Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesVietUniĐăng kýĐăng Nhập
Bài viết mới
Những Bài Giảng Hay Thầy Thích Pháp Hoà by mytutru Yesterday at 20:28

Thơ Nguyên Hữu 2022 by Nguyên Hữu Yesterday at 20:15

Hơn 3.000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu by phambachieu Yesterday at 16:18

BÊN GIÒNG LỊCH SỬ 1940-1965 - LM CAO VĂN LUẬN by Trà Mi Yesterday at 10:41

TRUYỆN KIỀU CÓ TRƯỚC ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH, VÀ LÀ CỦA VIỆT NAM ??? by Trà Mi Yesterday at 10:27

Lục bát by Tinh Hoa Yesterday at 07:21

PHÁP VIỆN MINH ĐĂNG QUANG TĂNG NI & Đại Chúng by mytutru Yesterday at 00:55

SƯ TOẠI KHANH (những bài giảng nên nghe) by mytutru Sat 16 Mar 2024, 20:15

Xem tướng mạo đàn ông ngoại tình, lăng nhăng by Trà Mi Sat 16 Mar 2024, 10:05

Putin dối trá khi trả lời Tucker Carlson by Trà Mi Fri 15 Mar 2024, 11:39

Trang thơ Tú_Yên (P2) by Tú_Yên tv Fri 15 Mar 2024, 11:20

Chùm thơ "Có lẽ..." by Tú_Yên tv Fri 15 Mar 2024, 11:09

Thơ Tú_Yên phổ nhạc by Tú_Yên tv Fri 15 Mar 2024, 11:07

7 chữ by Tinh Hoa Fri 15 Mar 2024, 03:27

Một thoáng mây bay 12 by Ai Hoa Thu 14 Mar 2024, 09:55

BẮT CÁ TRỜI MƯA by Phương Nguyên Wed 13 Mar 2024, 20:48

5 chữ by Tinh Hoa Wed 13 Mar 2024, 07:56

Tiến Trình Tu Học Phật - Thành Phật by mytutru Mon 11 Mar 2024, 23:17

Tập Mỗi Ngày by mytutru Mon 11 Mar 2024, 22:48

Lan ĐV 8 by buixuanphuong09 Mon 11 Mar 2024, 11:06

SẦU LY BIỆT by Phương Nguyên Mon 11 Mar 2024, 08:02

LỀU THƠ NHẠC by Phương Nguyên Sun 10 Mar 2024, 08:39

MỪNG NGÀY 08.03 by Phương Nguyên Sun 10 Mar 2024, 08:21

Chỉn by Trà Mi Sat 09 Mar 2024, 12:30

Lỗi 404 by mytutru Fri 08 Mar 2024, 11:09

Thể Tánh Muôn Loài by mytutru Tue 05 Mar 2024, 23:44

5-8-8-8 by Tinh Hoa Tue 05 Mar 2024, 03:32

Còn mãi duyên thầy by buixuanphuong09 Mon 04 Mar 2024, 13:37

Con Đường Tâm Mytutru TKN Đào Liên by mytutru Sat 02 Mar 2024, 12:09

Hoa Sen Ao Sen by mytutru Sat 02 Mar 2024, 08:27

Tự điển
* Tự Điển Hồ Ngọc Đức



* Tự Điển Hán Việt
Hán Việt
Thư viện nhạc phổ
Tân nhạc ♫
Nghe Nhạc
Cải lương, Hài kịch
Truyện Audio
Âm Dương Lịch
Ho Ngoc Duc's Lunar Calendar
Đăng Nhập
Tên truy cập:
Mật khẩu:
Đăng nhập tự động mỗi khi truy cập: 
:: Quên mật khẩu

Share | 
 

 Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Chuyển đến trang : Previous  1, 2, 3, 4 ... 11 ... 19  Next
Tác giảThông điệp
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 3 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 3 I_icon13Tue 31 Oct 2017, 09:12



● Nguyễn Sơn và vùng văn nghệ tự do Khu Bốn, từ 1948 đến 1951

Đối với những văn nghệ sĩ sống gần tướng Nguyễn Sơn (1908-1956) ở Khu Bốn, như Phạm Duy thì Nguyễn Sơn là một khuôn mặt huyền thoại (59). Làm Tư lệnh Quân Khu Bốn (60) Nguyễn Sơn đã để họ tự do sáng tác. Nguyễn Tiến Lãng (61), sau khi ra tù, được phái làm thư ký riêng cho Nguyễn Sơn, mô tả (62) vị tướng này như một người hiếu học, lãng mạn, yêu văn chương, cô đơn và bí mật. Nhưng đối với những người sống ở Việt Bắc, gần Trung Ương như Lê Đạt, thì Nguyễn Sơn chẳng có tài cán gì. Vậy sự thực Nguyễn Sơn là ai?

Đáng tin cậy nhất có lẽ là chân dung do Hoàng Văn Chí, anh rể Nguyễn Sơn viết, ở chương XI, cuốn Từ thực dân đến cộng sản, xin lược trích sau đây:

"Nguyễn Sơn tên thật là Vũ Văn Bác, sinh tại làng Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh; bên Tầu ông lấy tên là Hồng Thủy. Con một nhà nho tham gia Đông Kinh Nghiã Thục. 1925, đang học trường Sư phạm Hà Nội, vì theo phong trào sinh viên bãi khoá, nên bị truy nã, phải trốn sang Tàu và được vào học trường quân sự Hoàng Phố. Là người Việt Nam duy nhất tham gia Quảng Châu Công Xã, trở thành đảng viên đảng Cộng Sản Trung Hoa. Nổi tiếng về tài lãnh đạo quân sự trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh (1934-1936), được bổ làm tùy tướng cho Bành Hoài Đức, chỉ huy trưởng Đệ Bát Lộ Quân. Nguyễn Sơn là một trong bảy tướng còn sống sót của Quảng Châu Công Xã và một trong 18 tướng sống sót sau cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Vì vậy, năm 1949, sau khi Mao Trạch Đông toàn thắng, Nguyễn Sơn được tuyên dương là "Anh Hùng Dân Tộc" của Trung Quốc.

Cuối 1945, Nguyễn Sơn đang ở Diên An, gặp một ký giả Canada vừa từ Hà Nội qua, báo tin Việt Nam đã tuyên bố độc lập, nhưng Pháp vẫn tấn công, mưu chiếm lại. Nhà báo này nói đã gặp vị chủ tịch chính phủ lâm thời, một ông già biết nói tiếng Anh tên là Hồ Chí Minh. Đoán chắc Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Sơn bèn xin lãnh đạo Trung Quốc cho phép hồi hương chống Pháp. Mao Trạch Đông giữ lại, nhưng Nguyễn Sơn cứ nằng nặc đòi về, nên Mao cũng thuận cho về, làm giấy tờ chứng nhận Nguyễn Sơn và Nguyễn Khánh Toàn là nhân viên phái đoàn Trung Cộng từ Diên An xuống Trùng Khánh để điều đình với chính phủ Trung Hoa dân quốc, rồi nhân dịp đó trốn xuống Hoa Nam, về Việt Nam.

Vì quyết tâm về nước kháng chiến, nên ngay khi về, Nguyễn Sơn đã bị Trung Cộng phê bình là nặng tinh thần quốc gia, nhẹ tinh thần quốc tế. Có lẽ ông Hồ Chí Minh cũng phê bình Nguyễn Sơn như vậy, nên đầu năm 1946, khi Sơn về tới Hà Nội, ông Hồ không thèm tiếp và các lãnh tụ cộng sản khác cũng lạnh nhạt. Nhưng vì Pháp tấn công mỗi ngày một mạnh ở miền Nam và cộng sản Quảng Ngãi bất chấp lệnh, giết bừa bãi, nên ông Hồ phái Sơn vào Khu Năm (miền nam Trung Việt) với nhiệm vụ đình chỉ chém giết và điều khiển công việc chống Pháp. Sau đó Sơn được đổi ra Khu Bốn (miền bắc Trung Việt) làm "Khu phó" phụ trách huấn luyện quân đội. Chẳng bao lâu, khu trưởng là Thiết Hùng bị mất chức vì liên can đến một vụ buôn thuốc phiện lậu, nên Sơn được cử lên thay thế. Nhờ hai mươi năm kinh nghiệm hành quân, nên Nguyễn Sơn được quân đội Khu Bốn rất mến phục. Lại có tâm hồn nghệ sĩ và tận tâm giúp đỡ văn nghệ sĩ, nên Nguyễn Sơn cũng được giới văn nghệ sĩ hết sức hâm mộ.

Năm 1948, ông Hồ phong Võ Nguyên Giáp làm đại tướng và Nguyễn Sơn làm thiếu tướng, khiến Sơn khó chịu vì Sơn chê Giáp "i-tờ" về quân sự. Sự thực thì Giáp chỉ là sinh viên trường Luật, được huấn luyện qua loa về du kích chiến trong một khóa do quân đội Mỹ mở ở Tinh Tây, hồi thế chiến thứ hai.

Tuy nhiên, mối bất hoà lớn giữa Nguyễn Sơn và các lãnh đạo, không phải vì kèn cựa địa vị mà vì Sơn phản đối việc xin viện trợ Trung Quốc, vì Sơn cho rằng hễ nhận viện trợ của Trung Quốc thì sẽ mất hết chủ quyền. Theo Sơn, hồi chiến tranh chống Nhật, Mao không thèm xin viện trợ Nga, cứ để Nga tiếp tế cho Tưởng Giới Thạch. Nên tự lực kháng chiến, đánh Pháp bằng vũ khí thu được của Pháp, tuy gian lao nhưng không bị lệ thuộc bất cứ ngoại bang nào. Sau một cuộc thảo luận to tiếng với ông Hồ, Sơn bực mình, nhắm hướng bắc, đi thẳng sang Trung Quốc (63). Vì đã được tôn là "Anh Hùng Dân Tộc", nên từ Lạng Sơn đến Bắc Kinh, qua các tỉnh, Sơn đều được tiếp đón trọng thể. Nhưng ông Hồ đã điện sang Bắc Kinh, bá cáo với ông Mao là Sơn vô kỷ luật, và Võ Nguyên Giáp cũng bắt quân đội Việt Minh học tập một tài liệu đặc biệt, tả Sơn là một cán bộ "điển hình xấu".

Vì bị ông Hồ bá cáo trước, nên khi tới Bắc Kinh, Sơn phải đi chỉnh huấn ngay. Sau chỉnh huấn, Sơn tình nguyện đi học Đại Học Quân Sự ở Nam Kinh, do chuyên viên Nga dạy về chiến thuật quân sự hiện đại. Năm 1956, Sơn bị ung thư dạ dầy và khi biết mình sắp chết, xin phép mang vợ con về Việt Nam. Hai ngày sau khi về tới Hà Nội, Sơn chết và Võ Nguyên Giáp phải đi đưa đám. Những người quen biết Nguyễn Sơn đều công nhận ông có tinh thần quốc gia mặc dầu suốt đời tranh đấu trong hàng ngũ cộng sản" (64).

Heinz Schütte, trong bài đã dẫn, cho rằng: Trung Quốc chỉ cho "mượn" Nguyễn Sơn và chính Nguyễn Sơn cũng miễn cưỡng về Việt Nam, việc ông trở lại Trung Quốc đã được thoả thuận ngay từ đầu. Nhưng thông tin của Hoàng Văn Chí có lẽ đúng hơn, vì Hoàng là anh rể Nguyễn Sơn, nên biết rõ những uẩn khúc chỉ trong gia đình mới biết: Nguyễn Sơn xin về Việt Nam vì tin Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc, như hầu hết mọi người Việt (65). Nguyễn Sơn chống lại việc nhận viện trợ của của Tàu, sự kiện này một số người biết nhưng không dám nói ra. Sau cùng, vì sự hiềm khích với Võ Nguyên Giáp, nên sau khi Nguyễn Sơn bỏ đi, Giáp cho quân đội học tập Sơn là điển hình xấu, để xoá huyền thoại về Nguyễn Sơn, việc này giải thích tại sao những người ở gần trung ương, như Lê Đạt, có định kiến không tốt về Nguyễn Sơn.

Tuy Nguyễn Sơn không ảnh hưởng đến phong trào NVGP nhưng ông cũng tạo cho văn nghệ sĩ một khoảng trời tự do sáng tác, ít nhất từ 1948 đến 1951, trước khi ông trở lại Trung Quốc.

Trong thời gian này, những trí thức và văn nghệ sĩ tên tuổi như Tô Ngọc Vân, Sĩ Ngọc, Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu... đã lên tiếng phản đối chính sách lãnh đạo tư tưởng của Trường Chinh. Nhưng bản thân Nguyễn Sơn là một mâu thuẫn: ông chủ trương tự do sáng tác, nhưng ông cũng là người đầu tiên đem phương pháp chỉnh huấn của Mao vào Việt Nam.
______________
(59) Phạm Duy, Hồi ký II, Thời cách mạng kháng chiến, Phạm Duy Cường, California, 1989.
(60) Quân Khu Bốn: từ Thanh Hoá đến Thừa Thiên.
(61) Con rể Phạm Quỳnh, bị bắt cùng với Phạm Quỳnh năm 1945.
(62) Nguyễn Tiến Lãng, Les chemins de la révolte - Những nẻo đường nổi dậy, Amiot-Dumont, Paris, 1953; Ý Việt, Paris, 1989.
(63) Theo Heinz Schutte, Nguyễn Sơn trở lại Trung Quốc năm 1951.
(64) Lược trích Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản, Chân trời mới, Paris 1962, trang 173-177.
(65) Sự thực Hồ Chí Minh không phải là người viết những văn bản ký tên Nguyễn Ái Quốc, xin xem phần "Phân tích văn bản Nguyễn Ái Quốc", ở chương 18, 19.

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 3 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 3 I_icon13Thu 30 Nov 2017, 10:24


● Sự đối lập giữa Trường Chinh và Nguyễn Hữu Đang


Khảo sát bị kịch Nhân Văn, ta thấy rõ sự đối lập giữa hai nhân vật: Nguyễn Hữu Đang và Trường Chinh, cả hai đều được Hồ Chí Minh tin dùng. Trường Chinh là Tổng Bí Thư từ 1941 đến 1956, còn Nguyễn Hữu Đang là ai?


Vì bất đồng ý kiến với Trường Chinh, năm 1948, Nguyễn Hữu Đang đã bỏ Đảng. Nhưng sau 1954, ông lại được Đảng gọi về và đến tháng 8/56, ông được cử ra tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày và trở thành nhà lãnh đạo phong trào NVGP.


NVGP chống lại toàn bộ chính sách văn hoá văn nghệ của đảng Cộng Sản. Vì vậy, chúng ta cần tìm hiểu chính sách văn hoá văn nghệ ấy như thế nào? Nói đến đường lối văn hoá văn nghệ của đảng Cộng Sản là phải nói đến Trường Chinh, lý thuyết gia của Đảng, người soạn thảo những văn bản chính thức theo chỉ thị của Hồ Chí Minh.


● Trường Chinh


Trường Chinh Đặng Xuân Khu (1907-1988), nhà chính trị nhưng cũng là nhà báo, có viết văn, làm thơ dưới bút hiệu Sóng Hồng. Năm 1927, gia nhập Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội - tiền thân của đảng Cộng Sản. 1940, làm chủ bút báo Cờ Giải Phóng, cơ quan của Xứ Ủy Bắc Kỳ. Sau đó làm chủ bút tờ Sự Thật, cơ quan ngôn luận của đảng Cộng Sản. Từ tháng 5/1941 đến tháng 9/1956, làm Tổng bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam.


Đảng Cộng Sản thành lập tháng 2/1930. Từ tháng 9/1930 đến tháng 11/1945, lấy tên là Đảng Cộng Sản Đông Dương. Tháng 11/1945 Đảng "tự giải thể", rút vào bí mật. 1951, Đảng công khai trở lại với tên Lao Động và đến năm 1976, mới chính thức lấy tên là đảng Cộng Sản Việt Nam. Đảng này trải qua hai biến cố quan trọng:

Ngày 2/9/1945: Tuyên ngôn độc lập. Hơn hai tháng sau, ngày 11/11/1945, Đảng tuyên bố "tự giải tán", đổi tên thành Hội Nghiên Cứu Chủ Nghiã Mác ở Đông Dương. Chính phủ lâm thời tạm giấu cái gốc quốc tế cộng sản, lấy danh nghĩa Mặt Trận Việt Minh, để tập hợp mọi thành phần dân tộc cả quốc gia lẫn cộng sản trong công cuộc kháng chiến chống Pháp.

Hà Xuân Trường kể lại: "Đảng lúc bấy giờ, sau khi tuyên bố "tự giải tán", để chuyển thành Hội nghiên cứu chủ nghiã Mác ở Đông Dương (ngày 11/11/1945). Anh Trường Chinh lúc bấy giờ là Tổng bí thư Đảng, trưởng tiểu ban tuyên truyền của Trung ương, kiêm chủ bút (tức Tổng biên tập) tờ Sự Thật" (ra số 1, ngày 5/12/1945 ở Hà Nội)". (66)

Nguyễn Hữu Đang cho biết: "Vai trò của Hồ chủ tịch rất quan trọng. Cụ có thành lập Mặt Trận Việt Minh thì mới có Cách Mạng Tháng Tám. Nếu đảng Cộng Sản đứng ra vận động cuộc Cách Mạng Tháng Tám, tôi tin là không được kết quả như là Mặt Trận Việt Minh. Đó là một mặt trận gồm nhiều thành phần, nhiều tầng lớp tham gia cho nên phát triển mạnh, được nhân dân ta hưởng ứng hơn chứ còn nếu đảng Cộng Sản đứng ra thì vẫn bị hạn chế đấy". "Đảng Cộng Sản lúc bấy giờ có 5000 người chứ ăn thua gì đâu". (67)

Trường Chinh, được Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ viết đề cương, chỉ đạo đường lối văn hoá văn nghệ của Đảng Cộng Sản bằng hai văn bản: "Đề Cương Văn Hoá Việt Nam" (1943) Chủ Nghiã Mác Và Văn Hoá Việt Nam đọc tại Đại Hội Văn Hóa Toàn Quốc II, ở Việt Bắc, ngày 19/7/1948, văn 
bản này là nguồn gốc đoạn tuyệt giữa Trường Chinh và Nguyễn Hữu Đang.

Giá trị và ảnh hưởng của hai văn bản này đối với chế độ Cộng Sản, được Hà Xuân Trường so sánh với lập thuyết của Mao: "Chúng ta chỉ cần nghiên cứu Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943, báo cáo Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam năm 1948 của đồng chí Trường Chinh, và so sánh những văn kiện đó với phần "Văn hóa dân chủ mới" và "Tọa đàm văn nghệ ở Diên An" của Mao Trạch Đông thì rõ ràng khác nhau lắm, khác từ gốc, khác từ mục tiêu đến phương pháp nhận thức (...) Công tác văn hoá - văn nghệ lúc bấy giờ nằm trong sự chỉ đạo của Tiểu ban tuyên truyền do anh Trường Chinh đứng đầu. Anh Tố Hữu lúc này được Trung Ương giao trực tiếp tổ chức, chỉ đạo công tác văn nghệ". (68)

Vậy Trường Chinh là người chỉ đạo chính sách văn hoá văn nghệ kháng chiến. Tố Hữu, giữ nhiệm vụ tổ chức.

● Đề cương văn hoá Việt Nam

Bản Đề Cương Văn Hoá Việt Nam có 5 phần chính:
1- Cách đặt vấn đề.
2- Phân đoạn văn hoá VN.
3- Nguy cơ văn hoá dưới ách phát-xít Nhật, Pháp.
4- Xác định văn hoá cách mạng VN.
5- Nhiệm vụ của các nhà văn hoá mác-xít VN. (69)

Văn bản chính quy này xác định sự lãnh đạo văn hoá của Đảng: "đảng tiên phong phải lãnh đạo văn hoá tiên phong". Và định nghiã văn hoá theo quan niệm của Đảng: "Văn hoá bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật". Tóm lại, Đảng lãnh đạo: tư tưởng, học thuật và nghệ thuật.

Ở phần hai, Trường Chinh chia văn hóa Việt Nam làm ba giai đoạn một cách rất bất kỳ: Trước Quang Trung -tại sao lại Quang Trung?- là "phong kiến, nô lệ, phụ thuộc Tàu". Từ Quang Trung đến Pháp thuộc là "phong kiến, tiểu tư sản"; và từ Pháp thuộc đến 1943, là "phong kiến, tư bản, thuộc địa".

Tóm lại, có thể thay văn hóa bằng bất cứ một danh từ nào khác như: chính trị, kinh tế, giáo dục, pháp luật... cũng được.

Phần ba, Trường Chinh buộc tội: "những thủ đoạn phát-xít trói buộc văn hoá và giết chết văn hoá Việt Nam", để đi đến phần bốn, xác định: cách mạng văn hoá phải do Đảng lãnh đạo, và nền văn hóa được Đảng chọn là văn hoá xã hội chủ nghiã.

Phần năm, kê khai những nhiệm vụ cần kíp mà các nhà văn hoá mác-xít phải làm ngay: Đánh tan những quan niệm sai lầm của triết học Âu, Á có ít nhiều ảnh hưởng tai hại ở ta: triết học Khổng, Mạnh, Đê-các-tơ (Descartes), Béc-son (Bergson), Căng (Kant), Nítsờ (Nietzsche) v.v... Làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng. Chống chủ nghiã cổ điển, chủ nghiã lãng mạn, chủ nghiã tự nhiên, chủ nghiã tượng trưng v.v... Làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghiã thắng.

Bản Đề Cương Văn Hoá Việt Nam chính là nguyên nhân sâu xa của tình trạng suy đồi của văn hoá văn nghệ Việt Nam: bắt buộc sáng tác và phê bình phải theo con đường duy nhất phục vụ sự lãnh đạo độc tôn của đảng Cộng Sản. Triệt hạ những đường hướng tư tưởng khác. Triệt hạ tài năng cá nhân và tiêu diệt tự do sáng tác.


____________________________
(66) Hà Xuân Trường, Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học, tập II, trg 31.
(67) Nguyễn Hữu Đang, trả lời phỏng vấn RFI.
(68) Hà Xuân Trường, bđd, trang 46 và 41.
(69) Tiên Phong số 1, 10/11/45, Sưu tập trọn bộ Tiên Phong 1945-1946 của Lại Nguyên Ân, Hội Nhà Văn, 1996.
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 3 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 3 I_icon13Wed 26 Sep 2018, 08:00


● Nguyễn Hữu Đang

Nguyễn Hữu Đang (1913-2007) theo cách mạng từ buổi đầu, có óc tổ chức và tài hùng biện, Nguyễn Hữu Đang từng được coi là "cánh tay phải" của Hồ Chí Minh.

Năm 1929, Nguyễn Hữu Đang gia nhập Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội. Hoạt động đắc lực trong Hội Truyền Bá Quốc Ngữ từ 1938.

1937- 39, làm báo cùng Trường Chinh Đặng Xuân Khu và Trần Huy Liệu. 1943: Tham gia đảng Cộng Sản Đông Dương, liên lạc mật thiết với Tổng bí thư Trường Chinh và Thành ủy Hà Nội, nhưng chưa được kết nạp.

1943-46: Cùng Trường Chinh sáng lập và lãnh đạo Hội Văn Hóa Cứu Quốc. Được Hồ Chí Minh giao trách nhiệm tổ chức ngày tuyên ngôn độc lập 2/9/1945. Tham gia Chính phủ lâm thời, làm thứ trưởng Bộ Truyên Truyền, rồi Bộ Thanh Niên, Chủ tịch Uỷ Ban Vận Động Mặt Trận Văn Hoá. Tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc lần thứ nhất tại Hà Nội, "Khai mạc Đại hội văn hoá toàn quốc lần thứ nhất vào chiều 24/11/1946 có Bác Hồ đến nói chuyện (70)".

Nhưng mãi đến năm 1947, Nguyễn Hữu Đang mới được chính thức kết nạp vào Đảng. Và năm sau, 1948, ông rời mọi sinh hoạt của Đảng, lui về Thanh Hoá.

Từ vị trí được xem như "cánh tay phải của cụ Hồ", "trên cả Ủy Ban Kháng Chiến", tại sao năm 1948, Nguyễn Hữu Đang lui về Thanh Hoá?

Hoàng Cầm kể: "Vào khoảng tháng 7 năm 48, có Đại Hội Văn Hóa Toàn Quốc do ông Trường Chinh đề xướng và làm chủ tịch (...) đề ra Văn Nghệ Kháng Chiến (...) Trong hội nghị có mặt anh Nguyễn Hữu Đang. Sau hội nghị đó, không hiểu vì lý do gì thì anh Đang không làm công tác kháng chiến nữa, anh về Thanh Hóa, ở nhà người bạn là anh Trần Thiếu Bảo, giám đốc nhà xuất bản Minh Đức(...) hình như trong Hội Nghị Văn Hóa Toàn Quốc, anh Đang có mâu thuẫn về đường lối văn nghệ, văn hóa với ông Trường Chinh. Do mâu thuẫn không giải quyết được, cho nên anh Đang không làm việc nữa, anh nghỉ. Anh về Thanh Hóa (71)".

Vũ Tường phân tích: "Trong thời kỳ ban đầu Trường Chinh không thể chi phối được mọi hoạt động của Văn Hoá Cứu Quốc do đa số những người thực hiện là các trí thức có ảnh hưởng tư tưởng Dân Chủ Tư Sản. Do điều kiện kháng chiến, Việt Minh không thể thành lập bộ máy văn hóa riêng để áp đặt đường lối của mình. Mâu thuẫn đã bộc lộ ra giữa Nguyễn Hữu Đang và Trường Chinh ngay từ lúc tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Cứu Quốc toàn quốc tháng 10 năm 1946 và có thể nói kết thúc bằng Hội Nghị Văn Hóa toàn quốc lần thứ II xóa bỏ Văn Hoá Cứu Quốc thành lập Hội Văn Nghệ Việt Nam hoàn toàn theo quỹ đạo của đường lối văn nghệ Maois vào thời điểm tháng 7- 1948 (72)".

Vũ Tường có lý, bởi sự bất đồng ý kiến giữa Nguyễn Hữu Đang và Trường Chinh lộ rõ trong những bài Nguyễn Hữu Đang viết trên Tiên Phong năm 1945. Cách tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc I của Nguyễn Hữu Đang cũng bất chấp đường lối độc tôn của Đảng Cộng Sản (Xem chương 9, về Nguyễn Hữu Đang).

Tháng 7/1948 tại Việt Bắc có hai hội nghị: Hội Nghị Văn hoá Toàn Quốc II (15/7/48) do Trường Chinh chủ trì, đọc bài Chủ Nghiã Mác Và Văn Hoá Việt Nam, quyết định bỏ Hội Văn Hoá Cứu Quốc, lập Hội Văn Nghệ, Nguyễn Hữu Đang có tham dự.

Hội Nghị Văn Nghệ Toàn Quốc I, từ 23 đến 25/7/48, chính thức ra mắt Hội Văn Nghệ, Nguyễn Hữu Đang không tham dự. Sự đoạn tuyệt này có nhiều lý do, nhưng lý do chính đến từ nội dung bài Chủ Nghiã Mác Và Văn Hoá Việt Nam của Trường Chinh.

Vậy nội dung bản báo cáo này ra sao?

● Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam

Bản báo cáo Chủ Nghiã Mác Và Văn Hoá Việt Nam được nhà xuất bản Sự Thật in thành sách - Chúng tôi không có văn bản này. Phần VII, được in trên báo Văn Nghệ số 6 tháng 11/48, dưới tiêu đề "Mấy vấn đề thắc mắc trong văn học nghệ thuật (73)".

Bài "Mấy vấn đề thắc mắc trong văn học nghệ thuật" đặt trọng tâm trả lời những thắc mắc của người làm văn học nghệ thuật, đồng thời đưa ra những chủ đích:
1- Đồng hoá nghệ thuật với tuyên truyền và xác định: "Tuyên truyền của phe xâm lược, phản động là tuyên truyền phản chân lý. Tuyên truyền của phe cách mạng là tuyên truyền chân thật, phù hợp với chân lý rõ ràng".
2- Khẳng định khuynh hướng sáng tác: Hiện thực xã hội chủ nghĩa.
3- Chỉ ra đường lối "phê bình đúng nguyên tắc", "chú trọng đả kích tư tưởng, văn học, nghệ thuật phản động của địch".
4- Cho rằng "Quần chúng là nhà phê bình nghệ thuật sành hơn ai hết, chính vì quần chúng gồm nhiều tai, mắt, óc khôn và có cảm giác chung đấu lại. Không một nhà phê bình nào sánh được với quần chúng về mặt đó".
5- Chỉ 4 điều cho nhà văn noi theo, để "làm sao cho sáng tác văn nghệ được tốt".
6- Xác định sáng tác thi đua: "Đối tượng sáng tác văn nghệ của ta là nhân dân". "Sáng tác văn nghệ có cả một nguồn cổ vũ mạnh mẽ là phong trào thi đua".

Tóm lại, con đường văn học nghệ thuật của Đảng do Trường Chinh vạch ra năm 1948, gồm những yếu tố: Văn nghệ tuyên truyền. Văn nghệ thi đua. Hiện thực xã hội chủ nghĩa. Đả kích tư tưởng phản động của địch. Sáng tác cho nhân dân. Nhân dân làm chủ phê bình.

Là người làm văn hoá, dĩ nhiên Nguyễn Hữu Đang từ chối con đường văn nghệ này. Và trong kháng chiến, không chỉ có một Nguyễn Hữu Đang chống lại đường lối văn hoá văn nghệ của đảng, còn nhiều tiếng nói khác. Hoàng Trung Thông kể về Nguyễn Mạnh Tường và Trương Tửu:

"Cuộc tranh đấu tư tưởng duy nhất ở Liên Khu Bốn trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp là cuộc đấu tranh với một số quan điểm của Nguyễn Mạnh Tường. Trong một cuộc nói chuyện Nguyễn Mạnh Tường cho rằng văn nghệ ta như một cái chuồng nhốt các văn nghệ sĩ trong đó".

"Đồng chí Nguyễn Chí Thanh - bấy giờ là bí thư Đảng bộ Liên Khu Bốn, đã có ý kiến về những luận điểm tơ-rốt-kít của Trương Tửu trong buổi lễ kỷ niệm ngày thành lập đảng Cộng Sản Đông Dương. Trong cuộc đấu tranh chính trị năm 1952, Trương Tửu bị đưa ra phê phán gay gắt
(74)".

Hà Xuân Trường kể về Tô Ngọc Vân:

"Anh Tô Ngọc Vân tỏ ý không đồng tình về sự phân tích của đồng chí Trường Chinh về chủ nghiã "quy-bít". Nhưng anh Trường Chinh không trực tiếp trả lời, và tờ Sự Thật không lên tiếng, để tránh gây các mặc cảm không cần thiết đối với anh chị em văn nghệ đang đến với Đảng, và tự giác chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng. Bài viết của tôi thảo luận với anh Tô Ngọc Vân, ký tên Lê Trọng Lâm, lại đăng trên tạp chí Văn Nghệ".

Thái độ của Trường Chinh đối với những người chống đối rất khôn khéo: ông không ra mặt trả lời, chỉ khuyên cấp dưới "cần phải đấu tranh tư tưởng nhưng đừng nặng lời quá; vì lúc bấy giờ chúng ta đang cần phải đoàn kết để kháng chiến chống Pháp, mặc dầu đoàn kết không có nghiã là thủ tiêu đấu tranh (75)".

Tóm lại, đã có những người làm văn hoá văn nghệ bắt đầu thắc mắc về đường lối văn hoá văn nghệ của đảng Cộng Sản và lên tiếng phản đối ngay từ 1948. Những thắc mắc này càng lớn mạnh sau 1954, kết hợp thành sự phản kháng toàn diện trong phong trào NVGP.

Nguyễn Hữu Đang, bỏ về Thanh Hoá, cộng tác với nhà xuất bản Minh Đức từ 1948. Nhưng tại sao năm 1954, ông trở lại hoạt động? Mọi việc trong chế độ cộng sản không thể tình cờ, ngoài ra Trường Chinh mâu thuẫn với Nguyễn Hữu Đang, chưa chắc đã muốn Đang về. Vậy việc gọi ông trở lại phải do lệnh của Hồ Chí Minh. Hoàng Cầm kể: "Đến khi hòa bình lập lại, năm 1954, tôi cũng chỉ được nghe kể lại chứ không được chứng kiến, là như sau: Ông Trường Chinh có hỏi ông Tố Hữu: Anh Đang anh ấy đã không làm việc gì từ lâu rồi, từ mấy năm nay, thì bây giờ hòa bình thắng lợi rồi, ta phải mời anh ấy ra làm việc chứ. Thế là anh Tố Hữu cũng nghe theo và mời anh Đang ở Thanh Hóa ra (76)".

Nguyễn Huy Tưởng, là người được cử vào Thanh Hoá mời Nguyễn Hữu Đang. Và theo Hoàng Cầm, khi Nguyễn Hữu Đang ra, Tố Hữu đề nghị chức giám đốc Sở Văn Hóa Thông Tin Hà Nội, nhưng Nguyễn Hữu Đang từ chối, ngỏ ý muốn làm báo Văn Nghệ, Tố Hữu đành phải bằng lòng.

____________________________
(70) Hà Xuân Trường, bđd, trang 40.
(71) Hoàng Cầm trả lời phỏng vấn RFI.
(72) Lê Hoài Nguyên, bđd, trích Vũ Tường, Ngày nay cách mạng Đông Dương phải hiện nguyên hình: Bước ngoặt dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp và nội chiến Việt Nam vào năm 1948. Journal of Southeast Asian Studies, 40, 3/10/2009), 519- 542. Bản dịch tiếng Việt của Talawas số Mùa Thu chuyên đề Bao nhiêu chủ nghĩa dân tộc là đủ?
(73) In lại trong cuốn Cách Mạng kháng chiến và đời sống văn học, tập II, đổi tên thành "Mấy vấn đề cụ thể trong văn học và nghệ thuật".
(74) Trích bài Trên địa bàn văn nghệ khu Bốn và Việt Bắc, Hoàng Trung Thông kể, Tôn Phương Lan ghi, in trong Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học, tập I, Tác Phẩm Mới, 1985, trg 181-187.
(75) Hà Xuân Trường, bđd, trang 42-43.
(76) Hoàng Cầm trả lời phỏng vấn RFI.
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 3 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 3 I_icon13Tue 19 Mar 2019, 08:24


● Những thắc mắc

Hoàng Cầm trả lời phỏng vấn RFI: "Anh Đang về báo Văn Nghệ, nhưng anh Đang là người đặc biệt có tài tổ chức: trong kháng chiến anh ấy đã tổ chức Thanh Niên Xung Phong, tổ chức Mặt Trận Bình Dân Học Vụ, sau đó lại là tổ chức Hội Nghị Văn Hóa Toàn Quốc. (...) Vì anh ấy có tài tổ chức cho nên anh ấy tổ chức ngay hai cuộc phê bình trong văn học: Thứ nhất là cuộc phê bình tác phẩm Vượt Côn Đảo của Phùng Quán (...) Và tổ chức một lớp học tập chính trị, đầu đề tài liệu học tập là "Những tài liệu của Mác, Lê-nin, Staline nói về vấn đề văn nghệ".

Về không khí của lớp học này, Hoàng Cầm kể: "Buổi sáng học, buổi chiều làm việc cơ quan. Tôi nhớ học 18 ngày. Nhưng từ hôm mở lớp đến độ ngày thứ năm thì có cái mục gọi là liên hệ thực tế. Tất cả các văn nghệ sĩ ở các tỉnh hoặc đi tập kết về Hà Nội, thì họ đều nêu lên những thắc mắc, mà phải nói là những thắc mắc ghê gớm về vấn đề văn nghệ và lãnh đạo văn nghệ. Nó gần như là một cuộc tố khổ: các văn nghệ sĩ đều nói ra những thắc mắc về việc lãnh đạo địa phương, cả lãnh đạo trung ương nữa, đối với văn nghệ (...) Toàn là những thắc mắc mà anh em lôi ra từ thực tế trong kháng chiến và thực tế trong hòa bình lập lại".

Trong băng ghi âm Hoàng Cầm cho biết: Đến năm 1956, chúng tôi, tức là một số văn nghệ sĩ trí thức tự nhận thấy những trái ngược trong xã hội, những lý tưởng mà mình mang đi kháng chiến chống Pháp đều sụp đổ hết. Những nhà trí thức như Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường, cũng đều thấy chán nản, hụt hẫng, thấy bị rơi vào cái bẫy.

Georges Boudarel, trong Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam đặt trọng tâm trên hai chữ thắc mắc mà Hoàng Cầm dùng, theo ông đây là một thứ mây mù của ý thức, một kỹ xảo nói mà như không nói, một nghệ thuật không gọi sự vật theo tên của nó.

Hai chữ thắc mắc theo Boudarel, không thể dịch sang tiếng Pháp, là trung tâm của vấn đề:

Trong một nước mà cuộc đấu tranh chống thực dân, giành độc lập, bảo vệ truyền thống dân tộc, được phất lên dưới ngọn cờ của chủ nghiã Mác-Lê-Mao như một nghịch lý, thì thắc mắc là đứa con lai lạ lùng, sinh ra từ cuộc tình vừa nóng bỏng vừa tương phản vừa không thể thú nhận  được giữa quốc tế vô sản và lòng ái quốc cực đoan.

Chủ nghĩa cộng sản mà người ta du nhập vào đã thủ tiêu nhanh chóng mọi hình thức tự do phát biểu của xã hội dân sự kể cả những người ủng hộ nhiệt thành. Năm 1950, khi chủ nghiã Mao ào ạt tràn vào, với những đợt chỉnh huấn, phát hiện, tố giác, kiểm thảo, tự kiểm thảo... mang lại những hậu quả tai hại.

Nếu năm 1946, hầu hết mọi thành phần dân tộc đều đi theo kháng chiến chống Pháp, thì tới 1950, nhiều trí thức văn nghệ sĩ nổi tiếng trong đó có Phạm Duy, Vũ Hoàng Chương... đã không thể chịu được, họ phải quay "về thành".

Sự phản kháng của họ mang tính chất bi đát, bởi họ phải chọn lựa giữa hai con đường: hoặc tiếp tục chống thực dân Pháp thì phải theo chủ nghiã cộng sản Mao; hoặc chống cộng sản Mao thì phải vào vùng Pháp đóng. Bị xâu xé giữa, một bên là lòng yêu nước thúc đẩy họ phải chấp nhận tất cả để chiếm lại tổ quốc đã mất và một bên là cái vốn văn hoá Tây phương thúc đẩy họ đòi hỏi một thứ tự do không thể có được với đảng Cộng Sản. Người trí thức, những năm tháng ấy, vừa như sống một bản hùng ca, lại vừa chịu một bi kịch gậm nhấm từ bên trong.

Đại đa số thành phần dân tộc, trong đó có người trí thức, tìm cách hoà mình với đời sống mới, từ đó nẩy sinh những thắc mắc: Nền dân chủ cộng hoà, do Hồ Chí Minh tạo dựng, có mang lại độc lập thật sự cho nước Việt không?

Những người có thắc mắc trong lòng muốn tin vào lãnh đạo của họ nhưng trong thâm tâm vẫn không thể nào tin được. Chỉ biết là mình có những thắc mắc không thể nói ra. Cái hình thức đối lập bị dồn nén, sự phản kháng bị chôn vùi, chỉ được nói thầm, nói một nửa, đọc giữa hai hàng chữ, đoán ngầm những ngụ ý... trở thành một phần của đời sống Việt Nam dưới chế độ cộng sản. Và những vấn đề mở ra từ năm 1956, với NVGP, vẫn còn đúng với hôm nay
(77).

Những thắc mắc tạm ngủ yên trong chiến tranh, nhưng bùng lên sau 1954, và trong lớp học 18 ngày, Nguyễn Hữu Đang đã bắt mạch được tình thế, mạnh bạo đứng lên, đặt với lãnh đạo những câu hỏi cần thiết.

Đáp lời ông, văn nghệ sĩ trí thức cùng đứng lên xây dựng phong trào NVGP.

Trong tiểu thuyết Une voix dans la nuit - Tiếng vọng trong đêm, viết 37 năm sau, luật sư Nguyễn Mạnh Tường cho rằng Đảng giăng ra một chính sách quỷ quyệt đưa những trí thức dân chủ vào bẫy để bắt trọn ổ.

____________________________
(77) Tóm lược phân tích của Boudarel trong Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam từ trang 9 đến 20.
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 3 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 3 I_icon13Wed 20 Mar 2019, 08:02


● Từ xuân 1956 sang thu 1956

Có thể chia NVGP làm hai giai đoạn: Giai đoạn I gắn bó với Giai Phẩm Mùa Xuângiai đoạn II gồm toàn bộ những tờ báo phát hành từ tháng 8/1956 đến tháng 12/56.

Giai đoạn I: Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời cuối tháng 1/1956. Hơn một tuần sau, nhiều sự kiện quan trọng xẩy ra:
9/2/56, Tố Hữu sai người gọi Lê Đạt lên Tuyên Huấn.
16/2/56: Lê Đạt lên trình diện, bị giữ lại kiểm thảo 15 ngày. Hạ tuần tháng 2/56 có hai "đại hội":
- Đại Hội Tuyên Huấn luận tội Giai Phẩm Mùa Xuân.
Tố Hữu ra lệnh bắt Trần Dần, Tử Phác. Trần Dần dùng dao cạo cứa cổ, được đưa đến bệnh viện. Ngày 21/2/56 Trần Dần viết thư cho tướng Nguyễn Chí Thanh. Trần Dần, Tử Phác được tha ngày 5/5/56.

- Đại Hội Văn Nghệ, ở 51 Trần Hưng Đạo, khoảng 150 văn nghệ sĩ, chủ yếu đánh Trần Dần. Chiến dịch đánh Trần Dần trên báo bắt đầu ngày 7/3/1956 với bài viết của Hoài Thanh trên báo Văn Nghệ số 110. Giai phẩm bị dập tắt lần thứ nhất.

Giai đoạn II, khởi sự sau biến cố lớn ở các nước cộng sản và trong đảng Cộng Sản VN:
Ngày 24/2/1956, tại đại hội XX của đảng Cộng sản Liên Xô: Khrouchtchev đọc bản phúc trình mật về tội ác của Staline. Ngày 26/5/1956, Mao Trạch Đông phát động phong trào "Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng". Ngày 28/6/1956, Ba Lan nổi dậy. Những biến cố này ảnh hưởng trực tiếp đến chính quyền miền Bắc, luôn hành động rập theo đường lối Liên Xô - Trung Quốc: Đảng Lao Động mở rộng chính sách học tập tự do dân chủ - Lớp học 18 ngày trong tháng 8/1956. Đảng phát động chính sách Sửa Sai, sau cuộc Cải Cách Ruộng Đất 1953 -1956. Tại Hội Nghị Thứ X của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, từ 25/8/56 đến 24/9/56, Trường Chinh bị "nghiêm khắc kiểm điểm sai lầm" trong công tác Cải Cách Ruộng Đất, phải tự kiểm thảo và xin từ chức. Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương bị loại khỏi Bộ Chính Trị. Hồ Viết Thắng ra khỏi Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng. Hồ Chí Minh kiêm nhiệm hai chức Chủ tịch Đảng và Tổng bí thư từ 9/1956 đến 9/196078.

Võ Nguyên Giáp thay mặt Đảng, đọc bản "thú nhận" bảy sai lầm, đại ý:
1/ Phủ nhận thành tích của những người chống Pháp.
2/ Coi phú nông như địa chủ.
3/ Đả kích tràn lan, không phân biệt những người có công với cách mạng.
4/ Dùng những biện pháp trấn áp, đánh địch, tràn lan phổ biến.
5/ Làm sai phạm chính sách tự do tôn giáo.
6/ Không coi trọng phong tục tập quán địa phương (các vùng thiểu số).
7/ Không dùng giáo dục mà truy bức (tra tấn) để chỉnh đốn (79).

Từ cuối tháng 8 đến cuối tháng 11 năm 1956: không những Giai Phẩm Mùa Xuân được in lại mà còn ra tiếp 4 số nữa, tổng cộng là 5 số Giai Phẩm và 5 số Nhân Văn. Ngoài ra, còn có 1 số Đất Mới của sinh viên và 11 số Trăm Hoa của Nguyễn Bính, ra từ tháng 10/56 đến tháng 1/57; thêm báo Nói Thật của Hoàng Công Khanh và Tập San Phê Bình, xuất hiện tới cuối năm 1957. Cuối tháng 11/56, trên các báo Nhân VănGiai Phẩm, nhà xuất bản Minh Đức còn quảng cáo mời độc giả tìm đọc Tự Do Diễn ĐànSáng Tạo (chuyên về điện ảnh kịch trường). Rút cục Tự Do Diễn Đàn in xong bị cấm. Nhưng Văn, báo chính thức của Hội Nhà Văn, sang năm 57 vẫn còn in bài của những người trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, đến số 36, ra ngày 10/1/58, Văn mới bị đình bản vì đăng bài Ông Năm Chuột của Phan Khôi.

Cuộc Cách Mạng Mùa Thu Của Tư Tưởng đã xẩy ra.

Nhân Văn Giai Phẩm được phát triển trở lại cùng thời với vụ Sửa Sai Cải Cách Ruộng Đất và bị dập tắt bốn tháng sau, dưới thời Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Đảng kiêm Tổng bí thư. Vậy ai là người trách nhiệm chính?

____________________________
(78) Sau đó là thời kỳ Lê Duẩn làm Tổng bí thư, từ 9/1960 đến 7/1986, thời kỳ này xảy ra vụ Xét Lại Chống Đảng.

(79) Toàn văn in trên Nhân Dân số 970, ngày 31/10/1956, in lại trong Từ thực dân đến cộng sản của Hoàng Văn Chí, Chân Trời Mới, Paris 1962, trang 281-282. Sách có bản điện tử trên Talawas.
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 3 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 3 I_icon13Thu 21 Mar 2019, 10:44


● Ai trách nhiệm vụ Nhân văn giai phẩm?

Trả lời câu hỏi chủ tịch Hồ Chí Minh có trách nhiệm như thế nào về vụ NVGP, Nguyễn Hữu Đang tuyên bố: "Cái việc mà người ta cứ nói là việc nọ việc kia là người dưới làm chứ cụ Hồ không biết, cụ Hồ không thực tiễn làm, đó là một cách nói không đúng sự thật. Người ta thấy việc gì mà có dư luận kêu ca, thắc mắc thì không muốn để cái kêu ca thắc mắc đó hướng vào vị lãnh tụ mà người ta suy tôn tuyệt đối. Có thể nói là người ta thần thánh hóa cụ Hồ. Vì cái lý do nó là như thế. Thực chất thì cụ Hồ không phải là người bị vô hiệu hóa trong bộ máy lãnh đạo của đảng và của dân tộc. Cụ Hồ lúc nào cũng là người có đầy đủ quyền hành, lúc nào
cụ cũng sáng suốt, linh lợi, lúc nào cụ cũng có uy tín với dân và cũng có quyền đối với các đồng chí trong đảng, đối với những người lãnh đạo khác. Chắc bà cũng biết rằng những vị lãnh đạo khác của đảng, đối với cụ Hồ là học trò chứ không phải như ở các đảng Cộng Sản khác đâu. Cho nên uy tín của cụ Hồ, quyền hành của cụ Hồ bao giờ cũng rất vững, cụ Hồ biết hết cả, và việc đó cụ Hồ cũng đồng tình làm. Có thể nói tóm một câu là cho đến mấy năm sau cùng, vì cụ yếu cụ ít chăm nom công việc, cụ khoán cho Bộ Chính Trị, cụ ít can thiệp trực tiếp, chứ còn trước đó thì bất cứ việc gì cũng là trong phạm vi chỉ đạo của cụ cả. Hay cũng ở cụ, dở cũng ở cụ. Cụ phải gánh trách nhiệm, điều đó rõ ràng. Có khi nào một lãnh tụ tối cao đối với dân tộc, lãnh tụ tối cao của Đảng mà lại không có trách nhiệm về việc nọ, việc kia. Điều đó không đúng. Chế độ gọi là "báo cáo thỉnh thị" rất chặt chẽ trong nội bộ đảng Cộng Sản và trong bộ máy chuyên chính của nhà nước cũng thế, nghiêm ngặt lắm"
(80).

Nhận định trên đây của Nguyễn Hữu Đang phù hợp với một số nhận định khác của những người trong Đảng về vai trò của Hồ Chí Minh trong đời sống văn hóa văn nghệ. Hà Xuân Trường viết về vai trò của Đảng trong "Mặt trận văn hoá văn nghệ" và địa vị chỉ đạo của Hồ Chí Minh như sau: "Sự đầu tư công sức và tâm huyết của Đảng vào mặt trận này [tức "Mặt trận văn hoá văn nghệ"] là đáng kể: từ Bác, đến các anh Trường Chinh, Tố Hữu. Cần nhắc thêm vai trò của Bác và các ý kiến của Bác căn dặn giới báo chí và văn hoá - văn nghệ ngay từ buổi đầu này. Bác thường gửi bài cho báo Đảng, trên Sự Thật lúc ấy, cũng như trên tờ Nhân Dân sau này (81) dưới các bút danh ta đã quen thuộc: C.B82, X.Y.Z83, A.G (chúng tôi thường gọi Anh Già)... Điều đặc biệt là Bác viết rất ngắn và mỗi lần gửi bài cho báo, Bác thường viết luôn một loạt có đánh số thứ tự. Bác dặn anh em chúng tôi là đánh số như thế để cho bạn đọc và cả Bác dễ nhớ, bao giờ gần hết bài thì Bác chỉ cần xem trên báo là Bác biết để Bác kịp viết tiếp, "các chú không cần phải nhắc" (84). Và ông xác định vai trò của từng người trong giai cấp lãnh đạo:"Công tác văn hoá - văn nghệ lúc bấy giờ nằm trong sự chỉ đạo của Tiểu ban tuyên truyền do anh Trường Chinh đứng đầu. Anh Tố Hữu lúc này được Trung Ương giao trực tiếp tổ chức, chỉ đạo công tác văn nghệ. Tôi là người của Tiểu ban tuyên truyền, làm tờ Sự Thật, do vậy mà có trách nhiệm liên lạc giữa Trung ương và bộ phận văn hoá - văn nghệ, giữa anh Trường Chinh và anh Tố Hữu. Trách nhiệm chính là làm sao giúp Trung ương nắm tình hình văn nghệ, và từ góc độ báo Đảng, mà góp phần gợi giúp cho người văn nghệ mạnh dạn đi vào quần chúng, dần dần nắm hiểu đời sống, tham gia công tác cách mạng, và khắc phục từng bước các ảnh hưởng của cách nhìn và thói quen cảm xúc tiểu tư sản (...) Anh (Trường Chinh) còn cho biết thêm là bản báo cáo (Chủ Nghiã Mác Và Văn Hoá Việt Nam) tuy là do anh trực tiếp soạn thảo, nhưng đã được ban thường vụ
Trung ương thông qua và Bác đã xem và góp ý kiến"
(85).

Hoàng Trung Thông cũng cho biết: "Sau này tôi mới biết cuốn truyện về chiến sĩ thi đua đầu tiên là do Bác Hồ viết để làm mẫu cho những người khác viết theo" (86).

Tháng giêng năm 1956, Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời, thể hiện tự do sáng tác, bị dập tắt ngay. Vậy có thể hiểu là Trường Chinh đã giao cho Tố Hữu, người có tư thù với Hoàng Cầm, Trần Dần và Lê Đạt trong việc phê bình tập thơ Việt Bắc, xử lý vụ Giai Phẩm Mùa Xuân, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh.

Trong tháng 8 và 9 năm 1956, có hai sự kiện trùng hợp đáng kể: Đảng phát động Sửa Sai trong đại hội X và phong trào NVGP phát triển trở lại. Vậy quyết định cho phép Hội Văn Nghệ tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày, theo đường lối Liên Xô, trong tháng 8/1956, đến từ ai, nếu không là Hồ Chí Minh? Lớp học này do Nguyễn Hữu Đang phụ trách. Chọn Nguyễn Hữu Đang cũng là do Hồ Chí Minh bởi Trường Chinh và Nguyễn Hữu Đang là kình địch về mặt chính trị văn hoá. Vai trò của Nguyễn Hữu Đang sẽ nổi bật trong lớp học này và bài tham luận ông đọc ngày 26/8/56 tổng kết lớp học sẽ là cái mốc quan trọng đẩy mạnh tiến trình đòi hỏi tự do dân chủ, việc thành lập báo Nhân Văn và tục bản Giai Phẩm, tạo nên cuộc Cách Mạng Mùa Thu của Tư Tưởng.

Tháng 10/56 Hungary nổi dậy.

Tháng 11/56 xe tăng Xô Viết tiến vào Budapest.

Ngày 9/12/1956, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh bãi bỏ quyền tự do báo chí. Đóng cửa báo Nhân Văn. Nhân VănGiai Phẩm bị dập tắt, lần thứ nhì, tháng 12/56.

Tháng 2/57 trong Đại Hội Văn Nghệ Toàn Quốc II, họp từ 20 đến 28/2 tại Hà Nội, Trường Chinh kêu gọi đấu tranh "đập nát âm mưu phản động" của nhóm NVGP.

Năm 1957, Hồ Chí Minh đi thăm Liên Xô và Mông Cổ, ghé Bắc Kinh để học tập chính sách của Mao Trạch Đông đánh phái hữu (87). Huy Cận và Hà Xuân Trường cũng được cử đi học tập chính sách của Trung Quốc. Khi họ trở về, tháng 2/58 việc thanh trừng NVGP được tổ chức quy mô và toàn diện trong hai lớp đấu tranh Thái Hà.

____________________________
(80) Nguyễn Hữu Đang, trả lời phỏng vấn RFI, ngày 3/9/1995.

(81) Sau Sự Thật là Nhân Dân, số 1, ra ngày 11/3/1951.

(82) Theo Bùi Tín, CB là viết tắt hai chữ Của Bác.

(83) X.Y.Z chỉ thành phần Cố Nông, trong Cải Cách Ruộng Đất.

(84) Hà Xuân Trường, Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học, tập II, Tác Phẩm Mới, 1987, trang 44-45.

(85) Hà Xuân Trường, bđd, trang 41- 42.

(86) Hoàng Trung Thông, Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học, tập I, Tác Phẩm Mới, 1985, trang 191.

(87) Lê Hoài Nguyên, bđd.
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 3 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 3 I_icon13Fri 22 Mar 2019, 07:56

Chương 5
Nội bộ báo Nhân Văn

Nhân Văn Giai Phẩm do hai nhóm bạn cùng chí hướng hợp tác điều hành.

Theo Hoàng Cầm, ngay từ đầu năm 1955, Hoàng Cầm, Văn Cao, Lê Đạt, Trần Dần, Tử Phác, Đặng Đình Hưng, thường họp nhau, khoảng 5 giờ chiều, ở quán trà Phúc Châu của người Tầu ở phố Hàng Giầy88 để bàn chuyện văn nghệ. Chính tại quán này, họ đã bàn nhau ra một số báo Tết và đó sẽ là Giai Phẩm Mùa Xuân. Báo Nhân Văn không có trụ sở, "toà soạn" là căn nhà của Trần Thiếu Bảo thuê, rất lớn, có nhiều buồng để làm nhà xuất bản, ở 25 Phan Bội Châu, Nguyễn Hữu Đang ở gần đấy; tầng trệt để mấy máy in nhỏ, chỉ in lặt vặt, những tờ báo to như Nhân Văn, kể cả các tập Giai Phẩm cũng không in được, phải in ở nhà Xuân Thu của Đỗ Huân (89).

Lê Đạt, Hoàng Cầm chủ trương Giai Phẩm Mùa Xuân. Nhân Văn do Nguyễn Hữu Đang đề xướng, với Hoàng Cầm. Trương Tửu, Trần Thiếu Bảo chủ trương các tập Giai Phẩm.

Đó là những viên gạch nền móng, từ tháng 8 đến tháng 12 năm 1956, đã quy tụ được một số đông văn nghệ sĩ trí thức, họp thành phong trào NVGP.

Nhân Văn do Nguyễn Hữu Đang và Lê Đạt trách nhiệm bài vở. Giai Phẩm là một tập sách định kỳ, do Trương Tửu trông nom. Nhân Văn hướng về đấu tranh chính trị. Giai Phẩm đi vào chiều sâu của tư tưởng. Giai Phẩm xuất hiện trước, với Giai Phẩm Mùa Thu, tập I, ra ngày 29/8/56, nhưng Nhân Văn vẫn được coi là "đầu não" của phong trào. Hiện nay, chưa biết rõ nội tình Giai Phẩm vì Trương Tửu và Trần Thiếu Bảo cho đến lúc mất, đều không phát biểu gì. Về nội bộ Nhân Văn, một phần sự thật được thuật lại, nhờ tiếng nói của những thành viên chính. Những người viết cho Nhân Văn cũng đều có mặt trên Giai Phẩm và ngược lại.

Ngày 20/9/1956, Nhân Văn số 1 ra đời. Về mặt chính thức, tờ báo do Phan Khôi làm chủ nhiệm và Trần Duy, thư ký toà soạn. Nhưng thực sự, nội bộ báo Nhân Văn đã được cấu trúc như thế nào? Để dựng lại sự việc đã xẩy ra, chúng tôi dùng hai loại chứng:

- Loại thứ nhất: Gồm những lời tuyên bố của Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Duy, trên RFI; những bản "thú nhận" của các thành viên chính, viết trong đợt đấu tranh chống NVGP ở Thái Hà ấp, giữa tháng 3 và 4 năm 1958; và loạt băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè, ghi âm trong khoảng 1998-2008. Những lời "thú nhận" ưu tiên, vì đã được viết trong thời gian bi kịch xẩy ra, tại chỗ, trong khi những lời viết, tuyên bố, ghi âm sau này, qua nửa thế kỷ, có thể trí nhớ không trung thành.

- Loại thứ hai: Các bài đánh NVGP, phản ảnh chính sách đàn áp, bôi nhọ và các ngõ ngách bên trong của chế độ.

● Đôi lời về những bài "thú nhận"

Về những lời "thú nhận" cũng nên đặt câu hỏi: đã viết trong điều kiện như thế nào?

1- Viết trong đợt đấu tranh thứ nhì chống NVGP tại Thái Hà ấp, tháng 3 và 4/58, có 304 người dự (bối cảnh cả hai lớp Thái Hà sẽ đề cập đến trong chương 6)

2- Theo Lê Đạt, ở hội trường, mọi người đứng lên "phát hiện tội Nhân Văn". Và "Sau khi tất cả mọi người phát hiện các tội của Nhân Văn xong rồi, thì mới đến lượt Nhân Văn, từng người một, nhận tội". Rồi sau đó, các "Nhân Văn" về tổ của mình làm "bài khai". "Bài khai phải được tổ thông qua, và lại phải đưa ra hội trường thông qua nữa, thì anh mới được xong". Tức là mới được về.

3- Như thế, những "bài khai" được viết dưới áp lực của "đấu trường" kéo dài trong một tháng, và cũng là bài "tổng kết tội trạng" mà mỗi người phải tự mình viết ra. Trong khi viết, họ không được trao đổi với nhau, sau đó phải đọc trong tổ, tổ thông qua, rồi mới đọc cho hội trường nghe và duyệt. Vì những lẽ đó, họ khó có thể "khai man" (vì sợ bị so sánh tại chỗ với những lời khai của người khác).

4- Vì vậy, chúng tôi coi những bài thú nhận là những văn bản sớm nhất (viết từ tháng 3/58) về những việc thực sự đã xẩy ra trong thời kỳ NVGP (90). Chính Hoàng Cầm trong băng ghi âm, cũng coi bài khai khoảng 100 trang giấy học sinh của mình là cuốn "hồi ký" tự tố rất đúng về những gì xẩy ra trong thời kỳ này.

5- Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Trần Duy, "không được" dự lớp Thái Hà vì thuộc diện những "phần tử xấu". Vì vậy, không có bản "thú nhận" của họ. Lê Đạt cho biết: "Không phải là chị Thụy An, anh Trần Duy và ông Phan Khôi không chịu đi học. Ở đấy người ta chia ra: Những người nào hoạt động chính trị mà người ta cho là có tính chất phản động, là những phần tử xấu thì người ta "không cho" đi học lớp ấy: Phan Khôi, Thụy An, Trần Duy "không được" học. Chỉ có những văn nghệ sĩ mà người ta cho là những người vì quan điểm lầm lạc, được Ðảng chiếu cố cải tạo giúp đỡ, thì mới được đi học lớp ấy thôi. Cho nên đi học lớp ấy, gay go thế cũng là một "ưu tiên" "(91).

6- Văn bản "thú tội" phản ảnh tâm thức người viết: Qua những bài khai, Lê Đạt và Trần Đức Thảo giữ được phong độ của người trí thức: Chịu trách nhiệm việc mình làm. Không đổ lỗi cho người khác. Không gọi bạn đồng hành là tên, là nó, là bọn, tuy đó là cách phải gọi những người NVGP trong các lớp học tập. Văn bản "thú tội" phản ảnh không khí trù dập, đàn áp, xuống cấp và thù nghịch ở ấp Thái Hà và sức chịu đựng của từng người: Trong ba người bạn thân: Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, thì Lê Đạt có bản lãnh hơn cả.

7- Văn bản đánh NVGP cũng cho rất nhiều thông tin: nó phản ảnh không khí trù dập, đàn áp, vu khống, bức hại và tư cách của người viết: có người không thể từ chối, miễn cưỡng viết cho qua, có người ác tâm vụ lợi, đánh để tiến thân, lên chức.
_________________

(88) Theo Lê Đạt, tiệm trà Phúc Châu bây giờ là hàng phở Thắng, phố Tạ Hiền.

(89) Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.

(90) Những bài thú nhận của Trần Dần và Lê Đạt, được/bị trích đăng trên hai báo Văn Học số 1 (25/5/1958) và Văn Nghệ số 12 (5/58), những bài của Hoàng Cầm và Phùng Quán đăng trên Văn Nghệ số 12, bài của Văn Cao trên Văn Học số 3 (5/6/58), bài của Trần Đức Thảo trên Nhân Dân số 1532-1533 (23-24/5/58)... Tất cả đều trích in trong cuốn Bọn Nhân Văn Giai Phẩm Trước Toà Án Dư Luận.

(91) Lê Đạt trả lời RFI.

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 3 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 3 I_icon13Fri 29 Mar 2019, 14:41

Chương 5
Nội bộ báo Nhân Văn

● Ý định ra báo Nhân Văn

Ý định ra báo là của Nguyễn Hữu Đang. Nguyễn Hữu Đang thuyết phục Hoàng Cầm. Hoàng Cầm bàn với 5 người bạn trong Giai Phẩm Mùa Xuân: Trần Dần, Lê Đạt, Tử Phác, Văn Cao và Đặng Đình Hưng. Phần đông đều e ngại, không muốn cộng tác vì nghi ngờ Nguyễn Hữu Đang là người làm chính trị. Một mặt khác, sau vụ đàn áp Giai Phẩm Mùa Xuân, Trần Dần, Lê Đạt đều muốn nghỉ - chuyện gia đình, mới lấy vợ, có con. Hoàng Cầm nhận phụ trách phần văn nghệ, nhưng đến Nhân Văn số 2, Lê Đạt phải vào.

Hoàng Cầm kể trên RFI, 8/2/2008: "...thì lúc bấy giờ (xong lớp 18 ngày) anh Đang anh ấy mới nẩy ra một ý: Đang lúc văn nghệ sĩ có nhiều "thắc mắc" như thế này thì chúng mình nên ra một tờ báo. Tôi bảo: Ra báo thì phải có tiền, chứ tự nhiên ra thế nào được. Anh Đang bảo: Tiền thì tôi sẽ nhờ người bạn đi vay và chắc chắn chỉ vài số báo là đã có thể trả được... Đầu tiên tôi không nhận lời, vì lúc ấy tôi đang làm ở nhà xuất bản của Hội Văn Nghệ, nhiều công việc bận lắm. Nhưng mà anh ấy vẫn không tha. Anh ấy cứ bám riết lấy. (...) giữ riệt lấy tôi và thúc đẩy tôi. Thế rồi cuối cùng tôi cũng phải nhận lời. Bởi tôi cũng dễ tính và hay nể bạn".

Trong bài "thú nhận", tháng 3/1958, Hoàng Cầm viết:

"Bàn về tiền ra báo, tôi tán thành tên Tước (92) do Nguyễn Hữu Đang giới thiệu, bỏ tiền ra làm vốn. Tôi đã đi họp hai lần ở nhà tên Tước, lần đầu với Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang, Tước bàn về thể tài tờ báo. Tư tưởng tôi lúc đó phản đối mọi đường lối, chính sách của Đảng nên tôi nghĩ: Báo văn nghệ hay văn hoá xã hội cũng được, miễn là ra được, nhưng chỗ tôi biết hơn cả là mặt văn nghệ, thì tôi tự nhận phần văn nghệ, còn ngoài ra ai muốn viết về vấn đề gì, tôi cũng tán thành. Một lần nữa, có Nguyễn Bính, Đang, Tước bàn về tên tờ báo và mời Nguyễn Bính làm thư ký toà soạn, thì tôi nghĩ là “tên báo gì gì cũng được” miễn là có báo ra được" (93).
Như vậy, Nguyễn Bính đã có mặt trong những buổi họp trước khi ra báo Nhân Văn. Nhưng rút cục Nguyễn Bính không vào Nhân Văn mà làm tờ Trăm Hoa, bộ mới.

Lê Đạt, kể lại trên RFI như sau: "Trong buổi học tập văn nghệ đó (lớp 18 ngày), anh Ðang có đọc một bài tham luận rất hùng hồn về những sai lầm của lãnh đạo văn nghệ. Lúc đó Ðang có nói một câu với Nguyễn Ðình Thi -Nguyễn Ðình Thi lúc ấy là một trong những người chịu trách nhiệm tờ Văn Nghệ- Ðang nói rằng: "Thế nào tao cũng ra một tờ báo, tờ báo chưa biết tên là gì, tao thì không làm được nhưng để cho bọn Giai Phẩm Mùa Xuân nó làm (...) Ðến lúc ra báo Nhân Văn, cũng lại có nhiều khó khăn. Anh Dần muốn trực tiếp lo chuyện gia đình vì anh ấy gặp nhiều khó khăn quá: bị bắt, rồi lại phải lo cho con cái. Còn tôi lúc đó, tôi cũng muốn nghỉ. Anh Ðang lại không thuộc nhóm Giai Phẩm Mùa Xuân, anh Ðang là một cán bộ chính trị cũ, anh ấy chỉ biết tôi thôi, thế còn quan hệ với anh em Giai Phẩm Mùa Xuân, anh Đang lại không có. Mà các anh ở Giai Phẩm Mùa Xuân cũng không thích anh Ðang. Chúng tôi mới quyết định thế này: Anh Cầm đang rỗi rãi, bèn giao cho anh Cầm; tách anh Cầm ra làm việc chung với anh Ðang" (94).

Trong bài "thú nhận", tháng 3/1958, Lê Đạt viết:

"Sau thời gian lớp học 18 ngày, Nguyễn Hữu Đang cùng với Hoàng Cầm ra báo. Hoàng Cầm đặt vấn đề với nhóm Giai Phẩm Mùa Xuân. Văn Cao, Trần Dần, Tử Phác, Đặng Đình Hưng, Hoàng Cầm và tôi bàn ở tiệm trà Phúc Châu. Đa số đồng ý là không tham gia biên tập vì cho Nguyễn Hữu Đang không phải là người văn nghệ, có thể nhiều động cơ cá nhân không tốt, hai là tập họp anh em đông quá trong số đó có nhiều phần tử chạy theo, cơ hội không nắm chặt được, sợ manh động (viết lách ẩu, quá khích bị lãnh đạo đánh)" (95).

Trần Dần trong bài "thú nhận", viết:

"… Đến lớp học mười tám ngày, Nguyễn Hữu Đang từ lâu nằm phục xuống, nhờ cơ hội này đứng dậy phất cờ. Nếu không có Đang sẽ không có tham luận với những đề nghị: Gặp Trung ương, ra báo v.v… mà cũng sẽ không có tờ Nhân Văn. Tư tưởng chống đối trong tôi cũng ngóc dậy. Tuy đồng tình với Nguyễn Hữu Đang, song không đồng tình về phương pháp (...) Nguyễn Hữu Đang định kéo nhóm Giai Phẩm Mùa Xuân làm vốn cho hắn ra báo, đấu tranh với Đảng, vì từ lâu hắn đã ngửi thấy ở đó có vấn đề có thể kiếm chác được. Vấp phải sự rùng rằng (dùng dằng) không muốn tham gia của
nhóm Giai Phẩm Mùa Xuân (vì nhiều lẽ), hắn kéo lẻ từng
người. Đầu tiên là Hoàng Cầm (...) Đến khi Nhân Văn thông
qua bài số 1, tôi đến, thấy hỗn độn táp nham quá, mình dự
đây là dại, nên nửa chừng bỏ về. Lúc đó tôi đã nghi Nguyễn
Hữu Đang, cho là thằng quá tả, vấn đề gì cũng định đưa ra
công khai, tôi cho rằng hắn sẽ làm hỏng phong trào của lớp
học mười tám ngày thôi. Sẽ lại thất bại như hồi bộ đội. Nên
tôi tự đặt nhiệm vụ dùng Hoàng Cầm, Lê Đạt mà ghìm hắn
lại"
(96).

Trần Dần vì nghi kỵ Nguyễn Hữu Đang, không muốn tham dự, nhưng cũng không bỏ hẳn. Trong nội bộ Nhân Văn, từ đầu, đã có những bất đồng: Nguyễn Hữu Đang muốn mở rộng cuộc tranh đấu sang chính trị: đòi hỏi tự do dân chủ. Hoàng Cầm thế nào cũng được. Trần Dần chỉ muốn đòi tự do sáng tác. Lê Đạt giữ vị trí trung gian: Đồng ý với Nguyễn Hữu Đang về đấu tranh tự do dân chủ nhưng chỉ muốn thực hiện bằng con đường sáng tác.

Đó là những "khó khăn" mà Lê Đạt nói đến khi lập tờ Nhân Văn, nhưng không chỉ có những "khó khăn" nội bộ, mà
còn cả những khó khăn do áp lực bên ngoài. Một chủ trương "rầm rộ" như vậy, lãnh đạo không thể không biết. Và Trung Ương đã tìm cách khuyên nhóm Nhân Văn dẹp ý định làm báo đối lập, bằng cách nói riêng với từng người.
_________________

(92) là một người thân thuộc của nhà xuất bản Minh Đức.

(93) Hoàng Cầm, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958.

(94) Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.

(95) Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958, trg 74.

(96) Trần Dần, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, 5/1958, trang 61.
Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 3 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 3 I_icon13Sat 30 Mar 2019, 13:43


Chương 5
Nội bộ báo Nhân Văn

● Bộ Chính Trị gặp ba người chủ chốt khuyên nên bỏ ý định ra báo

Hoàng Cầm kể trên RFI: "Trước khi ra báo thì các anh em đã rậm rịch nói với nhau rồi, cho nên tin tức đều đến tai lãnh đạo cả. Thì lãnh đạo, tức là Bộ Chính Trị, đã bố trí cho ông Võ Nguyên Giáp mời Nguyễn Hữu Đang lên nói chuyện, mời riêng đấy. Còn ông Lê Đức Thọ, lúc bấy giờ cũng là Bộ Chính Trị, thì mời Lê Đạt và ông Lê Liêm lúc bấy giờ là Tổng Cục Phó Tổng Cục Chính Trị (về sau này ông ấy mới chuyển sang làm Thứ trưởng Bộ Giáo Dục), thì mời tôi. Như vậy là ba ông ủy viên bộ chính trị gặp những người chủ chốt của Nhân Văn, và nếu mà ba ông ấy thuyết phục được ba người đó đừng ra báo, thì thôi, coi như là yên ổn cả, không có chuyện gì. Ông Lê Liêm gặp tôi đến ba buổi tối trong nhà khách của quân đội, ông Giáp thì gặp anh Đang, ông Lê Đức Thọ gặp anh Lê Đạt, tất nhiên là để nói đến chuyện ra tờ báo, thì họ cũng lấy tình đồng chí, tình bạn bè, khuyên bảo, chứ không phải để ra lệnh gì. Ông Lê Liêm gặp tôi rất khiêm tốn, nói hết những cái Đảng có thể có những sai lầm này, sai lầm khác v.v... trong việc lãnh đạo văn nghệ. Tự ông ấy nói ra để cho mình hiểu và yên tâm là Đảng cũng biết đấy, để Đảng sửa dần, để cho mình muốn nói cái gì về
Đảng trên tờ báo của mình thì mình rút đi, rút lui cái ý kiến trên báo ấy đi. Mục đích của những cuộc gặp đó là như thế. Khổ một nỗi là lúc bấy giờ những "thắc mắc" của anh em văn nghệ nó ồn ã lắm. Mà nó nhiều cái sâu sắc lắm, cho nên
anh Đang anh ấy kiên quyết là không, cứ phải ra báo, phải ra báo thì mới nói được. Anh Đang kiên quyết ra báo. Tôi thì ra cũng được mà không ra cũng được. Thế là trong nội bộ của mấy anh em hoạt động nhất trong báo Nhân Văn là Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt và tôi cùng thống nhất với nhau là cứ ra. Thế là ra được Nhân Văn số 1"
(97).

● Mời Phan Khôi làm chủ nhiệm Trần Duy làm thư ký toà soạn

Việc mời Phan Khôi do Nguyễn Hữu Đang nghĩ ra. Lê Đạt kể: "Ðang bảo: Hay là mời cụ Phan Khôi? Mà cụ Phan Khôi cũng lại không thân gì với Ðang lắm. Thế là anh Hoàng Cầm được cử đến mời cụ Phan Khôi. Phan Khôi khẳng khái nhận lời ngay" (98).

Việc mời Trần Duy có hai ý kiến khác nhau, Trần Duy, nói trên RFI:

"Tôi không biết Trần Dần, tôi cũng không biết Hoàng Cầm. Mãi sau buổi họp ở 51 Trần Hưng Đạo, đưa bài Nhất định thắng của Trần Dần -hôm đó là cuộc hội rất lớn- kết tội bài đó (99). Tôi với ông Phan Khôi ngồi gần nhau (...) Người ta quy rằng Trần Dần như thế là ngã về địch, bị gián điệp (...). Ông Phan Khôi nói với tôi: Quy cho người ta là gián điệp, là chính trị, nhanh quá, rất nguy hiểm (...). Vì thế tôi không quen biết những người này nhưng vì ông Phan Khôi, tôi đứng trên quan điểm của ông Phan Khôi, tôi rất ủng hộ ông Trần Dần mà tôi không biết ông Trần Dần là ai cả. Tôi cũng không biết ông Hoàng Cầm. Tôi biết anh Lê Đạt vì tôi cùng về báo Văn Nghệ (...) Do ông Phan Khôi tôi biết nhóm Lê Đạt và Trần Dần (100).

Cũng về việc này, Hoàng Cầm viết trong bài "thú nhận", như sau:

"Chỉ có việc Nguyễn Hữu Đang mời tôi làm thư ký toà soạn là tôi không nhận, lý do chỉ vì sợ trách nhiệm, muốn đùn trách nhiệm cho người khác. Tôi đã đùn cho Trần Duy trong một buổi tình cờ gặp Trần Duy ở nhà Minh Đức. Tôi gọi nó lên gác nhà tên Đang, giới thiệu nó với tên Đang. Trần Duy nhận lời ngay"
(101).
_________________

(97) Hoàng Cầm, RFI, 8/2/2008.

(98) Lê Đạt trả lời RFI.

(99) Trần Duy muốn nói đến buổi "hội lớn" của Hội Văn Nghệ, đánh Trần Dần với 150 người dự. Trước đó là buổi Đại Hội Tuyên Huấn, cũng vào tháng 2/1956.

(100) Trần Duy trả lời RFI, tháng 7/2008.

(101) Hoàng Cầm, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958.

Về Đầu Trang Go down
Trà Mi

Trà Mi

Tổng số bài gửi : 7077
Registration date : 01/04/2011

Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 3 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 3 I_icon13Wed 03 Apr 2019, 13:22

Chương 5
Nội bộ báo Nhân Văn

● Ai quyết định nội dung bài vở báo Nhân Văn?

Trong bài "thú nhận", Lê Đạt viết: "Tôi tham gia Nhân Văn với ý thức là người lãnh đạo lý luận của tờ báo vì tôi cho tôi vững vàng hơn Nguyễn Hữu Đang. Ban biên tập lúc đó gồm bốn người: Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Hoàng Cầm và tôi" (102).

Vậy trong bốn người: Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Hoàng Cầm và Lê Đạt, ai quyết định nội dung tờ báo?

Trần Duy trả lời trên RFI:

"Tất cả bài vở là do Đang và Đạt quyết định và bài vở tập hợp vào tôi, khi thiếu bài hoặc mise mà không có thì bảo tôi làm cái remplissage lấp lỗ trống hoặc thu dọn bài này, bài nọ, trang mấy, trang mấy có tranh, thì bảo tôi làm. Sự thật ra quyết định bài vở phần lớn là Đang, quyết định nội dung bài là Đạt. Còn thầy cò thầy kiện là ông Văn Cao. Ông Trần Dần, ông Hoàng Cầm là đứng sau lưng. Người chủ động và trực tiếp với tôi là Lê Đạt, người chủ động bài vở là ông Nguyễn Hữu Đang. Tất nhiên là tôi không quyết định được bài vở rồi, nhưng có bài nào cần thiết thì Lê Đạt bảo: Ông viết đi, vấn đề này ông viết được, ông viết hộ tôi, ví dụ như tự do sáng tác hay là gì đó thì ông cứ viết, ông lại hơi có cái giọng humour thì ông làm cho tôi... không phải chuyện cười, những chuyện thời sự ông đi góp nhặt các nơi. Thì tôi phụ trách mục đó và tôi đề TD, là Trần Duy đó. Sau khi mise những bài chính rồi thì tôi là người lấp remplissage phần còn lại của tờ báo. Sự thực ra người ta không bao giờ hỏi ông Phan Khôi về một cái gì cả" (103).

Vẫn theo lời Trần Duy, Lê Đạt và Nguyễn Hữu Đang thường hay cãi nhau.

Vậy sự bất đồng ý kiến đó là gì?

Có phải về mục tiêu đấu tranh, hay là điều gì khác?

Lê Đạt viết trong bài "thú nhận":

"Về mục tiêu đấu tranh của Nhân Văn: Một mặt, lật đổ bộ phận lãnh đạo mà tôi cho là bè phái (đồng chí Tố Hữu, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi), một mặt nữa đấu tranh với Trung ương về tự do dân chủ, tôi tán thành nhưng vẫn muốn đấu tranh bằng hình thức văn nghệ. Lúc đó tôi có khuyên Hoàng Cầm nên đẩy mạnh mặt văn nghệ của tờ báo còn phần đấu tranh cho tự do dân chủ thì làm một phần nhẹ thôi". "Xét cho cùng lúc đầu tôi với Nguyễn Hữu Đang chỉ khác nhau về chiến thuật. Tuy không tham gia biên tập nhưng khi in số 1 thỉnh thoảng tôi cũng có đến" (104).

- Nhân Văn số 1, ra ngày 20/9/56, gồm các bài chính: Bài thơ Nhân câu chuyện mấy người tự tử của Lê Đạt, bài Tiến tới xét lại một vụ án văn học: Con người Trần Dần của Hoàng Cầm, bức tranh Nguyễn Sáng vẽ Trần Dần với vết sẹo trên cổ, và bài Luật sư Nguyễn Mạnh Tường trả lời về vấn đề mở rộng tự do dân chủ.

- Nhân Văn số 2, ra ngày 30/9/1956, với ba bài chính: Phấn đấu cho trăm hoa đua nở của Trần Duy, Đào Duy Anh trả lời về vấn đề mở rộng tự do dân chủ và bài Trả lời bạn Nguyễn Chương và báo Nhân Dân, do Nguyễn Hữu Đang viết, nhưng ký tên Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Duy.

- Nhân Văn số 3, ra ngày 15/10/1956, xác định rõ ràng đường lối tranh đấu cho tự do dân chủ với hai bài chính: Nỗ lực phát triển dân chủ của Trần Đức Thảo và Đặng Văn Ngữ trả lời về mở rộng tự do dân chủ.

Sau Nhân Văn số 3, có ba sự kiện quan trọng xẩy ra:
- Phan Khôi đi Trung Quốc.
- Trường Chinh tổ chức tọa đàm.
- Trần Duy lên gặp thủ tướng Phạm Văn Đồng.
_________________

(102) Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58, trang 75.

(103) Trần Duy trả lời RFI.

(104) Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58, trang 75.
Về Đầu Trang Go down
Sponsored content




Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 3 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê   Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê - Page 3 I_icon13

Về Đầu Trang Go down
 
Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc - Thuỵ Khuê
Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Similar topics
-
» Giai thoại văn học Việt Nam
» Nguyên Sa - Thuỵ Khuê
» Việt Sử Giai Thoại - Tập 2 - Nguyễn Khắc Thuần
» Việt Sử Giai Thoại - Tập 1 - Nguyễn Khắc Thuần
» Những Giai Thoại về Các Vị Tam Nguyên
Trang 3 trong tổng số 19 trangChuyển đến trang : Previous  1, 2, 3, 4 ... 11 ... 19  Next

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
daovien.net :: TRÚC LÝ QUÁN :: Tài Liệu-