Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesVietUniĐăng kýĐăng Nhập
Bài viết mới
BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN by Trà Mi Today at 09:55

EM CHIM HÁT HAY QUÁ by mytutru Today at 00:08

4 chữ by Tinh Hoa Yesterday at 20:23

Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 20:20

MÂY NGŨ SẮC 13.05.2024 by mytutru Yesterday at 15:05

Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Yesterday at 06:14

CÁC LOÀI CHIM ĐẸP by mytutru Sun 12 May 2024, 10:51

ĐÔI BÀN TAY NGHỆ NHÂN by mytutru Sun 12 May 2024, 00:04

Lục bát by Tinh Hoa Sat 11 May 2024, 14:33

QUY NHƠN TÔI YÊU by phambachieu Fri 10 May 2024, 16:51

Mái Nhà Chung by mytutru Thu 09 May 2024, 23:18

Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Thu 09 May 2024, 12:56

Lời muốn nói by Tú_Yên tv Thu 09 May 2024, 12:37

Một thoáng mây bay 13 by Ai Hoa Wed 08 May 2024, 10:00

Cột đồng chưa xanh (2) by Ai Hoa Mon 06 May 2024, 11:42

Chết rồi! by Ai Hoa Mon 06 May 2024, 11:31

LỀU THƠ NHẠC by Thiên Hùng Sun 05 May 2024, 11:06

Tranh Thơ Viễn Phương by Viễn Phương Fri 03 May 2024, 19:13

Người Em Gái Da Vàng by Viễn Phương Fri 03 May 2024, 06:36

Những Đoá Từ Tâm by Việt Đường Wed 01 May 2024, 21:49

7 chữ by Tinh Hoa Tue 30 Apr 2024, 10:59

5 chữ by Tinh Hoa Sun 28 Apr 2024, 22:27

Thi tập "Chỉ là...Tình thơ" by Tú_Yên tv Thu 25 Apr 2024, 12:56

Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Thu 25 Apr 2024, 12:51

Quán Tạp Kỹ - Đồng Bằng Nam Bộ by Thiên Hùng Wed 24 Apr 2024, 11:48

Trụ vững duyên thầy by Trà Mi Tue 23 Apr 2024, 07:34

THIỀN TUỆ (diệt trừ đau khổ) by mytutru Tue 23 Apr 2024, 00:07

Nhận dạng phụ nữ giàu có by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 08:36

Bức tranh gia đình by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 08:09

Mẹo kho thịt by Trà Mi Mon 22 Apr 2024, 07:29

Tự điển
* Tự Điển Hồ Ngọc Đức



* Tự Điển Hán Việt
Hán Việt
Thư viện nhạc phổ
Tân nhạc ♫
Nghe Nhạc
Cải lương, Hài kịch
Truyện Audio
Âm Dương Lịch
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
Đăng Nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập: 
:: Quên mật khẩu

Share | 
 

 Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Chuyển đến trang : Previous  1 ... 6 ... 8, 9, 10 ... 14 ... 19  Next
Tác giảThông điệp
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7115
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 9 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 9 I_icon13Fri 13 Sep 2019, 12:45

Ai Hoa đã viết:
Trà Mi đã viết:
Chương 11

Trần Dần (1926-1997)

● Phê bình Việt Bắc

Phê bình tập thơ Việt Bắc
là ngòi nổ công khai đầu tiên của phong trào NVGP. Việt Bắc của Tố Hữu được tôn sùng như cuốn "thánh kinh" của văn học cách mạng. Từ khi tác phẩm ra đời cuối năm 1954 cho đến ngày nay, bao nhiêu giấy bút đã dành cho sự ca tụng nó. Hiếm có nhà phê bình nào, dám viết một câu phạm thượng về Việt Bắc. Đúng như Lê Đạt nhận xét: "Ở Việt Nam người ta chưa quen chê anh Tố Hữu bao giờ" (339). Sở dĩ việc phê bình thơ Tố Hữu, không chỉ khép kín trong các buổi họp nội bộ quân đội, mà thoát ra ngoài, nhờ hai người: Tử Phác, thư ký toà soạn báo Sinh Hoạt Văn Nghệ, tung trên Sinh Hoạt Văn Nghệ trước. Rồi Lê Đạt, phụ trách Văn Nghệ, đưa lên Văn Nghệ sau.

Vũ Tú Nam viết:

"Ngày 4/3/1955, nổ ra cuộc họp đầu tiên tranh luận phê bình tập thơ Việt Bắc, Trần Dần gọi thơ Tố Hữu là "tí ti la haine, tí ti l'amour" (tí ti căm thù, tí ti tình yêu) một cách hằn học, đểu cáng. Ngày 7/3/1955, bắt đầu tranh luận phê bình Vượt Côn Đảo của Phùng Quán, Trần Dần gọi những chiến sĩ Côn Đảo trong truyện là những "người cụt đầu", "toàn tim", mù quáng (...) Bài phê bình Vượt Côn Đảo của Trần Dần lệch lạc nguy hiểm như vậy, nhưng cũng có một số đồng chí trong quân đội không nhận ra, viết bài hưởng ứng. Cuối tháng 3/1955, khi duyệt những bức thư bạn đọc chung quanh việc phê bình Vượt Côn Đảo để in báo Sinh hoạt Văn nghệ, Cục Tuyên huấn quyết định bỏ bớt một số bài tán thành Trần Dần. Lúc này, Trần Dần phản ứng rất mạnh, gọi lãnh đạo là "répression policière!" (đàn áp kiểu cu-lít). Và  đầu tháng 4/1955, mượn cớ đau óc, Trần Dần xin nghỉ dài hạn, bỏ công tác, bỏ doanh trại bộ đội, tự tiện ra ngoài phố ở." (340)

Về không khí các buổi phê bình thơ Tố Hữu, Vũ Tú Nam ghi trong nhật ký, như sau:

5/3/1955: Tối qua, tranh luận về thơ Tố Hữu ở Cửa Đông, anh Nguyễn Chí Thanh tới (...) anh em đông lắm, cả Hồ Dzếnh. Hoàng Yến trình bày vấn đề “khả năng hiện thực trong thơ Tố Hữu - Tố Hữu có tiêu biểu cho thời đại không?” Trần Dần, Lê Đạt nói bốc nhất. Hoàng Trung Thông, Nguyễn Xuân Sanh ngồi ghi mà không nói gì. Tố Hữu không tới, Xuân Diệu không tới.

8/4/1955: Đêm 7-4, phê bình thơ Việt Bắc ở 51 Trần Hưng Đạo đến 12 h khuya. Dần tâm sự khi anh đi xe đạp có hai bộ đội theo dõi (?). Tối vào nhà bạn, lúc ra Dần bị bộ đội giữ mấy tiếng. Mình báo cáo sự việc với chi ủy. Trần Việt nói: Dần vào 69 Quán Thánh, nhà Hoàng Cơ Bình cũ, nên có thể bị theo dõi.

15/4/1955: Đêm qua, thảo luận về thơ Việt Bắc đến 12h đêm. Hoàng Yến, Trần Dần, Hoàng Cầm nói gay gắt. Trương Tửu tranh luận rất phản khoa học. Huy Cận ngồi im. Tạ Hữu Thiện nói nhiều suy diễn, ví dụ cho đoạn nào là giống Kiều… Hoàng Cầm dẫn thơ Hồ Xuân Hương để chứng minh "chất sống" và "hồn thơ" của nữ thi sĩ.
(341)

Trong bài Cách nhìn sự vật của nhà thơ Tố Hữu, viết tháng 5/55, Trần Dần viết: "Nói chung thơ Tố Hữu có rất nhiều cái lười biếng. "Ý lời tầm thường (...), rất nhiều cái kiểu "lòng ta xao xuyến, rung rinh", - "chúng bay chỉ một đường ra, một là tiêu diệt hai là tù binh", - hoặc "đời vẫn ca vang núi đèo", hoặc "Cụ Hồ sáng soi". Không phải là thiên lệch trích ra một số câu như vậy, hãy đọc lại cả tập Việt Bắc xem, ta thấy nhan nhản những lối lười, nhạt, cả lảm nhảm nữa (...) Phá đường: "Nhà neo việc bận vẫn đi" - làm thì thi đua -, thi đua kết quả thì rồi mai địch chết. Ta đi tới: đủ cả Bắc Nam, Việt, Miên, Lào, Itsala, Itsarắc... xem ra thì có vẻ đúng chính trị. Nhưng xét sâu xem? (...) Tố Hữu nhìn sự vật nó chính trị công thức quá, lười tìm tòi quá. Chỗ nào hay thì là lập lại Nguyễn Du, Tản Đà, ca dao... Tố Hữu chưa đem tới một cái nhìn mới mẻ gì. (342)

Tiễn đưa Trần Dần, Nguyễn Hữu Đang ghi sổ tang:

"Lần đầu gặp anh trong cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc, đến nay dù hơn bốn mươi năm, biết bao là gian nan, trong những cố gắng chung để tìm cho văn nghệ Việt Nam một con đường phát triển thuận lợi nhất. Đúng hay sai, hôm nay tôi vẫn chưa dám khẳng định... Dù sao thiện chí của chúng ta chỉ có kẻ ác ý mới cố tình phủ nhận. Tiễn đưa anh về cõi vĩnh hằng, có lẽ tôi chỉ có thể nhắc lại cùng anh vế đối của Ngô Thì Nhậm nói cái lẽ tất yếu: Gặp thì thế, thế thì phải thế. (...) Cả nước biết lúc nào anh cũng có tư tưởng Nhất định thắng, dù cho ý chí ấy anh không đạt được thì cũng vẫn là phẩm giá cao đẹp của một con người" (343).

● Trần Dần ghi


Về NVGP, có những sự việc đã bị chôn sống, tưởng rồi sẽ tan trong lòng đất. Có những sự thực đã bị bóp méo đến độ dị dạng. Trong hơn nửa thế kỷ, người ta đã quen sống với những quái thai dị đạng đó: những xuyên tạc, bôi nhọ được đề cao như những chân lý. Ngờ đâu, những con chữ trong hòm lại có ngày đứng dậy, thuật lại truyện mình. Tập Trần Dần ghi 1954-1960 (344) là một trong những tư liệu hòm, tự khai, tự quật. Tác phẩm mở ra những dòng chữ đầu tiên để lấp những trang còn trắng về một thời kỳ văn học sử, còn chưa được biết, còn chưa được viết.

Tập Trần Dần ghi 1954-1960 thực chất là ba quyển sách gồm một: Phần đầu tích lũy những suy nghĩ về sáng tạo. Phần thứ nhì, tác giả quay lại chiến dịch đấu tố với những hình ảnh khủng khiếp kinh hoàng. Phần thứ ba, viết về cuộc sống cải tạo trong những năm kỷ luật. Với một lối viết tốc ký, ngắn gọn, thể hiện mỹ học khổ đau của Trần Dần.

Chuyện cải tạo sau Nhân Văn, nằm trong lối tốc ký ấy:

"9/9/58 (...) Ðêm, tôi thiếp đi trong mộng ác. Tay mưng, đau nhất là ở những chỗ đã thành chai mà lại mưng tái lại. Mọi bắp thịt suốt đêm lọc acide, và chôn cất những tế bào chết vì lao lực quá sức... Lục đục suốt đêm như vậy trong toàn bộ xác thịt tôi.

10/9/58 (...) Gió khiếp quá. Hàng sư đoàn gió bấc trèo qua núi lúc nào đổ xuống đồng cỏ. Suốt buổi sáng, mùa hè bị đánh tan nát. Nắng bị gió may thổi mát đi, nguội lửa.

Gió tốc mái, rứt mấy lá gồi chuồng bò. Cây cành bị túm tóc, vật vã kêu gào, gió vẫn không tha. Các tàu chuối bị tước xơ ra. Có tàu rách mướp, trông hệt một con rết xanh khổng lồ, hàng nghìn chân xanh ngọ ngoạy điên cuồng, cào trong không khí, cái đuôi nó bị giữ rịt ở thân, nó lồng lộn ngang ngửa, không thoát. (...)

Các nón lá bị gió nó hất chụp mặt. Nó kéo ra sau, quai nón xiết cổ như thừng thắt cổ! Bụi phả vào mắt chúng tôi, chưa dụi xong, gió đã ném thêm. Bọn tôi đào gốc, đã nhọc, còn bị lũ gió may kia trêu chọc. Nó đùa dai chứ... Có lúc tôi cuốc đất, mắt nhắm tịt, một anh mù làm việc"
(345).

Về những ngày sôi động sau 2 cuộc Chỉnh huấn ở Thái Hà ấp, 16/4/1958, Trần Dần ghi:

"Hiện nay Nguyễn Hữu Ðang, Thụy An, Minh Ðức đã bị bắt, chẳng bao lâu sẽ ra tòa. Báo chí vẫn tiếp tục diệt đánh Nhân Văn Bộ 6 Giai Phẩm Mùa Xuân
(346). Bộ 6 đã buông nhau ra. Bọn Nhân Văn Giai Phẩm cũng ô-rơ-voa (347) nhau hết (...) Sỹ Ngọc đóng cửa, miễn tiếp khách. Bản thân tôi, do chỗ đã tự giác đình bản tư tưởng thù địch (thứ tự giác kết quả của áp lực...) nên mọi mặt khác, tôi cũng đình bản cả giao du, đình bản cả việc viết lách. Có nên đi gặp những đồng chí lãnh đạo để hỏi những việc cần phải làm không? Ði thì lại sợ bị hiểu lầm. Nhưng nếu ngồi nhà, tiêu cực đợi, có khi còn bị hiểu lầm gấp bội. (...)

Bọn Ðang - Minh Ðức - Thụy An thân thì bị cầm tù, tội ác thì đem bêu đầu trên báo chí. Vai trò của bọn chúng trong các vụ phá hoại 3 năm đang được vạch trần. Phan Khôi thì đóng cửa, nằm khàn, không đọc báo. Trương Tửu, Trần Ðức Thảo làm gì? Còn cả loại B chúng tôi hiện ra sao? Làm gì? Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Ðạt đang tiếp tục kiểm thảo ở cơ quan, cùng với những Quang Dũng, Trần Lê Văn, v.v...

Chúng tôi đi sâu vào kiểm điểm sáng tác hơn nữa. Kiểm điểm sáng tác cho sâu mới thật là khó sao! Cứ như phải rứt bỏ một mảng thịt của mình.(...) Tôi chịu cái hình phạt ấy, nhẫn nại và đau khổ. Hình phạt của một người bị bung dừ (...) Tôi vừa là một tội nhân, vừa phải cố tách mình ra, làm một đao phủ thủ, hành hạ cái chủ nghĩa xét lại có thực trong tôi và đám Nhân Văn"
(348).

Những người nhân văn ấy, đã phải nhận tội, phải "cắt bỏ những mảng thịt của mình", phải tự chửi rủa mình, phải tìm gặp lãnh đạo, phải tố cáo bạn bè để xin một chút ơn huệ thừa, nhưng rồi cũng không ai thoát được guồng máy, không ai tránh khỏi bị "ninh nhừ".

Con người nhất định thắng ấy, sau trận Thái Hà, đã thua, đã hàng, đã nhận tội, đã ly khai những lý tưởng ngày trước, đã phải đứng về phía bên này, để nhìn "bọn" bên kia: gồm những "tên thủ lĩnh chủ nghiã xét lại" Nguyễn Hữu Đang, "tên phá hoại" Minh Đức, "con mụ gián điệp" Thụy An..., đã xuống đến nấc thang cuối cùng của sự "giẻ rách hoá" con người.

10/12/ 59, Trần Dần ghi: "Sớm mai tòa án xử Thụy An gián điệp và Nguyễn Hữu Ðang phá hại, cả hai: hiện hành. Tôi không có giấy gọi cho dự, có lẽ vì không có vị trí gì ở đó. Không phải là nhân chứng, cũng không phải là đại biểu của nhân dân...

Người có một cái gì văng vắng. Tôi đã có đứng với nhóm Ðang cầm đầu. Tôi đã ly khai với "lý tưởng" đó. Cả khi đứng ở đó, cả khi ly khai, cả bây giờ, tôi vẫn cứ rớm máu. Chao ơi! Con đường để đi đến chỗ "Đúng" mới nhiều máu làm sao? Tương lai có để dành cho tôi nhát dao nào nữa không? Đang đã nhìn thấy cái sai lớn của Đang chưa? (...)

Ngoài trời mưa bụi. Rét xoàng. Không có gió. Ðôi lúc vài tiếng chuông xe đạp. Năm nay rét muộn. Ðang ra tòa cuối năm. Tôi cũng không thể nào nhởn nhơ với sự kiện này. Chao ôi! Con đường để đi tới chỗ "Ðúng" mới nhiều máu làm sao!"
(349)

Từ lâu "ghi trở nên một hình phạt". Nhưng vẫn ghi.

Cuốn sổ 1958, ghi lại con đường của những người muốn ngoi lên để đi đến chỗ "Đúng". Ai cũng muốn tìm một đường "máu" để thoát thân: biết đâu Đảng chả đoái thương mà nghĩ lại? Phương tiện nào cũng tốt kể cả "khai". Cả "tố".

Bao nhiêu khuôn mặt đã bước trên con đường "nhiều máu "ấy? Trần Dần ghi. Bao nhiêu khuôn mặt đã vo ve sự "Đúng" ấy? Trần Dần ghi. Bao nhiêu tên tuổi đã đạt được sự "Đúng" ấy? Trần Dần ghi. Bao nhiêu khuôn mặt đã "Sai." Trần Dần ghi.

Cả đúng lẫn sai đều lầm than, đều tiến dần tới tha hóa. Họ tan tác cả. Họ chia tay. Có những oán hận, căm thù. Chính quyền đã thành công trong sự "giẻ rách hoá" con người, như lời Lê Đạt.

Thành công lớn nhất của guồng máy là đã đánh vào những yếu tố thiêng liêng nhất của con người: đánh vào tình bạn, tình người, đánh tan tác hết. Những người nhân văn không chết, nhưng họ bị rút máu, rút gân, rút dần sinh lực. Họ đều rời rã, đều muốn hàng. Nhiều người đã đầu hàng, trong đó có Trần Dần. Họ muốn được lãnh đạo thương xót, họ muốn được lãnh đạo đoái hoài. Họ đã xuống đến đáy vực, họ chịu hết nổi. Họ sẵn sàng "chút lòng trinh bạch từ nay xin chừa" nhưng người ta vẫn lạnh lùng quay đi. Người ta vẫn không cho ngoi lên. Cái phận người nhỏ nhoi. Phận người nhân văn bị sa lầy, lún xuống, trong thời không nhân văn của dân tộc mình. Câm và điếc. Như đã chết.

Và điều đó chỉ có mỹ học khổ đau của Trần Dần mới viết nên được.


_____________________

(339) Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.

(340) Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần.

(341) Vũ Tú Nam, Những ngày thử thách, nhật ký chép lại, bđd.

(342) Nhật ký Trần Dần ghi, trang141.

(343) Bài điếu của Nguyễn Hữu Đang, in lại trong Trần Dần ghi, trang 460.

(344) Văn Nghệ, California, 2001.

(345) Trần Dần ghi, trang 334-335.

(346) Hoàng Cầm, Văn Cao, Lê Ðạt, Trần Dần, Sỹ Ngọc, Tử Phác.

(347) Au revoir, tạm biệt.

(348) Trần Dần ghi, trang 244, 245- 260.

(349) Trần Dần ghi, trang 376.


Lãnh đạo VN oai hơn cả hoàng đế ngày xưa, Cao Bá Quát chê thơ vua Tự Đức còn chưa đến nỗi bị chém đầu!   :potay:

có "Thực dân mới" thì cũng có "Phong kiến mới" á thầy, còn bây giờ là... Tư bản mới!  lol2
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7115
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 9 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 9 I_icon13Fri 13 Sep 2019, 13:12

Chương 12

Hoàng Cầm (1922-2010)


Những văn nghệ sĩ thành viên chính của NVGP phần lớn đều đã giữ trọng trách trong nền văn nghệ kháng chiến: Lê Đạt làm thư ký riêng cho Trường Chinh (1947), rồi phụ tá cho Tố Hữu (1949). Tử Phác, làm trưởng phòng Văn Nghệ Tuyên Huấn Trung Ương (1951). Đặng Đình Hưng, đoàn trưởng kiêm chính trị viên đoàn Văn Công Nhân Dân Trung Ương (1952). Hoàng Cầm, đoàn trưởng Văn Công Tổng Cục Chính Trị (1952). Trong bài Múa sạp thấu lòng Tử Phác (350) Hoàng Cầm cho biết, thời 51- 52, Tử Phác là "cấp trên" của ông, chính Tử Phác đã "chỉ thị" cho Hoàng Cầm (trưởng đoàn văn công) và Mai Sao, nghiên cứu và thực hiện điệu múa sạp.

Những chi tiết trên đây giải thích tại sao NVGP có thể thành tựu được, bởi những văn nghệ sĩ chủ trương phong trào, nắm giữ các cơ sở chính của nền văn nghệ kháng chiến lúc bấy giờ: Trong quân đội, Tử Phác trách nhiệm báo Sinh Hoạt Văn Nghệ (tiền thân của Văn Nghệ Quân Đội). Về dân sự, Lê Đạt và Nguyễn Hữu Đang trách nhiệm tờ Văn Nghệ. Hoàng Cầm và Đặng Đình Hưng điều khiển toàn bộ Văn công quân đội và dân sự. Từ tháng 1/1956, Hoàng Cầm nắm nhà xuất bản Văn Nghệ, vì vậy mà một số tác phẩm không chính thống đã được in trong những năm 1956 -1958.

Hoàng Cầm sinh ngày 22/2/1922, tại làng Phúc Tằng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang; nguyên quán làng Lạc Thổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh; mất ngày 6/5/2010 tại Hà Nội. Tên thật là Bùi Tằng Việt (chữ ghép của Phúc Tằng và Việt Yên). Cha: Bùi Văn Nguyên, dạy học và làm thuốc, có thời đã theo Quốc Dân Đảng, là bạn của Xứ Nhu, tức Nguyễn Khắc Nhu. Mẹ: Nguyễn Thị Duật, bán hàng xén. Bút danh khác: Lê Thái, Lê Kỳ Anh, Bằng Phi... Học tiểu học ở Bắc Giang. 1937, đỗ Cao đẳng tiểu học ở Bắc Ninh. 1938, ra Hà Nội học trường Thăng Long; 1940, đỗ tú tài.

Làm thơ từ 8 tuổi. Những bài thơ đầu tiên được đăng trên báo Bắc Hà, năm 1936, ký tên Bùi Hoài Việt, có truyện ngắn đăng trên báo Đông Pháp.

Tác phẩm thành danh Hoàng Cầm là kịch thơ Hận Nam Quan viết năm 1937, ở tuổi 15, lúc còn học đệ tứ ở Bắc Ninh (in năm 1942). Hận Nam Quan được dạy trong vùng quốc gia trước 1954.

1938, đỗ Diplôme (Cao đẳng tiểu học) ở Bắc Ninh. Lên Hà Nội học trường Thăng Long và bắt đầu nghề văn. 16 tuổi, vừa học vừa làm cho nhà xuất bản Tân Dân và tạp chí Tiểu Thuyết Thứ Bẩy của Vũ Đình Long. Sáng tác nhiều truyện ngắn dưới bút hiệu Hoàng Cầm. Nổi tiếng với Hận ngày xanh - phóng tác Graziella của Lamartine và những truyện rút trong Ngàn lẻ một đêm. Năm 1940, đỗ Tú Tài, tiếp tục sáng tác và làm việc với Vũ Đình Long từ 40 đến 44.

1940, cưới người vợ đầu Hoàng Thị Hoàn.

1942 viết kịch thơ Kiều Loan.

Cuối 1944, vì tình hình chiến sự, Mỹ ném bom chợ Hàng Da, nhà xuất bản Tân Dân phải dọn về làng Tám ở ngoại thành. Hoàng Cầm trở về Bắc Giang đưa gia đình về quê Thuận Thành.


Tháng 9/1945, Hoàng Cầm cùng Hoàng Tích Chù lập ban kịch Đông Phương. Ngày 26/11/46, Kiều Loan được trình diễn lần đầu tại nhà Hát Lớn Hà Nội. Buổi duy nhất, rồi bị Trần Duy Hưng, Chủ tịch Ủy ban Giải phóng Hà Nội ra lệnh cấm, lý do: Pháp đã tấn công Hải Phòng. Ban Kịch Đông Phương đem Kiều Loan đi lưu diễn ở Bắc Ninh, Bắc Giang, Sơn Tây, Thái Bình... tại các đình làng.

Ngày 19/12/46, chiến tranh bùng nổ, ban kịch Đông Phương phải giải tán. 1947-1948: Hoàng Cầm và Tuyết Khanh (diễn viên chính, đóng vai Kiều Loan) sống chung, giữa 1947, hai người cùng gia nhập Vệ Quốc Đoàn. Hoàng Cầm sáng tác Đêm liên hoan. Thành lập Đội văn nghệ tuyên truyền đầu tiên trong quân đội. Điều khiển và phát triển đoàn Văn Nghệ Liên Khu Việt Bắc từ 1948 đến 1952. 1948, sáng tác Bên kia sông Đuống.

Tháng 7-8/1950, Đại Hội Văn Nghệ I họp tại Việt Bắc, quyết định loại trừ: tuồng, chèo, vọng cổ, và kịch thơ... ra khỏi nền văn nghệ cách mạng. Hoàng Cầm phải tuyên bố "treo cổ" kịch thơ của mình. Việc này sẽ được ông phản bác trong băng ghi âm - chúng tôi sẽ nói đến sau.

Tháng 7/1952, tướng Nguyễn Chí Thanh điều động Hoàng Cầm về làm đoàn trưởng đoàn Văn Công Tổng Cục Chính Trị đến đầu năm 1955.

1954, Hoàng Cầm, được cử tổ chức buổi Liên hoan mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, đưa vào màn quan họ Bắc Ninh "Yêu nhau cởi áo cho nhau", và bị "đả đảo!" "đồi trụy!". Tướng Nguyễn Chí Thanh can thiệp để đoàn văn công tiếp tục trình diễn hết màn quan họ.

10/10/54 Hoàng Cầm và đoàn văn công Tổng Cục Chính Trị về tiếp quản Hà Nội.

1/1/1955, Văn công quân đội chia làm ba đoàn, Hoàng Cầm điều khiển đoàn 1, chuyên về kịch nói, trong thời gian này, ông tham dự việc đòi cải tổ chính sách văn nghệ quân đội cùng Trần Dần, Tử Phác, Lê Đạt... và phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu.

Tháng 4/1955, nộp đơn xin giải ngũ hoặc đổi sang Hội Văn Nghệ, vì bị Cục phó Cục Tổ Chức, thuộc Tổng Cục Chính Trị, buộc phải bỏ bà Lê Hoàng Yến.

Tháng 11/1955, được đổi ngành sang Hội Văn Nghệ, trách nhiệm nhà xuất bản Văn Nghệ.

Tháng 2/1956, cùng Lê Đạt chủ trương Giai Phẩm Mùa Xuân.

Tháng 9/1956, cùng Nguyễn Hữu Đang chủ trương Nhân Văn.

Tháng 6-7/1958, chịu kỷ luật cùng với Trần Dần, Lê Đạt, Tử Phác, Đặng Đình Hưng... tuy nhẹ hơn, chỉ bị một năm khai trừ khỏi Hội Nhà Văn, như Phùng Quán.

1982, bị bắt, tù 18 tháng vì tác phẩm Về Kinh Bắc.

1988, được "phục hồi".

Trong các bài đánh Hoàng Cầm, người ta thường dùng hai chữ "đồi trụy", nhắm vào đời tư: Hoàng Cầm nghiện thuốc phiện -như Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Tử Phác- và có nhiều vợ. Người vợ đầu, Hoàng Thị Hoàn, là em gái ông Hoàng Hữu Nghị, hiệu trưởng trường La Clarté ở Bắc Giang, cưới năm 1940, sinh con trai đầu lòng Bùi Hoàng Kỳ, và hai con gái Bùi Hoàng Yến -kịch sĩ, Hoàng Cầm nghi bị đầu độc chết- và Bùi Hoàng Oanh, chết đói cùng mẹ năm 1949. Bà Tuyết Khanh sống chung từ đầu 1947, đến tháng 1/48, sinh con gái, tên là Kiều Loan, nhưng hai người phải xa nhau. Sau đó ông sống với bà Xuyến, cô hàng xén chợ Hạnh. Từ tháng 5/1955 Hoàng Cầm sống với bà Lê Hoàng Yến, cựu hoa khôi Hà Thành, đã có 6 con riêng, ông có với bà Yến hai người con. Ông ly dị bà Xuyến khoảng 1956. Năm 1985, bà Lê Hoàng Yến đột ngột từ trần vì bị căng huyết áp trong lúc Hoàng Cầm -sau khi bị bắt, bị tù vì tác phẩm Về Kinh Bắc- bị bệnh tâm thần.

● Tác phẩm:

- Kịch thơ: Hận Nam Quan, viết 1937, Người Bốn Phương, 1942; Kiều Loan, viết 1942, diễn 1946, Văn Học, 1992; Lên đường, Tân Dân, 1952; Cô gái nước Tần, Tân Dân, 1952; Trương Chi, chưa xuất bản, trích trên Văn số 24, ngày 18/10/57, và Trăm hoa đua nở trên đất Bắc của Hoàng Văn Chí.

- Truyện: Thoi mộng, Tân Dân, 1940; Hai lần chết, Tân Dân, 1941.

- Kịch: Ông cụ Liêu, viết 1950, in 1951; Đêm Lào Cai, in 1957.

- Thơ: Mắt thiên thu, viết 1941, mất bản thảo; Bên kia sông Đuống, viết 1948, Văn Hoá, 1993; Tiếng hát quan họ, in chung trong tập Cửa biển, 1956; Về Kinh Bắc, viết 1959, Văn Học, 1994; Mưa Thuận Thành, Văn Hoá, 1987; Lá diêu bông, viết 1970, Hội Nhà Văn, 1993; Men đá vàng, truyện thơ, viết 1973, Trẻ, 1989; Về cõi em, viết 1992, chưa in.

- Dịch, phóng tác: Hận ngày xanh, phóng tác Graziella của Lamartine, Tân Dân, 1940; Bông sen trắng, truyện thần thoại của Anderson, Tân Dân, 1941; Những truyện thần thoại rút từ Nghìn lẻ một đêm: Mang xuống tuyền đài, Tân Dân, 1942; Cây đèn thần, Tân Dân, 1942; Tỉnh giấc mơ vua, Tân Dân, 1942; Những niềm tin, dịch thơ Boualem Khanfa, Algérie, 1965; Mối tình cuối cùng, dịch Dostoievski, Phụ Nữ, 1988, ...

- Trong Hoàng Cầm hồn thơ độc đáo, Đông Tây, 2011, Lại Nguyên Ân tìm được: Người điên, kịch thơ một màn, 1946; Quê hương, thơ, Văn Nghệ, 1955; Mẹ tôi kể lại, truyện thơ, Văn Nghệ, 1955; Hoa đào nở trước ngõ, truyện thơ, Văn Nghệ, 1956.

_____________________

(350) Hoàng Cầm văn xuôi, nxb Văn Học 1999, trang 129.


Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7115
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 9 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 9 I_icon13Mon 16 Sep 2019, 11:21

Chương 12

Hoàng Cầm (1922-2010)


● Địa vị Hoàng Cầm trong văn học

Trong ba nhà thơ tác nhân chính của phong trào NVGP, Trần Dần và Lê Đạt là đàn em. Hoàng Cầm thuộc thế hệ đàn anh, cùng thời với Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng.

Nét khác biệt giữa ba nhà thơ nằm trong chữ nghĩa, ví dụ cùng bối cảnh sông nước:

    Thuyền đi núi cũng phiêu bồng
    Đáy sông lẩn sắc cầu vồng trao nghiêng...
    Sông sâu chớp mắt thần linh
    Thuyền qua thạch động thấy mình cao bay

                                Thơ Đinh Hùng - Thủy mạc

    Thuyền ơi! Tóc chảy đêm vàng
    Giai nhân sóng soải hai hàng chiêm bao
    Chồng tôi phóng ngựa phương nào
    Mà dây vó sắt dẫm vào tuổi thơ

                                Thơ Hoàng Cầm - Kiều Loan

    Trăng liềm một mảnh lâng lâng bạc
    Nghiêng xuống cành dương lá lá rơi  
    Nhịp theo tiếng trúc cao vời
    Đất quay ngược hướng mơ trời Thuấn Nghiêu

                                Thơ Vũ Hoàng Chương - Tâm sự kẻ sang Tần

Thơ Đinh Hùng thanh thoát, nối kết âm-dương, trời đất-thủy thần. Đinh Hùng là nhà thơ của nước, của cõi âm. Thơ Hoàng Cầm diễm lệ, bi đát, hùng tráng hoà với đau thương, khổ đau tan trong mộng ước. Hoàng Cầm là nhà thơ của con người. Thơ Vũ Hoàng Chương điêu luyện, cao lộng, ẩn chí lớn tầm vóc càn khôn, Vũ Hoàng Chương là nhà thơ của vũ trụ.

Ba tài năng lớn của thi ca Việt Nam thế kỷ XX. Ba phận số. Phải chăng thơ luôn luôn vận vào người, nên trong ba nhà thơ, chỉ mình Hoàng Cầm mắc nạn chữ suốt đời. Vũ Hoàng Chương, trong Nhớ Đinh Hùng có nhắc đến Dạ Đài:

"Hùng đứng làm cố vấn cho một nhóm thi hữu trẻ tuổi hơn trong đó có Vũ Hoàng Địch, Trần Dzần, Trần Mai Châu để xuất bản một giai phẩm lấy tên Dạ đài. Quả là cái tên "tiền định" (351).

Khi Đinh Hùng mất, 24/8/1967, Vũ Hoàng Chương làm câu đối đặt trước áo quan:

Hồn sáu đường mê tìm Phật độ
Tình muôn trang sử mặc Trời ngâm


Và trong bài ai điếu trước mộ, câu:

Mênh mang một tiếng cười dài
Hồn lay bốn vách dạ đài cho tan!


Vũ Hoàng Chương tổng kết đời Đinh Hùng từ Dạ đài đến Mê hồn ca, Đường vào tình sử ... trong bốn câu thơ hàm súc, gợi buổi giao thời giữa thơ mới và thơ tượng trưng thập niên 1940 mà Hoàng Cầm, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, là những đại diện.

Tố Hữu làm thơ từ 1937, nhưng thập niên 40, chưa nổi tiếng. 1946, mới in tập Thơ (352). Theo Hoàng Cầm trong băng ghi âm, trước kháng chiến, Tố Hữu đã có thơ đăng báo nhưng chưa ai biết Tố Hữu là ai, riêng ông để ý đến bài Hồ Chí Minh vì nó có những câu thơ "khát máu" quá đáng. Tựu trung, Tố Hữu đáp ứng yêu cầu thơ tuyên truyền, thơ đánh địch, thơ ca tụng lãnh tụ, theo đúng đường lối của Đảng mà Trường Chinh đã vạch trong Đề cương văn hoá Việt Nam (1943) và Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam (1948).

Tập Việt Bắc, in năm 1954, xác định Tố Hữu là nhà thơ hàng đầu của Đảng. Sau khi dẹp xong NVGP, uy thế Tố Hữu càng lừng lẫy, thơ ông trở thành kinh điển trong văn chương cách mạng sau thơ Hồ Chí Minh. Trong số những người viết về Tố Hữu, Đặng Thai Mai có nhận định xác đáng hơn cả:

- "Tố Hữu là nhà thơ chỉ viết để phục vụ cách mạng từ trước đến sau".
- "Tình cảm trong thơ Tố Hữu là tình cảm của một chiến sĩ cộng sản, luôn luôn đứng trên lập trường của Đảng mà tranh đấu, suy nghĩ, cảm xúc".
- "Tưởng không cần nhắc lại một lần nữa rằng, trong các yếu tố đã xây dựng nên cái đặc sắc của thi sĩ, như trên kia đã nói, thì chính là hoạt động cách mạng theo đường lối của Đảng. Không có cái nội dung cách mạng đó, không có lập trường tư tưởng đó, thì cũng không có thơ Tố Hữu"
(353)

Đó là vị trí của Tố Hữu trong văn học.

Trong kháng chiến, Hoàng Cầm, Văn Cao, Phạm Duy, là ba nghệ sĩ có những đóng góp lớn. Ngoài sáng tác, Hoàng Cầm-Phạm Duy còn trình diễn khắp chiến trường Việt Bắc, xây dựng tinh thần kháng chiến quân. Giọng ngâm "oanh vàng đất Bắc" của Hoàng Cầm, xung động tinh thần tự hào của người lính Vệ quốc: "Rằng ta là Vệ Quốc Đoàn". Tiếng hát Phạm Duy giục giã thanh niên "cùng nhau xông pha lên đường" bảo vệ tổ quốc.

Hoàng Cầm ghi: "Từ sau cách mạng tháng Tám, Văn Cao với tôi và Phạm Duy đã trở thành bạn thân, lúc nào, ngày nào cũng có nhau, biểu diễn, sáng tác đều có nhau, thậm chí đi nghe hát ca trù (ả đào) hoặc đi uống rượu, đi cà phê sớm tối đều có nhau, khiến rất nhiều văn nghệ sĩ lúc bấy giờ đã gọi ba đứa chúng tôi là: "Bộ ba bất khả li” (Les trois inséparables). Vậy thì Văn Cao phải có mặt trong tập Giai Phẩm [Mùa Xuân] này chứ?" (354)

Cho kháng chiến, Hoàng Cầm đã góp hai lần xương máu: máu xương văn nghệ trong 9 năm sáng tác, trình diễn. Và xương máu gia đình: một vợ, Hoàng Thị Hoàn và một con, Bùi Hoàng Oanh, chết đói, 1949. Một em trai, Bùi Như Yên, chết trận, 1952.

Công lao Hoàng Cầm đối với văn học và kháng chiến giải thích một số vấn đề cụ thể:

- Hoàng Cầm có đủ tư thế văn nghệ để mời Văn Cao, Phan Khôi tham gia NVGP. - Hoàng Cầm là người Nguyễn Hữu Đang thuyết phục giúp Nhân Văn trước tiên.

- Hoàng Cầm có đủ uy tín cách mạng để đương đầu với Tố Hữu, bênh vực Trần Dần.

- Khi bị thanh trừng, Hoàng Cầm đã viết Về Kinh Bắc từ 1959, gián tiếp kết tội Đảng.

- 1982, Hoàng Cầm lại bị bắt, chính quyền tịch thu bản thảo Về Kinh Bắc.

Cuộc đời Hoàng Cầm gắn bó với lịch sử, không chỉ lịch sử kháng chiến, lịch sử NVGP, mà lịch sử dân tộc. Từ tác phẩm đầu tay Hận Nam Quan, Hoàng Cầm đã xác định con đường dân tộc: phải đề phòng phương Bắc, phải ghi nhớ Hận Nam Quan.

● Hận Nam Quan

Phi Khanh bị bắt sang Tàu, Nguyễn Trãi bí mật theo cũi cha, để cùng chết. Tới Nam Quan, Phi Khanh bắt con phải trở về, tìm đường khởi nghiã. Kịch thơ Hận Nam Quan, trước 1954, đã được giảng dạy trong vùng quốc gia, học sinh thuộc lòng những đoạn thơ:

    - Con yêu quý! Chớ xuôi lòng mềm yếu
    Gác tình riêng, vỗ cánh trở về Nam!
    Con về đi! Tận trung là tận hiếu
    Đem gươm mài bóng nguyệt dưới khăn tang
    (...)
    - Ôi sung sướng, trời sao chưa nỡ tắt
    Về ngay đi ghi nhớ Hận Nam Quan
    Bên Kim Lăng cho đến ngày nhắm mắt
    Cha nguyện cầu con lấy lại giang san.


Đó là trích đoạn bài học thuộc lòng thời tiểu học, nhưng toàn thể kịch thơ là một tác phẩm "cổ điển" của học sinh trung học. Trong những đêm văn nghệ Tết, học sinh miền Nam thường có màn trình diễn Hận Nam Quan. Hoàng Cầm đi vào lòng dân tộc như thế.

Hoàng Cầm 15 tuổi, nhưng thơ không hề non nớt, đã có những câu "tiên tri":

    Đây là ải địa đầu nước Việt
    Khóc trong lòng ghi nhớ Hận Nam Quan


15 tuổi, nhắc lại trang sử oanh liệt:

    Đây Nam Quan, quân Nguyên rời biển máu
    Thoát rừng xương, tơi tả kéo nhau về


15 tuổi, đe dọa quân Minh:

    Hỡi quân Minh! Sao không nhìn lịch sử
    Mà vội vàng ngạo nghễ xuống Nam phương?


15 tuổi, xác định lòng quật khởi của dân tộc:

    Một ngày mai, khi Trãi này khởi nghiã,
    Kéo cờ lên, phất phới linh hồn cha
    Gạt nước mắt, nguyện cầu cùng thiên địa
    Một ngày mai, con lấy lại sơn hà.


Nhưng bọn bán nước cầu vinh nào có nghe. Đó là bi kịch Hoàng Cầm và bi kịch chung của dân tộc.

_____________________

(351) Vũ Hoàng Chương, Nhớ Đinh Hùng, Loạn trung bút, Khai Trí 1970, trang 182.

(352) Năm 1959 in lại đổi tên thành Từ ấy.

(353) Đặng Thai Mai, Mấy ý nghĩ, viết ngày 10/4/1959, in trong tập Từ ấy, thơ Tố Hữu, Văn Học, 1959.

(354) Cái gì thúc đẩy thơ, Hoàng Cầm văn xuôi, trang 221.
Về Đầu Trang Go down
Ai Hoa

Ai Hoa

Tổng số bài gửi : 10564
Registration date : 23/11/2007

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 9 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 9 I_icon13Mon 16 Sep 2019, 15:09

Trà Mi đã viết:
Chương 12

Hoàng Cầm (1922-2010)


● Địa vị Hoàng Cầm trong văn học

Trong ba nhà thơ tác nhân chính của phong trào NVGP, Trần Dần và Lê Đạt là đàn em. Hoàng Cầm thuộc thế hệ đàn anh, cùng thời với Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng.

Nét khác biệt giữa ba nhà thơ nằm trong chữ nghĩa, ví dụ cùng bối cảnh sông nước:

    Thuyền đi núi cũng phiêu bồng
    Đáy sông lẩn sắc cầu vồng trao nghiêng...
    Sông sâu chớp mắt thần linh
    Thuyền qua thạch động thấy mình cao bay

                                Thơ Đinh Hùng - Thủy mạc

    Thuyền ơi! Tóc chảy đêm vàng
    Giai nhân sóng soải hai hàng chiêm bao
    Chồng tôi phóng ngựa phương nào
    Mà dây vó sắt dẫm vào tuổi thơ

                                Thơ Hoàng Cầm - Kiều Loan

    Trăng liềm một mảnh lâng lâng bạc
    Nghiêng xuống cành dương lá lá rơi  
    Nhịp theo tiếng trúc cao vời
    Đất quay ngược hướng mơ trời Thuấn Nghiêu

                                Thơ Vũ Hoàng Chương - Tâm sự kẻ sang Tần

Thơ Đinh Hùng thanh thoát, nối kết âm-dương, trời đất-thủy thần. Đinh Hùng là nhà thơ của nước, của cõi âm. Thơ Hoàng Cầm diễm lệ, bi đát, hùng tráng hoà với đau thương, khổ đau tan trong mộng ước. Hoàng Cầm là nhà thơ của con người. Thơ Vũ Hoàng Chương điêu luyện, cao lộng, ẩn chí lớn tầm vóc càn khôn, Vũ Hoàng Chương là nhà thơ của vũ trụ.

Ba tài năng lớn của thi ca Việt Nam thế kỷ XX. Ba phận số. Phải chăng thơ luôn luôn vận vào người, nên trong ba nhà thơ, chỉ mình Hoàng Cầm mắc nạn chữ suốt đời. Vũ Hoàng Chương, trong Nhớ Đinh Hùng có nhắc đến Dạ Đài:

"Hùng đứng làm cố vấn cho một nhóm thi hữu trẻ tuổi hơn trong đó có Vũ Hoàng Địch, Trần Dzần, Trần Mai Châu để xuất bản một giai phẩm lấy tên Dạ đài. Quả là cái tên "tiền định" (351).

Khi Đinh Hùng mất, 24/8/1967, Vũ Hoàng Chương làm câu đối đặt trước áo quan:

Hồn sáu đường mê tìm Phật độ
Tình muôn trang sử mặc Trời ngâm


Và trong bài ai điếu trước mộ, câu:

Mênh mang một tiếng cười dài
Hồn lay bốn vách dạ đài cho tan!


Vũ Hoàng Chương tổng kết đời Đinh Hùng từ Dạ đài đến Mê hồn ca, Đường vào tình sử ... trong bốn câu thơ hàm súc, gợi buổi giao thời giữa thơ mới và thơ tượng trưng thập niên 1940 mà Hoàng Cầm, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, là những đại diện.

Tố Hữu làm thơ từ 1937, nhưng thập niên 40, chưa nổi tiếng. 1946, mới in tập Thơ (352). Theo Hoàng Cầm trong băng ghi âm, trước kháng chiến, Tố Hữu đã có thơ đăng báo nhưng chưa ai biết Tố Hữu là ai, riêng ông để ý đến bài Hồ Chí Minh vì nó có những câu thơ "khát máu" quá đáng. Tựu trung, Tố Hữu đáp ứng yêu cầu thơ tuyên truyền, thơ đánh địch, thơ ca tụng lãnh tụ, theo đúng đường lối của Đảng mà Trường Chinh đã vạch trong Đề cương văn hoá Việt Nam (1943) và Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam (1948).

Tập Việt Bắc, in năm 1954, xác định Tố Hữu là nhà thơ hàng đầu của Đảng. Sau khi dẹp xong NVGP, uy thế Tố Hữu càng lừng lẫy, thơ ông trở thành kinh điển trong văn chương cách mạng sau thơ Hồ Chí Minh. Trong số những người viết về Tố Hữu, Đặng Thai Mai có nhận định xác đáng hơn cả:

- "Tố Hữu là nhà thơ chỉ viết để phục vụ cách mạng từ trước đến sau".
- "Tình cảm trong thơ Tố Hữu là tình cảm của một chiến sĩ cộng sản, luôn luôn đứng trên lập trường của Đảng mà tranh đấu, suy nghĩ, cảm xúc".
- "Tưởng không cần nhắc lại một lần nữa rằng, trong các yếu tố đã xây dựng nên cái đặc sắc của thi sĩ, như trên kia đã nói, thì chính là hoạt động cách mạng theo đường lối của Đảng. Không có cái nội dung cách mạng đó, không có lập trường tư tưởng đó, thì cũng không có thơ Tố Hữu"
(353)

Đó là vị trí của Tố Hữu trong văn học.

Trong kháng chiến, Hoàng Cầm, Văn Cao, Phạm Duy, là ba nghệ sĩ có những đóng góp lớn. Ngoài sáng tác, Hoàng Cầm-Phạm Duy còn trình diễn khắp chiến trường Việt Bắc, xây dựng tinh thần kháng chiến quân. Giọng ngâm "oanh vàng đất Bắc" của Hoàng Cầm, xung động tinh thần tự hào của người lính Vệ quốc: "Rằng ta là Vệ Quốc Đoàn". Tiếng hát Phạm Duy giục giã thanh niên "cùng nhau xông pha lên đường" bảo vệ tổ quốc.

Hoàng Cầm ghi: "Từ sau cách mạng tháng Tám, Văn Cao với tôi và Phạm Duy đã trở thành bạn thân, lúc nào, ngày nào cũng có nhau, biểu diễn, sáng tác đều có nhau, thậm chí đi nghe hát ca trù (ả đào) hoặc đi uống rượu, đi cà phê sớm tối đều có nhau, khiến rất nhiều văn nghệ sĩ lúc bấy giờ đã gọi ba đứa chúng tôi là: "Bộ ba bất khả li” (Les trois inséparables). Vậy thì Văn Cao phải có mặt trong tập Giai Phẩm [Mùa Xuân] này chứ?" (354)

Cho kháng chiến, Hoàng Cầm đã góp hai lần xương máu: máu xương văn nghệ trong 9 năm sáng tác, trình diễn. Và xương máu gia đình: một vợ, Hoàng Thị Hoàn và một con, Bùi Hoàng Oanh, chết đói, 1949. Một em trai, Bùi Như Yên, chết trận, 1952.

Công lao Hoàng Cầm đối với văn học và kháng chiến giải thích một số vấn đề cụ thể:

- Hoàng Cầm có đủ tư thế văn nghệ để mời Văn Cao, Phan Khôi tham gia NVGP. - Hoàng Cầm là người Nguyễn Hữu Đang thuyết phục giúp Nhân Văn trước tiên.

- Hoàng Cầm có đủ uy tín cách mạng để đương đầu với Tố Hữu, bênh vực Trần Dần.

- Khi bị thanh trừng, Hoàng Cầm đã viết Về Kinh Bắc từ 1959, gián tiếp kết tội Đảng.

- 1982, Hoàng Cầm lại bị bắt, chính quyền tịch thu bản thảo Về Kinh Bắc.

Cuộc đời Hoàng Cầm gắn bó với lịch sử, không chỉ lịch sử kháng chiến, lịch sử NVGP, mà lịch sử dân tộc. Từ tác phẩm đầu tay Hận Nam Quan, Hoàng Cầm đã xác định con đường dân tộc: phải đề phòng phương Bắc, phải ghi nhớ Hận Nam Quan.

● Hận Nam Quan

Phi Khanh bị bắt sang Tàu, Nguyễn Trãi bí mật theo cũi cha, để cùng chết. Tới Nam Quan, Phi Khanh bắt con phải trở về, tìm đường khởi nghiã. Kịch thơ Hận Nam Quan, trước 1954, đã được giảng dạy trong vùng quốc gia, học sinh thuộc lòng những đoạn thơ:

    - Con yêu quý! Chớ xuôi lòng mềm yếu
    Gác tình riêng, vỗ cánh trở về Nam!
    Con về đi! Tận trung là tận hiếu
    Đem gươm mài bóng nguyệt dưới khăn tang
    (...)
    - Ôi sung sướng, trời sao chưa nỡ tắt
    Về ngay đi ghi nhớ Hận Nam Quan
    Bên Kim Lăng cho đến ngày nhắm mắt
    Cha nguyện cầu con lấy lại giang san.


Đó là trích đoạn bài học thuộc lòng thời tiểu học, nhưng toàn thể kịch thơ là một tác phẩm "cổ điển" của học sinh trung học. Trong những đêm văn nghệ Tết, học sinh miền Nam thường có màn trình diễn Hận Nam Quan. Hoàng Cầm đi vào lòng dân tộc như thế.

Hoàng Cầm 15 tuổi, nhưng thơ không hề non nớt, đã có những câu "tiên tri":

    Đây là ải địa đầu nước Việt
    Khóc trong lòng ghi nhớ Hận Nam Quan


15 tuổi, nhắc lại trang sử oanh liệt:

    Đây Nam Quan, quân Nguyên rời biển máu
    Thoát rừng xương, tơi tả kéo nhau về


15 tuổi, đe dọa quân Minh:

    Hỡi quân Minh! Sao không nhìn lịch sử
    Mà vội vàng ngạo nghễ xuống Nam phương?


15 tuổi, xác định lòng quật khởi của dân tộc:

    Một ngày mai, khi Trãi này khởi nghiã,
    Kéo cờ lên, phất phới linh hồn cha
    Gạt nước mắt, nguyện cầu cùng thiên địa
    Một ngày mai, con lấy lại sơn hà.


Nhưng bọn bán nước cầu vinh nào có nghe. Đó là bi kịch Hoàng Cầm và bi kịch chung của dân tộc.

_____________________

(351) Vũ Hoàng Chương, Nhớ Đinh Hùng, Loạn trung bút, Khai Trí 1970, trang 182.

(352) Năm 1959 in lại đổi tên thành Từ ấy.

(353) Đặng Thai Mai, Mấy ý nghĩ, viết ngày 10/4/1959, in trong tập Từ ấy, thơ Tố Hữu, Văn Học, 1959.

(354) Cái gì thúc đẩy thơ, Hoàng Cầm văn xuôi, trang 221.

15 tuổi chưa trải đời chưa bít sợ chứ càng già càng nhát!

Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa (HXH) lol2

_________________________
Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 9 Love10

Sông rồi cạn, núi rồi mòn
Thân về cát bụi, tình còn hư không
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7115
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 9 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 9 I_icon13Wed 18 Sep 2019, 09:21

Ai Hoa đã viết:
Trà Mi đã viết:
Chương 12

Hoàng Cầm (1922-2010)


● Địa vị Hoàng Cầm trong văn học

Trong ba nhà thơ tác nhân chính của phong trào NVGP, Trần Dần và Lê Đạt là đàn em. Hoàng Cầm thuộc thế hệ đàn anh, cùng thời với Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng.

Nét khác biệt giữa ba nhà thơ nằm trong chữ nghĩa, ví dụ cùng bối cảnh sông nước:

    Thuyền đi núi cũng phiêu bồng
    Đáy sông lẩn sắc cầu vồng trao nghiêng...
    Sông sâu chớp mắt thần linh
    Thuyền qua thạch động thấy mình cao bay

                                Thơ Đinh Hùng - Thủy mạc

    Thuyền ơi! Tóc chảy đêm vàng
    Giai nhân sóng soải hai hàng chiêm bao
    Chồng tôi phóng ngựa phương nào
    Mà dây vó sắt dẫm vào tuổi thơ

                                Thơ Hoàng Cầm - Kiều Loan

    Trăng liềm một mảnh lâng lâng bạc
    Nghiêng xuống cành dương lá lá rơi  
    Nhịp theo tiếng trúc cao vời
    Đất quay ngược hướng mơ trời Thuấn Nghiêu

                                Thơ Vũ Hoàng Chương - Tâm sự kẻ sang Tần

Thơ Đinh Hùng thanh thoát, nối kết âm-dương, trời đất-thủy thần. Đinh Hùng là nhà thơ của nước, của cõi âm. Thơ Hoàng Cầm diễm lệ, bi đát, hùng tráng hoà với đau thương, khổ đau tan trong mộng ước. Hoàng Cầm là nhà thơ của con người. Thơ Vũ Hoàng Chương điêu luyện, cao lộng, ẩn chí lớn tầm vóc càn khôn, Vũ Hoàng Chương là nhà thơ của vũ trụ.

Ba tài năng lớn của thi ca Việt Nam thế kỷ XX. Ba phận số. Phải chăng thơ luôn luôn vận vào người, nên trong ba nhà thơ, chỉ mình Hoàng Cầm mắc nạn chữ suốt đời. Vũ Hoàng Chương, trong Nhớ Đinh Hùng có nhắc đến Dạ Đài:

"Hùng đứng làm cố vấn cho một nhóm thi hữu trẻ tuổi hơn trong đó có Vũ Hoàng Địch, Trần Dzần, Trần Mai Châu để xuất bản một giai phẩm lấy tên Dạ đài. Quả là cái tên "tiền định" (351).

Khi Đinh Hùng mất, 24/8/1967, Vũ Hoàng Chương làm câu đối đặt trước áo quan:

Hồn sáu đường mê tìm Phật độ
Tình muôn trang sử mặc Trời ngâm


Và trong bài ai điếu trước mộ, câu:

Mênh mang một tiếng cười dài
Hồn lay bốn vách dạ đài cho tan!


Vũ Hoàng Chương tổng kết đời Đinh Hùng từ Dạ đài đến Mê hồn ca, Đường vào tình sử ... trong bốn câu thơ hàm súc, gợi buổi giao thời giữa thơ mới và thơ tượng trưng thập niên 1940 mà Hoàng Cầm, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, là những đại diện.

Tố Hữu làm thơ từ 1937, nhưng thập niên 40, chưa nổi tiếng. 1946, mới in tập Thơ (352). Theo Hoàng Cầm trong băng ghi âm, trước kháng chiến, Tố Hữu đã có thơ đăng báo nhưng chưa ai biết Tố Hữu là ai, riêng ông để ý đến bài Hồ Chí Minh vì nó có những câu thơ "khát máu" quá đáng. Tựu trung, Tố Hữu đáp ứng yêu cầu thơ tuyên truyền, thơ đánh địch, thơ ca tụng lãnh tụ, theo đúng đường lối của Đảng mà Trường Chinh đã vạch trong Đề cương văn hoá Việt Nam (1943) và Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam (1948).

Tập Việt Bắc, in năm 1954, xác định Tố Hữu là nhà thơ hàng đầu của Đảng. Sau khi dẹp xong NVGP, uy thế Tố Hữu càng lừng lẫy, thơ ông trở thành kinh điển trong văn chương cách mạng sau thơ Hồ Chí Minh. Trong số những người viết về Tố Hữu, Đặng Thai Mai có nhận định xác đáng hơn cả:

- "Tố Hữu là nhà thơ chỉ viết để phục vụ cách mạng từ trước đến sau".
- "Tình cảm trong thơ Tố Hữu là tình cảm của một chiến sĩ cộng sản, luôn luôn đứng trên lập trường của Đảng mà tranh đấu, suy nghĩ, cảm xúc".
- "Tưởng không cần nhắc lại một lần nữa rằng, trong các yếu tố đã xây dựng nên cái đặc sắc của thi sĩ, như trên kia đã nói, thì chính là hoạt động cách mạng theo đường lối của Đảng. Không có cái nội dung cách mạng đó, không có lập trường tư tưởng đó, thì cũng không có thơ Tố Hữu"
(353)

Đó là vị trí của Tố Hữu trong văn học.

Trong kháng chiến, Hoàng Cầm, Văn Cao, Phạm Duy, là ba nghệ sĩ có những đóng góp lớn. Ngoài sáng tác, Hoàng Cầm-Phạm Duy còn trình diễn khắp chiến trường Việt Bắc, xây dựng tinh thần kháng chiến quân. Giọng ngâm "oanh vàng đất Bắc" của Hoàng Cầm, xung động tinh thần tự hào của người lính Vệ quốc: "Rằng ta là Vệ Quốc Đoàn". Tiếng hát Phạm Duy giục giã thanh niên "cùng nhau xông pha lên đường" bảo vệ tổ quốc.

Hoàng Cầm ghi: "Từ sau cách mạng tháng Tám, Văn Cao với tôi và Phạm Duy đã trở thành bạn thân, lúc nào, ngày nào cũng có nhau, biểu diễn, sáng tác đều có nhau, thậm chí đi nghe hát ca trù (ả đào) hoặc đi uống rượu, đi cà phê sớm tối đều có nhau, khiến rất nhiều văn nghệ sĩ lúc bấy giờ đã gọi ba đứa chúng tôi là: "Bộ ba bất khả li” (Les trois inséparables). Vậy thì Văn Cao phải có mặt trong tập Giai Phẩm [Mùa Xuân] này chứ?" (354)

Cho kháng chiến, Hoàng Cầm đã góp hai lần xương máu: máu xương văn nghệ trong 9 năm sáng tác, trình diễn. Và xương máu gia đình: một vợ, Hoàng Thị Hoàn và một con, Bùi Hoàng Oanh, chết đói, 1949. Một em trai, Bùi Như Yên, chết trận, 1952.

Công lao Hoàng Cầm đối với văn học và kháng chiến giải thích một số vấn đề cụ thể:

- Hoàng Cầm có đủ tư thế văn nghệ để mời Văn Cao, Phan Khôi tham gia NVGP. - Hoàng Cầm là người Nguyễn Hữu Đang thuyết phục giúp Nhân Văn trước tiên.

- Hoàng Cầm có đủ uy tín cách mạng để đương đầu với Tố Hữu, bênh vực Trần Dần.

- Khi bị thanh trừng, Hoàng Cầm đã viết Về Kinh Bắc từ 1959, gián tiếp kết tội Đảng.

- 1982, Hoàng Cầm lại bị bắt, chính quyền tịch thu bản thảo Về Kinh Bắc.

Cuộc đời Hoàng Cầm gắn bó với lịch sử, không chỉ lịch sử kháng chiến, lịch sử NVGP, mà lịch sử dân tộc. Từ tác phẩm đầu tay Hận Nam Quan, Hoàng Cầm đã xác định con đường dân tộc: phải đề phòng phương Bắc, phải ghi nhớ Hận Nam Quan.

● Hận Nam Quan

Phi Khanh bị bắt sang Tàu, Nguyễn Trãi bí mật theo cũi cha, để cùng chết. Tới Nam Quan, Phi Khanh bắt con phải trở về, tìm đường khởi nghiã. Kịch thơ Hận Nam Quan, trước 1954, đã được giảng dạy trong vùng quốc gia, học sinh thuộc lòng những đoạn thơ:

    - Con yêu quý! Chớ xuôi lòng mềm yếu
    Gác tình riêng, vỗ cánh trở về Nam!
    Con về đi! Tận trung là tận hiếu
    Đem gươm mài bóng nguyệt dưới khăn tang
    (...)
    - Ôi sung sướng, trời sao chưa nỡ tắt
    Về ngay đi ghi nhớ Hận Nam Quan
    Bên Kim Lăng cho đến ngày nhắm mắt
    Cha nguyện cầu con lấy lại giang san.


Đó là trích đoạn bài học thuộc lòng thời tiểu học, nhưng toàn thể kịch thơ là một tác phẩm "cổ điển" của học sinh trung học. Trong những đêm văn nghệ Tết, học sinh miền Nam thường có màn trình diễn Hận Nam Quan. Hoàng Cầm đi vào lòng dân tộc như thế.

Hoàng Cầm 15 tuổi, nhưng thơ không hề non nớt, đã có những câu "tiên tri":

    Đây là ải địa đầu nước Việt
    Khóc trong lòng ghi nhớ Hận Nam Quan


15 tuổi, nhắc lại trang sử oanh liệt:

    Đây Nam Quan, quân Nguyên rời biển máu
    Thoát rừng xương, tơi tả kéo nhau về


15 tuổi, đe dọa quân Minh:

    Hỡi quân Minh! Sao không nhìn lịch sử
    Mà vội vàng ngạo nghễ xuống Nam phương?


15 tuổi, xác định lòng quật khởi của dân tộc:

    Một ngày mai, khi Trãi này khởi nghiã,
    Kéo cờ lên, phất phới linh hồn cha
    Gạt nước mắt, nguyện cầu cùng thiên địa
    Một ngày mai, con lấy lại sơn hà.


Nhưng bọn bán nước cầu vinh nào có nghe. Đó là bi kịch Hoàng Cầm và bi kịch chung của dân tộc.

_____________________

(351) Vũ Hoàng Chương, Nhớ Đinh Hùng, Loạn trung bút, Khai Trí 1970, trang 182.

(352) Năm 1959 in lại đổi tên thành Từ ấy.

(353) Đặng Thai Mai, Mấy ý nghĩ, viết ngày 10/4/1959, in trong tập Từ ấy, thơ Tố Hữu, Văn Học, 1959.

(354) Cái gì thúc đẩy thơ, Hoàng Cầm văn xuôi, trang 221.

15 tuổi chưa trải đời chưa bít sợ chứ càng già càng nhát!

Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa (HXH)  lol2

Hổng nhát cũng hổng được, thầy ui!   :potay:
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7115
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 9 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 9 I_icon13Thu 19 Sep 2019, 09:49

Chương 12

Hoàng Cầm (1922-2010)


● Hoàng Cầm - Tuyết Khanh - Vũ Hoàng Chương

Tháng 9/1945, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Chù, Hoàng Tích Linh (355), Kim Lân, Trần Hoạt lập ban kịch Đông Phương. Hoàng Tích Chù làm trưởng ban. Đông Phương thường lưu diễn ở các tỉnh gần Hà Nội. Vũ Hoàng Chương kể lại chuyện một người bạn rủ Hoàng (Chương) đi xem kịch: "Hoàng ạ, ban kịch Đông Phương của bọn Hoàng Tích Chù lực lượng có vẻ khá lắm (...) Tin đích xác đây này: Tối mai ban kịch Đông Phương trình diễn tại Thái Bình, và diễn liền mấy tối sau nữa. Ngay tỉnh lỵ, Hoàng có đi với tôi sang bên đó không nào? (...) Đối với họ Phan, người ta còn khách sáo ít nhiều; chứ đối với Hoàng thì, toàn ban đều thân mật, coi như "cố nhân". Có lẽ bởi họa sĩ Hoàng Tích Chù -em ruột Hoàng Tích Chu- là chỗ thế nghị của Hoàng chăng? Hay bởi tác giả quan trọng của ban kịch là thi sĩ Hoàng Cầm, chỗ thanh khí của Hoàng, từng đã gặp nhau ở xóm Niềm bên Kinh Bắc?" (356)

Vũ Hoàng Chương vừa muốn "khoe" ban kịch Đông Phương coi mình là "cố nhân" mà cũng kín đáo kính trọng Hoàng Cầm như một bậc tài tử. Thời điểm ấy, mục đích Hoàng Cầm là dựng Kiều Loan nhưng tìm gần một năm, vẫn chưa "thấy" Kiều Loan. Đến tháng 8/46, tìm được Tuyết Khanh, bắt đầu dựng Kiều Loan, do Hoàng Tích Linh đạo diễn; Tuyết Khanh trong vai Kiều Loan; Hoàng Cầm vai Hiệu Úy... Về những buổi tập dượt Kiều Loan, Hoàng Cầm kể lại: "... Nguyễn Huy Tưởng, hầu như không buổi tập nào là vắng mặt anh (...) Cả nhà thơ Vũ Hoàng Chương không biết vì quá mê nàng Kiều Loan của vở kịch hay mê người sắm vai Kiều Loan mà từ ngày đầu đọc vở, anh đã trở nên một khán giả quá siêng năng cả đến khi Kiều Loan phải "tản cư" đi diễn ở mấy làng trong tỉnh Bắc Ninh. Ngày nào anh cũng đến từ sớm, có khi nán lại dùng cơm trưa với diễn viên tại nhà anh Chù. Còn hai anh Lưu Quang Thuận (357) Trúc Đường (358) là hai kịch tác gia mấy lần đến xem tập và phỏng vấn (...) và chuẩn bị ấn hành trọn vẹn kịch thơ Kiều Loan ngay trong năm 1946" (359).

Hoàng Cầm đáp lại Hoàng Chương bằng sự tương kính. Những tài năng lớn thường kính trọng nhau ngay từ buổi đầu. Nhưng rồi có chuyện ngang trái xẩy ra: hai nhân tài cùng yêu một người đẹp. Vũ Hoàng Chương lúc đó đã có vợ là Đinh Thục Oanh, chị ruột Đinh Hùng, từ 1944, và Hoàng Cầm cũng đã có vợ là Hoàng Thị Hoàn và ba con, tại quê nhà. Vũ Hoàng Chương kể tiếp câu chuyện tình lạ lùng, đã khai sinh những câu thơ nổi tiếng với chữ Khanh đầy bí mật, và cũng là lịch sử một đoạn đời kháng chiến:

"Tối hôm đó diễn vở kịch thơ Lên Đường của Hoàng Cầm. Chỉ có 4 vai - đều vai chính cả!- Nhưng điều đáng nói là một trong bốn vai ấy đã do Tuyết Khanh đóng. "Người đẹp" này, Hoàng đã từng chiêm ngưỡng trên màn bạc rồi -Phim Cánh đồng ma của ông bạn Đàm Quang Thiện (360) và cũng chẳng thấy gì đáng mê lắm. (...) Thế mà -ai học đến chữ ngờ!- cơn mê đã bắt đầu chiếm đoạt Hoàng trọn vẹn, cách hai tuần sau, để kéo dài mãi, đến giờ phút này cũng chưa hẳn nhoà tan đấy (...)

"Nửa đời sương gió ngang tàng lắm
Mềm, chỉ vì Khanh, một trái tim..."

Ôi, chỉ vì Khanh! Vì Khanh! Chắc chắn Khanh ngạc nhiên. Mà chính Hoàng lại đã ngạc nhiên trước hết. Ngạc nhiên gấp hai lần Khanh, gấp bốn lần Hoàng Cầm. Và gấp cả một trăm lần thiên hạ (...) Và hình như sau chuyến lưu diễn Thái Bình, mọi người đang sửa soạn tập vở Kiều Loan của thi sĩ Hoàng Cầm thì phải. (...) Thật ra, Khanh còn đang bận tập Kiều Loan, Hoàng cũng đang bận viết bài cho Thế sự, chẳng ai muốn mua dây tự buộc mình. Chỉ cốt hợp thức hoá mỗi liên hệ của Hoàng và Khanh thôi. Đừng để ai phá đám. Thí dụ nhà thơ Hoàng Cầm (...) Khăng khít như vậy mà rồi sau đêm mười chín tháng mười hai Dương lịch
(361) Khanh và Hoàng khởi sự lạc nhau. Lạc thôi chứ chưa mất. Hoàng trên bước tản cư phiêu lưu tới phủ Xuân Trường, lòng nhớ Khanh càng nổi dậy. Chẳng biết con người bạc mệnh kia đã phải trải qua những nhịp cầu đoạn trường nào thêm? Hiện nay ở đâu: Hưng Yên, Phủ Lạng Thương hay Bắc Kạn?...

Khanh của Hoàng ơi, lửa bốn phương
Khói lên ngùn ngụt chén tha hương,
Nghe vang sóng rượu niềm ly tán
Chạnh xót nòi thơ buổi nhiễu nhương" (...)

Một đêm trăng, Thứ Lang
(362) dẫn Khanh từ Đống Năm (363) vào, cùng với Kiều Liên (364). Mới tạm xa nhau chưa đến hai mươi tháng mà khi tái ngộ nhìn nhau cứ ngơ ngáo như trong mộng ấy thôi!

Khanh đã về trong lửa Túy hương
Khoé thu lộng gió tóc cài sương (...)

Qua năm 1949, Hoàng dời chỗ ở sang làng Duyên Tục (thường gọi là làng Tuộc), rồi lại chuyển tới huyện Đông Quan (làng Trầu). Nhưng cách Đống Năm vẫn không xa. Và như vậy, Khanh vẫn gần Hoàng. Vì Khanh đã ly khai hẳn với ban kịch Đông phương, không theo họ đi lang thang lưu diễn vùng Bắc nữa, mà về ở Thái Bình, sống đơn chiếc như một ẩn sĩ thời loạn (...) Đầu năm 1950, Hoàng trở về Hà Nội, giữa khi súng đạn tràn tới Liên khu ba, Đống Năm bị phá nát, chẳng hiểu Khanh trôi dạt nơi nào"
(365).

Tuyết Khanh và Hoàng Cầm rời Hà Nội sau ngày toàn quốc kháng chiến; giữa 1947, hai người gia nhập Vệ Quốc Đoàn chiến khu 12, Hoàng Cầm thành lập Đội văn công tuyên truyền đầu tiên trong quân đội cùng với Hoàng Tích Linh, Trúc Lâm, Văn Chung... Giữa đường gặp Phạm Duy, Ngọc Bích, cùng nhập bọn. Tuyết Khanh có mang 6 tháng, phải ở lại "an dưỡng trong một quân y viện ở huyện Hữu Lũng", Hoàng Cầm, Phạm Duy tiếp tục đi lưu diễn ở Việt Bắc. Đầu năm 1948, Tuyết Khanh sinh con gái là Kiều Loan, nhưng hai người mất liên lạc. Tuyết Khanh về Thái Bình rồi hồi cư về Hà Nội. 1950, Vũ Hoàng Chương về Hà Nội gặp lại Tuyết Khanh. 1952, Ban kịch Sông Hồng diễn Thằng cuội của Vũ Hoàng Chương, Hoàng mời Khanh đóng vai Hằng Nga nhưng nàng từ chối. "Từ đó, Hoàng với Khanh chẳng còn sánh vai nhau trong ảo mộng sân khấu một lần nào nữa. Hoàng cũng chẳng còn đủ hào hứng để viết thêm một vở kịch thơ nào" (366).

Thời ấy, Vũ Hoàng Chương đã nổi tiếng với Thơ say (1940), Mây (1943) và kịch thơ Trương Chi (1944) gồm ba vở: Trương Chi, Vân MuộiHồng Điệp. Trương Chi hay hơn cả, nhưng chưa thể sánh với Kiều Loan của Hoàng Cầm. Hoàng Chương nể Hoàng Cầm vì lẽ đó. Đến 1951, Vũ Hoàng Chương mới viết kịch thơ Tâm sự kẻ sang Tần (367). Nếu không có Kiều Loan, chưa chắc đã có Tâm sự kẻ sang Tần, đó là hai tác phẩm lớn của thi ca Việt Nam.

Vì Tuyết Khanh mà Hoàng Chương bỏ kịch thơ.

Vì cách mạng, mà Hoàng Cầm phải treo cổ kịch thơ.

Hai thi tài. Hai mệnh số. Hai quyết định bi đát.

_____________________

(355) Cả hai là em ruột Hoàng Tích Chu.

(356) Vũ Hoàng Chương, Duyên thơ nợ kịch, trong tập hồi ký Ta đã làm chi đời ta, Hội Nhà Văn in lại 1993, bị cắt nhiều chương, đoạn, so với bản 1974, ở Sàigòn.

(357) Cha Lưu Quang Vũ.

(358) Anh Nguyễn Bính.

(359) Lận đận Kiều Loan, Hoàng Cầm văn xuôi, trang 54.

(360) Nguyễn Tuân có đóng phim này.

(361) Ngày 19/12/1946, toàn quốc kháng chiến, ban kịch Đông Phương rời Hà Nội.

(362) Tức Đinh Hùng.

(363) Thuộc Thái Bình.

(364) Chắc là Kiều Loan, con Hoàng Cầm và Tuyết Khanh, lúc đó chưa đầy tuổi.

(365) Vũ Hoàng Chương, Duyên thơ nợ kịch, bản in năm 1974 ở Sàigòn.

(366) Vũ Hoàng Chương, bđd.

(367) Xuất bản tại Sài Gòn, 1961.
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7115
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 9 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 9 I_icon13Tue 24 Sep 2019, 08:31

Chương 12

Hoàng Cầm (1922-2010)


● Kiều Loan

Thân phận Kiều Loan lênh đênh như toàn bộ tác phẩm của Hoàng Cầm. Khởi thảo cuối xuân 1942 đến giữa 1943, đã tạm xong, Hoàng Cầm định đưa lên sân khấu Bắc Giang, nhưng bị viên chánh công sứ Pháp, thạo tiếng Việt, kiểm duyệt bỏ. Đến cuối 1943, ban kịch Hà Nội của Chu Ngọc định dàn dựng, cũng bị kiểm duyệt Pháp chặn.

Luyện tập trong bốn tháng. Trình diễn trong bốn giờ. Sáng 26/11/1946, tại nhà Hát Lớn Hà Nội. Một buổi duy nhất, rồi bị Trần Duy Hưng ra lệnh đình chỉ. Đó là quyết định sai lầm đầu tiên của cách mạng về Kiều Loan.

Hoàng Cầm kể: "Chúng tôi vừa hạ màn chót cho vở diễn lúc 1 giờ 15 phút. Sau những tràng vỗ tay kéo dài thì ông Trần Duy Hưng, Chủ tịch Ủy ban dân tộc giải phóng thành phố Hà Nội cho người ra mời anh Chù, anh Linh và tôi lên trụ sở Ủy ban. Ông ra lệnh cho chúng tôi phải hoãn những đêm diễn đã được Ủy ban cho phép. Lý do: quân đội Pháp đã đánh Hải Phòng và càng ngày càng khiêu khích trắng trợn Hà Nội. (...) Thế là số phận vở kịch lại lênh đênh. Tôi ngậm ngùi se sẽ ngâm câu Kiều:

Phận bèo bao quản nước sa
Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh..."
(368)

Lần thứ nhì, 1948, Hoàng Cầm định trình diễn Kiều Loan trong ngày khai mạc Đại Hội Văn Hóa Toàn Quốc (369):

"Tôi đưa đơn đến tận tay anh Nguyễn Đình Thi, lúc đó đang là Tổng thư ký Hội Văn hoá cứu quốc, đơn kèm theo kịch Kiều Loan. Rồi tôi hồi hộp chờ đợi (...)

Không khí cuộc gặp mặt bỗng trở nên nghiêm trang và lời mở đầu câu chuyện của anh Thi lại càng làm cho nó thêm lạnh nhạt, căng thẳng:

- Tôi đã nhận được vở kịch của anh. Cả lá đơn nữa. Anh Nguyễn Huy Tưởng và anh Nguyên Hồng đã giới thiệu Kiều Loan với tôi. Tôi cũng đã đọc qua (...) - Rằng hay thì thật là hay!

Hai tiếng cuối câu đay xuống, tôi nghe như có vẻ vừa giễu cợt vừa hững hờ. Và anh Thi cũng chỉ nói có thế. Không hơn nửa lời. Rồi anh thu dọn sổ sách, như có ý bảo tôi "Về đi!". Cũng để cho anh lính mới làng văn biết rằng mỗi giờ mỗi phút với anh Thi là vàng ngọc đấy!"
(370).

Cũng Nguyễn Đình Thi này, năm 1956, sẽ nài nỉ Hoàng Cầm, lúc đó trách nhiệm nhà xuất bản Văn Nghệ, in giùm tập thơ không vần sửa thành có vần theo lệnh Tố Hữu.

Sau lần trình diễn duy nhất tại Hà Nội ngày 26/11/46, Kiều Loan bị đình chỉ. Hoàng Cầm cùng ban kịch rời Hà Nội, đi lưu diễn ở Bắc Ninh, Bắc Giang, Sơn Tây, Thái Bình, đem Kiều Loan diễn ở các đình làng vùng Bắc Ninh, được gần một tháng.

Ngày 19/12/46 chiến tranh bùng nổ, ban kịch Đông Phương phải giải tán. Kịch bản Kiều Loan, bị thất lạc trong những năm kháng chiến. Bản chính do Lưu Quang Thuận giữ, khi Pháp nhẩy dù Bắc Cạn, bản thảo của các văn nghệ sĩ phải ném xuống hồ Ba Bể, trong đó có Kiều Loan.

Mãi đến 1970, nhờ một số bạn cũ còn giữ được bản đánh máy, Hoàng Cầm kết hợp, "trùng tu" lại bản thảo 1946.

1992, Kiều Loan được xuất bản sau khi sáng tác 50 năm.

Kiều Loan chính là hoá thân của Hoàng Cầm. Những nghệ sĩ lớn thường tạo những tình huống có tính cách tiên tri. Sáng tác năm 1942, lúc Hoàng Cầm 20 tuổi và đã nổi tiếng. Trước một "tương lai sáng lạn" như thế, tại sao người thanh niên ấy lại nghĩ đến một nhân vật bi thảm như Kiều Loan? Rồi Kiều Loan sẽ "vận" vào số phận Hoàng Cầm như một thực tại đớn đau mà người nghệ sĩ không thoát khỏi, trong cuộc đổi đời của đất nước. Kiều Loan trong thời Pháp thuộc và dưới thời cách mạng, đều bị cấm, không vì tình cờ, mà vì nội dung tác phẩm:

Kiều Loan, con gái một cựu thần Tây Sơn, đi tìm chồng Vũ Văn Giỏi. Mười năm trước, theo lời Kiều Loan, Vũ lên đường giúp Quang Toản sau khi Quang Trung băng hà. Tới Phượng Hoàng Trung Đô, nghe tin Bùi Đắc Tuyên chuyên quyền, Vũ ngả theo Nguyễn Ánh, trở thành Vũ tướng quân, bạo tàn càn quét những người dân chống lại nhà Nguyễn. Kiều Loan giả điên đến Phú Xuân, tại đây, nàng gặp ông già, thầy cũ của Vũ. Kiều Loan làm huyên náo cửa thành, cố tình bị bắt vào dinh, để nhìn lại người xưa. Kiều Loan và ông thày cũ bị giam trong ngục. Kiều Loan uống thuốc độc tự vận cùng với ông già. Trước khi chết, nàng chém người chồng phản bội.

Kiều Loan, một bi hùng ca bao quát lịch sử dân tộc, dõi vào những mốc chính: Nam Bắc phân tranh. Nguyễn Ánh cầu viện Pháp để diệt Tây Sơn. Gia Long thắng trận trở thành độc tài chuyên chế, tiêu diệt những khuynh hướng đối lập.

Một nội dung như vậy, tất nhiên, không chỉ thực dân Pháp căm giận:

"Vì chính sự bạo tàn Ôi! Nước mắt
Bao nhiêu lần rỏ xuống những hồn oan?
Chính sự gì đi cầu viện ngoại bang
Về tàn sát những người dân vô tội"


Mà tất cả những kẻ cầu viện nước ngoài để vững quyền chấp chính cũng phải hổ mình. Một triều đình vừa "thống nhất sơn hà", nhưng lệnh đầu phát ra là lệnh cấm:

... Vua cấm đèn cấm lửa
Cấm dân gian đi lại ở kinh thành


Lệnh thứ nhì là cấm hát:

Vua có lệnh bắt những người hát nhảm
Đầu sẽ bêu sương gió nếp hoàng thành


Nhưng Kiều Loan, giai nhân tuyệt sắc, nào có sợ gì, nàng xuất hiện như một người điên, nàng cứ hát những lời phản biện:

Chị buồn chị hát vang lừng
Cỏ cây sa lệ núi rừng ngẩn ngơ


Kiều Loan là vở kịch thơ hay nhất của Hoàng Cầm và thời tiền chiến. Phải mười năm sau, Tâm sự kẻ sang Tần với bút pháp bay bổng của Vũ Hoàng Chương mới có thể kế vị.

Kiều Loan nói lên chí khí bất khuất của Hoàng Cầm trong thi ca, tiên tri định mệnh đất nước:

- Về cuộc Cải Cách Ruộng Đất:

Thà giết oan trăm mạng lương dân
Hơn để thoát một tên phản nghịch


- Về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm:

Mà trước mắt, cuộc xoay vần thời thế
Gạt ra ngoài hầu hết bậc tài danh
Bọn hủ nho nhan nhản khắp triều đình
Nơi tù ngục chất đầy người nghiã khí
Gỗ mục, thép cùn múa tay trong bị
Lau sậy nghêng ngang làm cột trụ giang sơn


- Về cảnh chiến tranh cốt nhục tương tàn:

Một nước nhỏ mà phân chia Nam Bắc
Xâu xé nhau vì hai chữ lợi danh
Tam vương, ngũ đế, cướp đất phá thành
Mấy trăm năm nghe dân tình xao xao xác
Thay cái đạo làm người bằng giáo mác
Yến ẩm lầu cao... xương máu chan hòa


- Về ảo mộng chiến thắng:

Cờ nêu cao chiến thắng nhuốm chiêu dương
Mà rút lại cũng chỉ là giấc mộng.


Kiều Loan có những câu thơ lạnh người:

Chí lớn từ xưa chôn chật đất
Riêng đàn đom đóm lại thênh thang.


Bọn "đom đóm", Hoàng Cầm đã thấy từ tuổi hai mươi, sau này sẽ sẽ ngập trời đất Bắc. Các "chí lớn" trong NVGP, và sau NVGP, đã và hiện còn đang bị chôn vùi trong ngục tối. Nhưng nhà thơ luôn luôn có lời chót:

Làm mất nhân tâm thì miếu lớn tượng to
Dân đạp dí xuống bùn là hết chuyện.


_____________________

(368) Hoàng Cầm, Nguyễn Đình Thi trong tôi- Nguyễn Đình Thi ngoài tôi, Talawas.

(369) Đây là lần II, do Trường Chinh tổ chức ở Việt Bắc mà sau đó Nguyễn Hữu Đang bỏ về Thanh Hoá.

(370) Hoàng Cầm, bđd.

Về Đầu Trang Go down
Ai Hoa

Ai Hoa

Tổng số bài gửi : 10564
Registration date : 23/11/2007

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 9 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 9 I_icon13Tue 24 Sep 2019, 12:12

Trà Mi đã viết:
Chương 12

Hoàng Cầm (1922-2010)


● Kiều Loan

...
Kiều Loan, một bi hùng ca bao quát lịch sử dân tộc, dõi vào những mốc chính: Nam Bắc phân tranh. Nguyễn Ánh cầu viện Pháp để diệt Tây Sơn. Gia Long thắng trận trở thành độc tài chuyên chế, tiêu diệt những khuynh hướng đối lập.

Một nội dung như vậy, tất nhiên, không chỉ thực dân Pháp căm giận:

"Vì chính sự bạo tàn Ôi! Nước mắt
Bao nhiêu lần rỏ xuống những hồn oan?
Chính sự gì đi cầu viện ngoại bang
Về tàn sát những người dân vô tội"


Mà tất cả những kẻ cầu viện nước ngoài để vững quyền chấp chính cũng phải hổ mình. Một triều đình vừa "thống nhất sơn hà", nhưng lệnh đầu phát ra là lệnh cấm:

... Vua cấm đèn cấm lửa
Cấm dân gian đi lại ở kinh thành


Lệnh thứ nhì là cấm hát:

Vua có lệnh bắt những người hát nhảm
Đầu sẽ bêu sương gió nếp hoàng thành


Nhưng Kiều Loan, giai nhân tuyệt sắc, nào có sợ gì, nàng xuất hiện như một người điên, nàng cứ hát những lời phản biện:

Chị buồn chị hát vang lừng
Cỏ cây sa lệ núi rừng ngẩn ngơ


Kiều Loan là vở kịch thơ hay nhất của Hoàng Cầm và thời tiền chiến. Phải mười năm sau, Tâm sự kẻ sang Tần với bút pháp bay bổng của Vũ Hoàng Chương mới có thể kế vị.

Kiều Loan nói lên chí khí bất khuất của Hoàng Cầm trong thi ca, tiên tri định mệnh đất nước:

- Về cuộc Cải Cách Ruộng Đất:

Thà giết oan trăm mạng lương dân
Hơn để thoát một tên phản nghịch


- Về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm:

Mà trước mắt, cuộc xoay vần thời thế
Gạt ra ngoài hầu hết bậc tài danh
Bọn hủ nho nhan nhản khắp triều đình
Nơi tù ngục chất đầy người nghiã khí
Gỗ mục, thép cùn múa tay trong bị
Lau sậy nghêng ngang làm cột trụ giang sơn


- Về cảnh chiến tranh cốt nhục tương tàn:

Một nước nhỏ mà phân chia Nam Bắc
Xâu xé nhau vì hai chữ lợi danh
Tam vương, ngũ đế, cướp đất phá thành
Mấy trăm năm nghe dân tình xao xao xác
Thay cái đạo làm người bằng giáo mác
Yến ẩm lầu cao... xương máu chan hòa


- Về ảo mộng chiến thắng:

Cờ nêu cao chiến thắng nhuốm chiêu dương
Mà rút lại cũng chỉ là giấc mộng.


Kiều Loan có những câu thơ lạnh người:

Chí lớn từ xưa chôn chật đất
Riêng đàn đom đóm lại thênh thang.


Bọn "đom đóm", Hoàng Cầm đã thấy từ tuổi hai mươi, sau này sẽ sẽ ngập trời đất Bắc. Các "chí lớn" trong NVGP, và sau NVGP, đã và hiện còn đang bị chôn vùi trong ngục tối. Nhưng nhà thơ luôn luôn có lời chót:

Làm mất nhân tâm thì miếu lớn tượng to
Dân đạp dí xuống bùn là hết chuyện.




20 tuổi mà viết được những câu thơ như vầy thật đáng nể! applause applause applause

_________________________
Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 9 Love10

Sông rồi cạn, núi rồi mòn
Thân về cát bụi, tình còn hư không
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7115
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 9 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 9 I_icon13Wed 25 Sep 2019, 07:11

Ai Hoa đã viết:
Trà Mi đã viết:
Chương 12

Hoàng Cầm (1922-2010)


● Kiều Loan

...
Kiều Loan, một bi hùng ca bao quát lịch sử dân tộc, dõi vào những mốc chính: Nam Bắc phân tranh. Nguyễn Ánh cầu viện Pháp để diệt Tây Sơn. Gia Long thắng trận trở thành độc tài chuyên chế, tiêu diệt những khuynh hướng đối lập.

Một nội dung như vậy, tất nhiên, không chỉ thực dân Pháp căm giận:

"Vì chính sự bạo tàn Ôi! Nước mắt
Bao nhiêu lần rỏ xuống những hồn oan?
Chính sự gì đi cầu viện ngoại bang
Về tàn sát những người dân vô tội"


Mà tất cả những kẻ cầu viện nước ngoài để vững quyền chấp chính cũng phải hổ mình. Một triều đình vừa "thống nhất sơn hà", nhưng lệnh đầu phát ra là lệnh cấm:

... Vua cấm đèn cấm lửa
Cấm dân gian đi lại ở kinh thành


Lệnh thứ nhì là cấm hát:

Vua có lệnh bắt những người hát nhảm
Đầu sẽ bêu sương gió nếp hoàng thành


Nhưng Kiều Loan, giai nhân tuyệt sắc, nào có sợ gì, nàng xuất hiện như một người điên, nàng cứ hát những lời phản biện:

Chị buồn chị hát vang lừng
Cỏ cây sa lệ núi rừng ngẩn ngơ


Kiều Loan là vở kịch thơ hay nhất của Hoàng Cầm và thời tiền chiến. Phải mười năm sau, Tâm sự kẻ sang Tần với bút pháp bay bổng của Vũ Hoàng Chương mới có thể kế vị.

Kiều Loan nói lên chí khí bất khuất của Hoàng Cầm trong thi ca, tiên tri định mệnh đất nước:

- Về cuộc Cải Cách Ruộng Đất:

Thà giết oan trăm mạng lương dân
Hơn để thoát một tên phản nghịch


- Về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm:

Mà trước mắt, cuộc xoay vần thời thế
Gạt ra ngoài hầu hết bậc tài danh
Bọn hủ nho nhan nhản khắp triều đình
Nơi tù ngục chất đầy người nghiã khí
Gỗ mục, thép cùn múa tay trong bị
Lau sậy nghêng ngang làm cột trụ giang sơn


- Về cảnh chiến tranh cốt nhục tương tàn:

Một nước nhỏ mà phân chia Nam Bắc
Xâu xé nhau vì hai chữ lợi danh
Tam vương, ngũ đế, cướp đất phá thành
Mấy trăm năm nghe dân tình xao xao xác
Thay cái đạo làm người bằng giáo mác
Yến ẩm lầu cao... xương máu chan hòa


- Về ảo mộng chiến thắng:

Cờ nêu cao chiến thắng nhuốm chiêu dương
Mà rút lại cũng chỉ là giấc mộng.


Kiều Loan có những câu thơ lạnh người:

Chí lớn từ xưa chôn chật đất
Riêng đàn đom đóm lại thênh thang.


Bọn "đom đóm", Hoàng Cầm đã thấy từ tuổi hai mươi, sau này sẽ sẽ ngập trời đất Bắc. Các "chí lớn" trong NVGP, và sau NVGP, đã và hiện còn đang bị chôn vùi trong ngục tối. Nhưng nhà thơ luôn luôn có lời chót:

Làm mất nhân tâm thì miếu lớn tượng to
Dân đạp dí xuống bùn là hết chuyện.




20 tuổi mà viết được những câu thơ như vầy thật đáng nể!  applause applause applause

Ông HC tiên tri thiệt giỏi ha thầy :thinking:

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7115
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 9 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 9 I_icon13Wed 25 Sep 2019, 08:28

Chương 12

Hoàng Cầm (1922-2010)

● Hoàng Cầm - Phạm Duy, Việt Bắc 1947-1948

1947-1948, giai đoạn khởi đầu, và cũng là giai đoạn quyết định số phận cuộc kháng chiến. Ở thời điểm này, đảng Cộng sản chưa thực sự ra mặt, chính sách Mác-Lê-Mao chưa chính thức công bố, toàn thể văn nghệ sĩ tương đối được tự do, họ tin tưởng vào cuộc kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Việt Minh. Những bài thơ, những bản nhạc hay nhất xuất hiện. Tinh thần xông pha của nghệ sĩ đã có tác dụng mạnh trên bộ đội và quần chúng. Nếu không có sự trợ giúp đắc lực của văn nghệ sĩ, diện mạo cuộc chiến chống Pháp chưa biết sẽ ra sao. Hoàng Cầm kể:

"Một ngày giữa năm 1947- tôi và vợ tôi Tuyết Khanh (...) đã xông lên một vùng rừng núi đang rất xa lạ với mình, nhập luôn vào Vệ Quốc Đoàn chiến khu 12, rồi mày mò, tìm bạn, thành lập ngay một đội văn nghệ tuyên truyền, có thể gọi là đội Văn Công đầu tiên của quân đội (...) đến với từng trung đội, đại đội Vệ Quốc Quân, dân quân, du kích khắp bốn tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Ninh, Lạng Sơn để biểu diễn đủ loại kịch ngắn, kịch nói, kịch cương, ngâm thơ, hát tốp ca, đơn ca, múa vài ba điệu dân dã học được của đồng bào miền xuôi, miền ngược (...) Nửa đêm nay tiểu đội A đi phục kích ư? Trung đội C đi quấy rối địch ư? Chập tối họ vẫn được nghe giọng ngâm thơ sang sảng...

Đêm liên hoan, bạn ơi, đêm liên hoan
Đầu nhấp nhô như sóng bể ngang tàng
Ta muốn thét cho vỡ tung lồng ngực
Vì say sưa tình thân thiết Vệ Quốc Đoàn (371)

Nhiều khi họ lại "đồng ca" luôn theo đội văn nghệ:

Đường ta ta cứ đi
Nhà ta ta cứ xây
Ruộng ta ta cứ cầy
Đợi ngày...

Say sưa, họ còn vỗ tay theo điệu hát:

Ngày mai ta tiến lên
Diệt tan quân Pháp kia
Cười vui ta hát câu tự do...
(Nhạc tuổi xanh, P.D)
(372)

Hoàng Cầm tả lại bối cảnh gặp gỡ Phạm Duy trên lộ trình sáng tác và trình diễn:

"Vào một buổi chiều cuối thu 1947. Trên đường đê sông máng đi từ đập Takun [/i](373) có ba người, 1 quàng ghi ta, 1 đeo accordéon, 1 đeo clarinette, ngơ ngác hỏi thăm chỗ đóng quân của Đội Văn Nghệ Tuyên Truyền khu 12. Đó là anh P.D, Ngọc Bích và Ngọc Hiền, đang tìm về với đội văn nghệ của Hoàng Cầm sau khi đoàn kịch Chiến Thắng của các anh giải thể (...) Riêng P.D, trong khoảng 13 tháng sát cánh bên nhau tôi cần phải nói thêm rằng có anh trong đơn vị, người tôi như mọc thêm cánh (...) Tôi cứ chuyển quân liên miên... nay vừa biểu diễn ở Nhã Nam, mai đã sang Bố Hạ (...) Sáng ra lại xuất quân. PD mê man đi, vừa đi vừa lẩm nhẩm thầm thì sáng tác thì chợt đến khi bắt được một giai điệu đẹp, tha thiết, là anh ngồi ngay xuống tảng đá bên đường, lấy bút giấy ra ghi. Nếu chỉ qua được một đoạn đường mà xong được một bài, anh lập tức kêu tôi và các bạn dừng lại, túm tụm trên vệ cỏ, nghe anh hát.

Đường Lạng Sơn âm u (ù u)
Giờ bình minh êm ru (ù u)
Vẳng nghe tiếng súng trong sương mù
Đường Thất Khê bao la (à a)
Rừng núi ta xông pha (à a) (...)

Cứ như vậy, toàn đội, đặc biệt là PD đã truyền cho tôi sức mạnh dẻo dai để vừa đi vừa sáng tác. Ghi ngay thành thơ hoặc chủ đề kịch ngắn những cảm xúc, những ý tứ bất chợt loé lên trong tôi. Sáng tác đến đâu biểu diễn luôn đến đấy (...) trong vòng chưa đầy 12 tháng, PD đã liên tục sáng tác hàng chục ca khúc, có nhiều bài chỉ hát đôi ba lần, bộ đội đã thuộc lòng (...) Ở những tác phẩm của anh hồi đầu kháng chiến, tôi ít thấy cái da diết, thắm thiết đến khắc khoải như một vài ca khúc của Nguyễn Xuân Khoát, Văn Cao... Nhưng quả thật PD là người viết ca khúc được hầu hết các chiến sĩ bộ đội, cán bộ và thanh niên nam nữ khắp Việt Bắc lúc bấy giờ yêu mến nhất, nhắc nhở nhiều nhất, vượt xa các nhạc sĩ nổi tiếng cùng thời" (374).

Phạm Duy viết về giai đoạn này:

"Cuối năm 1947 đó, tôi và Ngọc Bích từ tỉnh lỵ bị tiêu hủy hoàn toàn là Thái Nguyên đi bộ qua Bắc Giang, tìm về làng Lan Giới thuộc khu Nhã Nam, Yên Thế (...)

Tôi và Ngọc Bích vác ba lô đi tìm Bộ Chỉ Huy của Khu XII. Ở đó, tôi gặp Hoàng Cầm. Nó đang chuẩn bị thành lập một đội văn nghệ cho chiến khu này cùng với nhà viết kịch Hoàng Tích Linh, diễn viên Trúc Lâm và vợ chồng Văn Chung (...) Tôi và Ngọc Bích nhập ngay vào cái đội văn nghệ chỉ có vỏn vẹn bẩy, tám người đó để từ Bộ Chỉ Huy, chúng tôi đi lưu diễn ở những nơi có Vệ Quốc Đoàn đóng quân trong ba tỉnh Bắc Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn. Gặp Hoàng Cầm, tôi yêu nó ngay. Nó bằng tuổi tôi
(375). Trong khi tôi thích đùa rỡn thì nó giống như một ông đồ non, lúc nào cũng ngồi hút thuốc lào, rung đùi, trầm ngâm. Nó đang sống chung với Tuyết Khanh (...) Đi theo Hoàng Cầm ra vùng kháng chiến, Tuyết Khanh, mà lúc đó Hoàng Cầm cũng đổi luôn tên là Kiều Loan, đang có thai và bắt buộc phải ở lại vùng trung du để Hoàng Cầm và chúng tôi lên đường đi lưu diễn. Trong bữa cơm đạm bạc để chia tay nhau giữa hai vợ chồng Hoàng Cầm tại Phố Nỉ (Bắc Giang), tôi còn nhớ cảnh Hoàng Cầm ngồi rung đùi ngâm thơ bên cạnh người vợ mà rồi đây nó sẽ không bao giờ gặp lại nữa, giọng ngâm buồn rười rượi..." (376)

● Đêm Liên Hoan, Tâm sự đêm giao thừa, Bên kia sông Đuống

Phạm Duy viết về ba tác phẩm chủ yếu của Hoàng Cầm trong thời kháng chiến:

"Bài thơ Đêm Liên Hoan (377) được viết ra ngay trong những ngày đầu đi công tác. Hoàng Cầm và tôi diễn ngâm bài này rất nhiều lần trước hàng trăm, hàng ngàn Vệ Quốc Quân:

Đêm liên hoan đầu nhấp nhô như sóng bể ngang tàng.
Ta muốn thét cho vỡ tung lồng ngực
Vì say sưa tình thân thiết Vệ Quốc Đoàn.

Biết bao nhiêu Vệ Quốc Quân "lao đầu vào giặc" sau khi nghe những lời thơ đầy hào khí và thân thiết này:

Trong tiểu đội của anh
Những ai còn ai mất?
Không ai còn, ai mất
Ai cũng chết mà thôi.
Người sau kẻ trước lao vào giặc
Giữ vững nghìn thu một giống nòi
Dù ta thịt nát xương phơi
Cái còn vĩnh viễn là người Việt Nam...

Ngoài bài thơ Đêm Liên Hoan soạn cho riêng tập thể chiến sĩ, Hoàng Cầm- cũng như tôi lúc đó- rất quan tâm tới người dân thường. Lúc đó tôi cũng đã đưa vào loại dân ca kháng chiến của tôi những hình ảnh anh thương binh, người mẹ già, người vợ hiền, đàn trẻ nhỏ... nhiều hơn là hình ảnh Vệ Quốc Quân. Hoàng Cầm, qua bài "Bên Kia Sông Đuống"
(378) cũng đưa ra một cách tuyệt vời những hình ảnh cô hàng xén răng đen, môi cắn chỉ quết trầu, cụ già phơ phơ tóc trắng, em bé xột xoạt quần nâu. (...) Những bài thơ kháng chiến như vậy đã được Hoàng Cầm và tôi diễn ngâm trong rừng sâu, trên đồi cao hay trong những hang đá dưới ánh đuốc bập bùng, có khi chỉ cách một đồn địch chừng vài ba cây số.

Vào khoảng đầu năm dương lịch 1948 tức là sắp sửa tới Tết âm lịch (...) Hoàng Cầm sáng tác thêm một bài thơ nhan đề "Tâm Sự Đêm Giao Thừa" mà tôi cho là tuyệt vời. Hoàng Cầm đưa ra hình ảnh một người lính giữ nước, đang đứng gác trong một khu rừng vắng, giữa đêm giao thừa (...) Bài thơ kết thúc với những câu thơ vẫn vô cùng thân yêu và đầy hào khí như trong những bài thơ khác của Hoàng Cầm:

Cha con ăn Tết lập công
Cho sữa mẹ chẩy một dòng nghìn thu.
Cha đem cái chết quân thù
Làm nên sức sống bây giờ của con. (...)

Phải ghi nhận một điều rất quan trong là tác dụng của bài thơ. Nó đã có khả năng diệt giặc hơn cả những võ khí tối tân lúc đó như SKZ (súng không giật) hay bazooka vân vân...

Trong ba lô của bất cứ một Vệ Quốc Quân nào cũng đều có những bài thơ chép tay của Hoàng Cầm. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp không thể nào thành công nếu không có những tác phẩm văn nghệ như những bản nhạc của Văn Cao, và những bài thơ của Hoàng Cầm, Quang Dũng (...) Còn nhớ có một lần, tôi và Hoàng Cầm ngâm bài thơ [i]Đêm Liên Hoan
cho bộ đội nghe 15 phút trước giờ tấn công đồn địch. Sau đó một anh bộ đội đã nói: "Tôi vào giữa đồn mà vẫn còn nghe tiếng ngâm thơ của các anh văng vẳng ở trong đầu". Thế mới biết sức mạnh của văn nghệ"
(379).

_____________________

(371) Đêm liên hoan, thơ Hoàng Cầm.

(372) Đường ta ta cứ đi, Hoàng Cầm văn xuôi, trang 151-161.

(373) Tiếng Pháp đặt thay Việt ngữ: tên gọi là đập Thác Huống (Chú thích Hoàng Cầm).

(374) Đường ta ta cứ đi, Hoàng Cầm văn xuôi, trang 151-161.

Trong năm 1947, Phạm Duy đã sáng tác hơn 20 ca khúc: Nhạc Tuổi Xanh (Phú Thọ), Về đồng hoang (Phú Thọ), Đường về quê (Bắc giang) Thanh niên ca, Thanh niên quyết chiến (Yên bái), Khởi hành (Tuyên Quang), Thiếu sinh quân, Dân quân du kích, Ngọn trào quay súng (Bắc Giang), Việt Bắc, Đường Lạng Sơn (Lạng Sơn), Nhớ người thương binh (Vĩnh Yên), Dặn dò (Bắc Giang), Ru con (Thái Nguyên), Mùa đông chiến sĩ (Thái Nguyên), Nhớ người ra đi (Thái Nguyên), Bên ni bên tê (Tuyên Quang), Tiếng hát trên sông Lô (Tuyên Quang), Nương chiều (Lạng Sơn), Bên cầu biên giới (Lào Kai). Sau khi chia tay Hoàng Cầm, xuống Bình Trị Thiên, Phạm Duy sáng tác ba tác phẩm hay nhất thời kháng chiến của ông: Quê nghèo (Quảng Bình 1948), Bà mẹ Gio Linh (Gio Linh, 1948), Về miền trung (Đại Lược, 1948).

(375) Phạm Duy sinh ngày 5/10/1921- Hoàng Cầm 22/2/1922.

(376) Phạm Duy, Hồi ký Thời Cách mạng Kháng chiến, trang 126-128, Phạm Duy Cường, California, 1989.

(377) Hoàng Cầm sáng tác tháng 10/1947.

(378) Hoàng Cầm sáng tác tháng 4/1948.

Về Đầu Trang Go down
Sponsored content




Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 9 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 9 I_icon13

Về Đầu Trang Go down
 
Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê
Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Similar topics
-
» Giai thoại văn học Việt Nam
» Nguyên Sa - Thuỵ Khuê
» Việt Sử Giai Thoại - Tập 1 - Nguyễn Khắc Thuần
» Việt Sử Giai Thoại - Tập 5 - Nguyễn Khắc Thuần
» Những Giai Thoại về Các Vị Tam Nguyên
Trang 9 trong tổng số 19 trangChuyển đến trang : Previous  1 ... 6 ... 8, 9, 10 ... 14 ... 19  Next

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
daovien.net :: TRÚC LÝ QUÁN :: Tài Liệu-