời Việt Nam Cộng Hoà, chúng ta nên cắt nhường luôn cho chúng". :fun1:

- Lần sau vào năm 1540, MĐD dâng cho nhà Minh 6 động ( động là đơn vị hành chính, có khoảng 280 hộ), nhưng nhiều tài liệu khác chỉ nói 4 động. Thực ra ,các động này trước kia thuộc Tàu. Năm 1427, các trưởng động xin theo về nhà Lê. Nhưng năm 1540, khi nhà Minh đe dọa đánh nhà Mạc, các trưởng động xin trở lại với nhà Minh ( trước khi có việc Mạc Đăng Dung đầu hàng). Trong biểu tấu đầu hàng, MĐD nói rõ: “ Thủ thần Khâm Châu (của Tàu) tâu xưng (bốn động) là đất của Khâm Châu. Nếu quả như vậy thì những đất ấy do triều trước họ Lê mạo nhận. Nay hạ thần xin tình nguyện dâng các xứ ấy lệ thuộc vào Khâm Châu” (ĐVTS, tr 150 -151).

Như vậy, không hề có việc cắt đất dâng cho Tàu, mà chỉ là việc “ của Tàu trả âm ty” mà thôi.

Bây giờ cũng có thể nói: "Ải Nam Quan, thác Bản Giốc, vịnh Bắc Việt và những vùng dân tộc thiểu số ở miền Bắc là của Trung Quốc,  ký hiệp ước nhượng cho Trung Cộng chỉ là  “ của Tàu trả âm ty” mà thôi".  :thua:

- Trở lại Thăng Long, họ Mạc vẫn xưng hoàng đế và Thái thượng hoàng, vẫn làm chủ nước Đại Việt. Không có bóng dáng người Tàu nào trên đất nước ta. Việc “ xin nội thuộc và xưng thần” chỉ mang tính hình thức để đánh lừa đám bá quyền Đại Minh. Bằng cách đầu hàng giả, MĐD đã giữ được độc lập thật cho Tổ quốc. Qua hành động này, MĐD không “ phản quốc” “ nhục nhã”, “ hèn hạ” như ai đó đã kết tội, mà ngược lại là một người đáng kính trọng vì đã dám hy sinh danh dự cá nhân cho đại cục của dân tộc, nhờ đó tránh được nguy cơ chiến tranh xâm lược từ nước láng giềng khổng lồ.

Vậy thì: "Mỗi lần Đại Hội Đảng và cắt cử người giữ chức trong chính phủ, các vị lãnh đạo đều sang Bắc Kinh triều kiến và xin thỉnh thị. Về nước, các ngài vẫn xưng Tổng Bí Thư, Chủ Tịch và Thủ Tướng, vẫn cai trị nước Việt Nam. Không có bóng dáng người Tàu nào trên đất nước ta (ý nói là quan binh, không tính dân thường). Hành động này, không “ phản quốc” “ nhục nhã”, “ hèn hạ”, mà ngược lại là đáng kính trọng vì đã dám hy sinh danh dự cá nhân cho đại cục của dân tộc, nhờ đó tránh được nguy cơ chiến tranh xâm lược từ nước láng giềng khổng lồ."

Rõ ràng là lịch sử luôn luôn lặp lại.  :cry1:

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592)   Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592) I_icon13Mon 04 Sep 2017, 10:21


NGỤY TẠO LỊCH SỬ ĐỂ GỠ TỘI BÁN NƯỚC TỪ HỒ CHÍ MINH ĐẾN NAY

Phuc Lien Nguyen

CSVN đã chính thức tôn vinh Mạc Đăng Dung bằng hai đường phố Hà Nội với tên Mạc Thái Tổ và Mãc Thái Tông. Việc tiếm quyền Nhà Lê có thể coi như việc thay đổ triều đại nội bộ. Nhưng cái tội lớn nhất của chính Mạc Đăng Dung là phản quốc một cách hèn hạ, nhục nhã, không xứng đáng mang tên của một con đường để nhắc nhở cho hậu thế. Suốt triều dài Lịch sử những ngàn năm, Dân Tộc Việt luôn luôn bị đe dọa, rồi bị xâm lăng bởi Bắc Phương. Dân Tộc Việt cần phải có những anh hùng bất khuất để có thể giữ gìn vẹn toàn lãnh thổ, giòng giống, tiếng nói Việt cho đến ngày nay.

Biển Đông, Hoàng Sa, Trường Sa… bị chiếm đóng lúc này. Trên đất liền, đảng CSVN đã bán cho Tầu những khu kinh tế. Việc Tầu chiếm đóng từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau đã rõ rệt thành hình da báo. Hội nghị Thành Đô đang đe dọa biến Việt Nam thành một tỉnh của nước Tầu. Xâm lăng Kinh tế còn trầm trọng hơn nữa : hàng hóa Tầu tràn ngập Việt Nam làm tê liệt mọi ngành sản xuất.
Mối đe dọa mất nước như gần kề khó tháo gỡ. Chính trong lúc ấy thì đảng CSVN lại muốn xây 58 tượng đài Hồ Chính Minh, một người Tầu hay một người Việt phản quốc bán đất biển. Chúng tôi nhớ lại việc con hát Cộng sản đã sang Tầu trước đền Mã Viện, đã đóng tuồng như nhạo báng Hai Bà Trưng. Một nhà Sư quốc doanh đã công kích LÝ THƯỜNG KIỆT « vô lễ » dám mang quân tấn công địch trên đất Tầu. Rồi ngày nay, đảng CSVN lại tôn vinh Mạc Đăng Dung, một kẻ không còn thể diện đem đất và dân dâng cho quan Tầu.
CSVN như mang mặc cảm tội lỗi bán đất và biển cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc, nay sử dụng ngụy biện Lịch sử để mong xóa cái tội Trời không tha, Đất không dung của mình.

Bản Tin Lễ đặt tên đường Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông

10h sáng 25/8, UBND Thành phố Hà Nội làm lễ gắn biển cho hai phố mới mang tên hai vị vua họ Mạc là Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông thuộc địa bàn hai phường Yên Hòa và Trung Hòa (quận Cầu Giấy, Hà Nội).
CSVN viện lẽ cho việc tôn vinh này như sau :
« Việc phản đối đặt tên đường Mạc Thái Tổ là không có cơ sở. Có chăng, đó chỉ là sản phẩm của một thứ chủ nghĩa dân tộc lạc loài, một tâm lí “chính thống” không đến nơi và một “chiêu bài” chống Trung Quốc mang màu sắc hiện tại mà thôi… »

* một tâm lí « chính thống » không đến nơi

CSVN muốn nói tới việc trung thành với triều đại đã cưu mang, nuôi dưỡng mình. Những chữ không đến nơi ở đây phải đặt cái tâm lý ở thời đại cổ và thời đại ngày nay mới có thể phán đoán được. Việc phán đoán này tất nhiên là tương đối.

* sản phẩm của một thứ chủ nghĩa dân tộc lạc loài

CSVN muốn phế bỏ chủ nghĩa dân tộc để đấu tranh cho chủ nghĩa đại đồng của Cộng sản quốc tế, nghĩa là vô tổ quốc. Điều này có nghĩa là nước Việt Nam của riêng Dân Tộc VN hay nước Việt Nam nay thuộc về Trung Cộng cũng giống nhau. Ý đồ này đang bị Dân Tộc VN phỉ nhổ.

* một “chiêu bài” chống Trung Quốc mang màu sắc hiện tại mà thôi…

Việc chống Trung quốc là Ý chí và cố gắng thực hiện của Dân Tộc Việt Nam chứ không phải là một « chiêu bài » mà CSVN cố gán cho một số người. Không có ý chí này của Tổ Tiên, thì đất nước Việt Nam về tay Hán Tộc đã từ lâu. Việc đảng CSVN bán đất, biển cũng là một sự thật hiển nhiên mà toàn Dân đang phải nỗ lực chống lại lúc này.

Tóm lại, những lý do đưa ra để đặt tên đường phố cho một kẻ phản quốc không đứng vững được. Việc gượng gạo đưa ra những lý do chứng tỏ CSVN đã bị mặc cảm vì tội bán nước của mình. Ngụy biên Lịch sử một cách gượng gạo không đủ để xóa được tội phản quốc của đảng CSVN. Cái tội này Trời không tha, Đất không dung và sẽ truyền lại cho con cháu sau này để tiếp tục xỉ vả cái đảng phản bội của Hồ Chí Minh.

Mạc Đăng Dung, tên phản bội hèn hạ trước quan nhà Minh

Chúng tôi ghi lại đây Bài viết phản ứng lại của một Sử gia tại Quốc nội (muốn dấu tên) được phổ biến trên Facebook và các Diễn Đàn Internet ngày 28.08.2015 :

Sau đây là những lý do cho thấy sự hèn hạ bán nước của Mạc Đăng Dung. Những lý do này được Sử Trung quốc và Việt Nam đồng ghi chép tỏ tường.

Thứ nhất, đối sách ngoại giao của nhà Mạc dâng đất, dâng sổ hộ tịch kể cả việc xin nội thuộc nhà Minh, chấp nhận trở thành những "ty" lệ thuộc tỉnh Quảng Tây thì đó là một sai lầm, không thể coi là có công với đất nước. Sự việc ấy do 2 vị Mạc Thái Tổ, Thái Tông chủ trương, thực hiện, cho nên việc đặt tên đường cho hai vị cần phải tính đến.

Thứ hai là việc "giải mã" sự việc được gọi là "nghi án" này. Sự kiện lịch sử ấy đã được các bộ sử của ta và cả Minh sử ghi chép khá rõ ràng. Khâm định Việt sử thông giám cương mục đã tham bác các sách, biện luận, dưới đây xin trích ra một số sự kiện chính từ ghi chép của bộ sử này như sau:

- Ngày 3 tháng 11 năm Canh Tí (1540)"Bọn Mao Bá Ôn thiết lập mạc phủ và tướng đài ở Nam Quan…" "Đến kỳ đã định, Đăng Dung… cùng cháu là Văn Minh và bè đảng là bọn Vũ Như Quế hơn 40 người do đường Nam Quan đi sang; ai nấy buộc dây vào cổ, đi chân không, gieo mình vào mạc phủ tướng Minh, khúm núm, phủ phục, khấu đầu lạy, dâng tờ biểu xin hàng, nộp trình sổ sách đất đai và nhân dân do mình cai quản. (Việt sử thông giám cương mục, Chính biên XXVII, Bản dịch của Viện Sử học in năm 1959, tr. 1337). (Mạc phủ, nơi Mạc Đăng Dung và hơn bốn mươi thuộc hạ đầu hàng, về sau được gọi là Thành Thụ hàng).

- "Đăng Dung lại xin hàng, dâng đất các động Ti Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, La Phù, An Lương thuộc châu Vĩnh An ở An Quảng để lệ vào Khâm Châu. Lại xin nhà Minh ban cho chính sóc và ấn chương đã làm từ trước để Đăng Dung coi giữ việc nước trong khi chờ đợi mệnh lệnh có thay đổi hoặc quyết định ra sao" (Sách đã dẫn tr. 1338).

- Cương mục cũng ghi thêm: "Năm Mạc Minh Đức thứ 2 (1528), Sử cũ chép Mạc Đăng Dung sợ nhà Minh hỏi tội, bèn tính chuyện cắt đất đem dâng hai châu Quy, Thuận, vua Minh thu nhận. Từ đó Nam Bắc lại đi lại thông hiếu".(Sách đã dẫn tr. 1338).

- Tháng 10 mùa đông, Mạc Phúc Hải, Quảng Hòa năm thứ 1 (1541). "Nhà Minh đổi nước An Nam làm An Nam đô thống sứ ty, trao cho Đăng Dung chức Đô thống sứ, đổi đặt toàn quốc làm mười ba tuyên phủ ty, cho lệ thuộc vào đất nhà Minh" (Sách đã dẫn tr. 1340).

- "Nhà Minh bèn đổi nước An Nam làm Đô thống sứ ti, cho Đăng Dung làm Đô thống sứ, phẩm trật vào bậc tòng nhị (còn kém chánh nhị phẩm), ban cho ấn chương khác và cho đời được cha truyền con nối. Còn các nghi thức mà Đăng Dung tiếm dùng đều bắt tước bỏ hoặc cải chính lại. Trong mười ba lộ như Hải Dương, Sơn Nam vân vân đều đặt tuyên phủ ty, mỗi ty đặt một tuyên phủ đồng tri, một tuyên phủ phó sự và một tuyên phủ thiêm sự, dưới quyền cai quản của đô thống sứ. Tất cả các ty trên đây đều cho lệ thuộc vào Quảng Tây phiên ty (Sách đã dẫn tr. 1341).

Cũng theo Cương mục thì Mao Bá Ôn (nhà Minh) còn đem gấp tờ tấu lên vua Minh đề xuất việc hàng năm bắt nhà Mạc "phải lên Nam Quan lĩnh lịch được ban", lễ cống năm trước còn thiếu, kiểm tra theo lệ ngạch, "bắt năm sau phải nộp bổ sung cho đầy đủ" (Sách đã dẫn tr. 1340). Cương mục cũng ghi danh mục cống vật, Mạc Phúc Hải cống năm 1542 trích từ Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn.

(còn tiếp)
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content




Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592) Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592)   Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592) I_icon13

Về Đầu Trang Go down
 
Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc (1527-1592)
Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Similar topics
-
» Truyện xưa - Ái Hoa
» Kính chào Thầy - Tỷ = Không Đăng
» ĐẠI LỄ KN 100 NĂM Ngày Sinh TỔ MINH ĐĂNG QUANG
» Đăng lại thơ Đường chọc giận lãnh đạo, tỷ phú TQ bị trừng phạt
» Đừng Bắt Thầy Cô.. Đăng Ký Chỉ Tiêu
Trang 1 trong tổng số 2 trangChuyển đến trang : 1, 2  Next

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
daovien.net :: TRÚC LÝ QUÁN :: Lịch Sử-